Góc nhìn văn hóa

Từ Bà Tổ Cô đến nữ thần làng xã, hành trình nữ giới bước vào thế giới thiêng

Tục thờ Bà Tổ Cô là một hiện tượng đặc sắc trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt, phản ánh chiều sâu nhân văn và khả năng dung hợp linh hoạt giữa cấu trúc phụ quyềnniềm tôn kính dành cho người phụ nữ. Trong xã hội truyền thống, người phụ nữ chưa lập gia đình thường bị xem là chưa trọn đạo hiếu, không thực hiện thiên chức “nối dõi tông đường”, nên ít có vị trí trong hệ thống thờ tự.

Tuy nhiên, bằng niềm tin linh thiêng và tư duy nhân văn, người Việt đã tạo nên một hình thức tôn thờ đặc biệt đó là tục thờ Bà Tổ Cô, dành cho những người phụ nữ mất sớm mà có linh ứng, hóa thần phù hộ cho con cháu và cộng đồng. Hình tượng này thể hiện sâu sắc quan niệm về quyền năng âm tính, sự hóa thân của người nữ vào thế giới thiêng, một hành trình từ con người phàm tục trở thành nữ thần làng xã.

Nguồn gốc và ý nghĩa của tục thờ Bà Tổ Cô

Trong hệ thống thờ tự truyền thống, Bà Tổ Cô là những người phụ nữ trong dòng họ, thường là chị, em hoặc con gái của tổ tiên các đời, mất khi còn trẻ, chưa lập gia đình, hoặc qua đời trong “ngày thiêng, giờ thiêng”. Dân gian tin rằng họ mang linh khí, có khả năng phù hộ độ trì, “hiển linh báo mộng”, giúp con cháu “thi cử đỗ đạt, làm ăn phát đạt, sinh nở thuận hòa”...

Không phải phụ nữ chưa chồng nào mất cũng được thờ làm Bà Tổ Cô. Chỉ những người được xem là linh ứng, hiển linh nhiều lần mới được tách riêng bàn thờ, đặt cạnh ban tiên tổ trong nhà thờ họ.

Lê Quý Đôn từng ghi trong Phủ biên tạp lục: “Phàm trong họ có cô gái thác sớm mà chưa lập thất, người trong nhà đều kính lập bàn thờ riêng gọi là bà cô tổ, hằng năm lễ tiết đều có dâng hương hoa, khấn nguyện sự lành cho nữ nhi trong họ.”

Qua đó có thể thấy, tục thờ Bà Tổ Cô mang hai tầng ý nghĩa: Về tâm linh, là hình thức an ủi, hóa giải nỗi cô đơn của linh hồn nữ giới không nơi nương tựa trong cấu trúc phụ quyền. Về văn hóa, là biểu hiện của niềm tin âm - dương tương giao, nơi người nữ được thiêng hóa thành biểu tượng che chở, bảo hộ cho thế nhân.

Hình tượng Bà Tổ Cô vì thế trở thành biểu trưng cho phẩm hạnh hiền từ, linh thiêng và khả năng bảo trợ mang tính âm, thể hiện rõ “quyền năng mềm” của nữ giới trong không gian tâm linh của người Việt.

Từ tín ngưỡng họ tộc đến nữ thần làng xã

Khi sự linh ứng của Bà Tổ Cô vượt khỏi phạm vi gia tộc, người dân bắt đầu lập đền, miếu riêng để phụng thờ như nữ thần bảo trợ địa phương. Quá trình này đánh dấu bước chuyển quan trọng: từ tín ngưỡng họ tộc sang tín ngưỡng cộng đồng, và từ “Bà Tổ Cô” thành nữ thần làng xã.

Triều đình phong kiến, đặc biệt dưới thời Nguyễn, nhiều lần ban sắc phong, chính danh hóa các Bà Tổ Cô hiển linh, đưa họ vào hệ thống thần điện quốc gia. Ở Nghệ An, hiện còn lưu giữ nhiều sắc phong quý ghi nhận điều đó.

Một số trường hợp tiêu biểu:

Đền Bà Cô (trái) và cung thờ bà Tổ Cô họ Lê (phải) tại xã Trường Vinh

- Bà Quế Hoa công chúa họ Lê (xã Hưng Hòa, này là xã Trường Vinh). Theo truyền ngôn cho biết: Bà tên thật là Lê Thị Xuân, dòng dõi họ Lê từ Thanh Hóa di cư vào Nghệ An lập nghiệp ở làng Đăng, xã Yên Lưu sau này gọi là xã Hưng Hòa, hiện nay thuộc phường Trường Vinh. Bà có công giúp dân đắp đường, khai mương, phát triển nghề chiếu cói. Mất khi chưa lập gia đình, bà được con cháu tôn làm Bà Tổ Cô của dòng họ. Về sau linh ứng vời vợi nên được dân làng lập đền gọi là đền Bà Cô và được triều Nguyễn ban cấp sắc phong với mỹ hiệu “Nguyên tặng Trinh uyển Dực bảo Trung hưng Quế Hoa Công chúa tôn thần” và giao cho thôn Yên Mỹ, xã Yên Lưu tòng tiền phụng sự.

  

Biển gỗ ghi nội dung Thượng đẳng thần cô của bà tổ cô họ Nguyễn Hữu xã Quỳnh Phú.

