Đền Bà Cô, phường Hưng Hòa, thành phố Vinh
Tín ngưỡng thờ Tổ Cô ở Nghệ An
Tổ Cô hay Bà Tổ Cô là những linh hồn linh thiêng, thường là phụ nữ qua đời khi còn trẻ, chưa lập gia đình và thường gặp phải tai nạn hay bệnh tật, dẫn đến cái chết đột ngột. Những người này thường còn lưu luyến gia đình, mang trong mình nhiều tâm nguyện và ước mơ còn dang dở. Họ vẫn có nhiều mối liên kết với người thân, khó lòng rời bỏ trần thế để đầu thai. Vong linh của họ chọn ở lại bên gia đình, theo dõi con cháu, phù trợ, bảo vệ những người thân trong gia đình, dòng họ khi gặp hoạn nạn hay tà ma quấy phá,... Không phải tất cả phụ nữ trẻ chết đi đều trở thành Tổ Cô. Chỉ những vong linh ở cõi âm có duyên với việc tu tập Phật giáo hay đạo Mẫu mới trở thành bà Tổ Cô. Tín ngưỡng này bắt nguồn từ chế độ mẫu hệ trong xã hội nguyên thủy. Từ xa xưa, khi con người phải dựa vào điều kiện tự nhiên để sinh tồn, vị trí và vai trò của người phụ nữ, người mẹ trong gia đình, cộng đồng luôn được tôn vinh, ca ngợi “Mẹ là chỗ dựa vật chất và tinh thần, tình cảm. Bởi lẽ đó mà hình tượng người mẹ được gắn liền với các hiện tượng tự nhiên như: mẫu Thượng Thiên, mẫu Thủy, mẫu Thượng Ngàn…”.
Ở Nghệ An, trong các nhà thờ họ, Tổ Cô luôn được dành một vị trí trang trọng để thờ phụng, có khi là một ban thờ riêng trong hệ thống các ban thờ, có khi ở Tả/Hữu vu hoặc ở một ngôi miếu trong khuôn viên nhà thờ. Tại các gia đình, Tổ Cô cũng được sắp xếp một ban thờ trang trọng. Mỹ tự của các Tổ Cô thường là Quế Anh công chúa, Quế Hoa công chúa, Quế Anh phu nhân.... Trong một số trường hợp đặc biệt, Tổ Cô được dân làng tôn làm phúc thần, được lập đền để thờ phụng và được các triều đại phong kiến ban tặng sắc phong, tiêu biểu như đền Bà Cô ở xã Hưng Hòa, thành phố Vinh, đền Bà Cô ở xã Nam Cát, huyện Nam Đàn...
Một số vị Tổ Cô đặc biệt
Tổ Cô có điểm chung là rất linh thiêng, trong số đó, có một số vị được khoác lên mình những lý lịch khá đặc biệt, tiêu biểu là:
Tổ Cô dòng họ Lưu: Có nhiều giai thoại khác nhau, tùy vào mỗi địa phương. Ở xã Xuân Lam, huyện Hưng Nguyên, Tổ Cô là giọt huyết sa bị cá chép nuốt vào bụng trong một lần bà mẹ ra sông gánh nước và bị ngã. Về sau, con cháu dòng họ Lưu mỗi khi ra khơi gặp sóng to, gió lớn đều thấy một con cá chép lớn nổi lên, đưa thuyền bè vào bờ an toàn. Sau đó, những người thoát nạn đều được báo mộng rằng: Con cá chép đó chính là hiện thân của giọt huyết sa năm nào. Từ đó, dòng họ Lưu xã Xuân Lam, huyện Hưng Nguyên ngày nay kiêng ăn cá chép và xem giọt huyết sa ấy là Tổ Cô của dòng họ. Tại xã Phú Thành, huyện Yên Thành và xã Nghi Tiến, huyện Nghi Lộc, Tổ Cô lại có tên là Lưu Thị Kim Nương, vốn là tiên nữ giáng trần, hết hạn phải về trời nhưng vì lưu luyến trần gian nên đã ở lại phù trợ cho dân làng. Bà thường hiển linh cho bùa và thuốc chữa bệnh mỗi khi người trong làng bị ốm đau, bệnh tật. Vì linh thiêng nên Tổ Cô được dân làng lập miếu thờ phụng với vị hiệu “Côn Sơn linh ứng, Kim Đức Thánh nương, tước phong Trai thục, tặng phong Trang huy, sắc phong Dực bảo trung hưng Thượng thượng thượng đẳng tối linh tôn thần điện hạ”. Hiện nay, dân gian vùng Nghi Lộc còn truyền tai nhau giai thoại kể về việc Tổ Cô họ Lưu hiển linh, chữa khỏi bệnh cảm cúm cho một vị công chúa triều Hậu Lê theo cha vào thị sát đoạn Kênh Sắt.