- Bà Ngọc Dung Giao Xa Quế Hoa công chúa họ Nguyễn Hữu (xã An Hòa, nay là Quỳnh Phú). Theo gia phả họ Nguyễn Hữu cho biết bà tên là Nguyễn Thị Giác. Gia phả chép: “…khi chuyển sinh bà hào quang tỏa khắp nhà, hương thơm sực nức, trên núi có tiếng hổ gầm, từ nhỏ đã thông minh, nhanh nhẹn, 7 tuổi ham đọc sách, thông tuệ khác thường, không có gì là không tinh tường” nhưng không may mất sớm. Tương truyền, sau khi mất bà thường hiển linhh phù hộ độ trì không chỉ cho con cháu dòng họ mà cả Nhân dân trong làng. Khắp nơi xa gần ở trên địa bàn gặp lúc thiên tai, dịch bệnh cầu đảo đều linh ứng. Tri ân công lao của bà, Nhân dân lập đền thờ phụng, triều Nguyễn ban cấp 3 sắc phong với mỹ tự “Trang huy Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần” giao cho làng Quý Hòa thờ phụng.

- Bà Quế Hoa Công chúa tôn thần họ Lê (xã Nghi Liên, nay là phường Vinh Hưng). Bà là con gái của ông Lê Trọng Thiên - Thủy tổ của họ Lê làng Chi Bái, xã Nghi Liên nay là phường Vinh Hưng. Theo truyền ngôn của con cháu dòng họ: Khi bà Đinh Thị Thóc vợ ông thủy tổ họ Lê mang thai sắp đến ngày sinh nở, không may bị trượt ngã sẩy thai, là một bé gái, khi bà được dân làng dìu về nhà, người nhà chạy ra để lo hậu sự thì không thấy thai nhi đâu nữa mà vùng đất đó đã bị mối đùn lên thành ngôi mộ to cao lạ thường, dân làng Chi Bái cho là hài nhi hóa thần đã lập đền thờ ngay tại đó. Nhân dân và con cháu dòng họ mỗi khi gặp tai ương đến đền cầu nguyện đều được linh nghiệm. Triều Nguyễn ban tặng 3 sắc phong với mỹ tự: “Nhàn ủy, Dực bảo Trung hưng Quế Hoa chi thần” và giao cho làng Chi Bái thờ phụng.

Đền Quế Anh, xã Kim Liên thờ bà tổ cô họ Hoàng Đăng

- Bà Quế Anh phu nhân họ Hoàng Đăng (xã Nam Cát, nay là xã Kim Liên). Bà là con gái họ Hoàng Đăng, mất khi còn trẻ, thường hiển linh cứu dân độ thế. Được Nhân dân lập đền thờ, bà thường hiển linh giúp đỡ cho những phụ nữ hiếm muộn, trẻ nhỏ hay đau yếu, khó nuôi, cho các bài thuốc chữa bệnh cứu người. Triều Nguyễn ban cấp 3 sắc phong với mỹ “Trinh Uyển Trang huy Thượng đẳng thần”.

Những trường hợp trên cho thấy quá trình chuyển hóa từ tín ngưỡng họ tộc sang tín ngưỡng cộng đồng, và sự hợp thức hóa của Nhà nước phong kiến đối với các hình tượng nữ thần dân gian.

Giá trị văn hóa - tâm linh của hình tượng Bà Tổ Cô

Qua hàng trăm năm tồn tại, tín ngưỡng thờ Bà Tổ Cô vẫn giữ được sức sống bền bỉ bởi nó đáp ứng nhu cầu sâu xa trong tâm thức người Việt:

Nhu cầu nhân văn: tôn vinh, an ủi linh hồn người nữ thiệt thòi trong xã hội phụ quyền.

Nhu cầu tâm linh: củng cố niềm tin về sự giao hòa giữa người sống và thế giới âm linh.

Nhu cầu xã hội: tạo sợi dây kết nối giữa các thế hệ trong gia tộc, nhắc nhở về cội nguồn và đạo hiếu.

Đặc biệt, quá trình “nữ thần hóa” của Bà Tổ Cô là biểu hiện tiêu biểu cho sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu và hệ thống Thánh Cô, Thánh Mẫu sau này, nơi người phụ nữ được thiêng hóa, trở thành hiện thân của quyền năng, lòng nhân và đức hạnh.

Kết luận

Tín ngưỡng thờ Bà Tổ Cô là một minh chứng sống động cho sức sáng tạo của văn hóa Việt trong việc dung hòa các mâu thuẫn xã hội, đồng thời khẳng định giá trị văn hóa tinh thần của người phụ nữ trong đời sống tâm linh. Từ hình thức thờ phụng giản dị trong gia đình, dòng họ tục lệ này đã phát triển thành hiện tượng tín ngưỡng cộng đồng, góp phần hình thành nên hệ thống thờ nữ thần Việt Nam.

 

Tài liệu tham khảo:

1.     Lê Quý Đôn (1776), Phủ biên tạp lục, bản dịch Nxb. KHXH, Hà Nội, 1977.

2.     Nội dung gia phả, sắc phong tại nhà thờ họ Nguyễn Hữu, xã Quỳnh Phú.

3.     Nội dung gia phả, sắc phong tại nhà thờ họ Lê xã Vinh Phú

4.     Nội dung gia phả, sắc phong tại nhà thờ họ Hoàng Đăng xã Kim Liên

5.     Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, Nxb. KHXH.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114637591

Hôm nay

234

Hôm qua

2494

Tuần này

21524

Tháng này

226687

Tháng qua

134927

Tất cả

114637591