Bài vị cổ bằng chữ Hán của Tổ cô họ Lưu, huyện Yên Thành
Tổ Cô dòng họ Hoàng Đăng, xã Nam Cát, huyện Nam Đàn: Bà mất trúng ngày rằm tháng 2. Tương truyền, sau khi mất, bà hiện thân dưới hình hài con bướm, thường xuyên báo mộng cho dân làng về những việc sắp xảy ra, thấy linh thiêng, dân làng đã lập một ngôi đền bằng tranh tre để thờ phụng, gọi là đền Bà Cô. Tương truyền, khi Nguyễn Huệ đem quân ra Thăng Long, Ngài đã cho dừng chân tại dãy núi Đại Huệ để chiêu tập thêm quân sỹ nhưng không may bị dịch tả hoành hành. Nghe tin đền Bà Cô linh thiêng, Nguyễn Huệ đã lệnh cho quân sỹ đến đền thắp hương xin thuốc và khỏi bệnh. Nhà vua vui mừng bèn cho quan quân đến đền làm lễ tạ ơn. Bà còn được triều Nguyễn ban tặng sắc phong với mỹ tự “Quế Anh phu nhân”, gia tặng “Trang huy Thượng đẳng thần”.
Tổ Cô dòng họ Lê ở xã Hưng Hòa, thành phố Vinh: Tương truyền, bà là Quế Hoa Công chúa, con gái của Quốc vương Lê Tư Tề, cháu nội của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Trong một lần chạy loạn, bà đã chọn dừng chân ở vùng đất ở ven sông Lam để sinh cơ lập nghiệp. Tại nơi này, bà đã bỏ tiền của đào một con kênh (địa phương gọi là hói) gọi là hói Bà Cô, đắp đường Gon Tuần, giúp người dân vừa tránh được lũ lụt, vừa đi lại thuận tiện. Nhớ công ơn của Bà, dân làng đã xây dựng đền thờ để tri ân, thờ phụng, gọi là đền Bà Cô. Bà được các triều đại phong kiến ban tặng sắc phong với mỹ tự “Nhàn Uyển”, gia tặng “Trang Huy thượng đẳng thần”. Hiện nay, ngôi đền và phần mộ của bà đã được xếp hạng là di tích cấp quốc gia.
Như vậy, Tổ Cô không chỉ là người bảo trợ cho gia đình, dòng tộc mà nhiều vị còn có công lao với quê hương, đất nước theo nhiều cách khác nhau. Công lao ấy được cộng đồng dân cư thừa nhận và được các triều đại phong kiến ghi nhận bằng sắc phong như những vị thần khác. Và dù là thời đại nào thì các vị Tổ Cô vẫn luôn hiện hữu trong đời sống tâm linh của con người, hướng con người tới cuộc sống hạnh phúc, mạnh khỏe, bình an. Đây chính là cơ sở để tín ngưỡng này luôn tồn tại và phát huy trong mọi hoàn cảnh, mọi thời đại./.