Những góc nhìn Văn hoá

Sự kết tinh và tỏa sáng những giá trị văn hóa của quê hương trong nhân cách Hồ Chí Minh

 

 

Khu di tích kim Liên. Ảnh Hồ Phong

Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, người chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, hết mực trong sáng và nhiệt thành trong phong trào cách mạng thế giới. Người là biểu tượng cao đẹp cho sự kết tinh và tỏa sáng những giá trị của hồn thiêng sông núi Việt Nam, của truyền thống tốt đẹp dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa nhân loại, của truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây. Nhưng trước hết, Người là người con xuất sắc của quê hương Nghệ An, là sự kết tinh và tỏa sáng những giá trị tốt đẹp của quê hương và chính Người đã làm rạng danh cho quê hương, đất nước và dân tộc Việt Nam. Sự kết tinh và tỏa sáng những giá trị văn hóa quê hương trong nhân cách Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện tiêu biểu ở tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất. Đây là một trong những phẩm chất, truyền thống tốt đẹp của quê hương Nghệ An đã được Người kế thừa, phát huy và nâng lên một tầm cao mới.

Nghệ An xưa nay vẫn nổi tiếng là một vùng đất “địa linh nhân kiệt”, giàu truyền thống văn hóa, là nơi tiêu biểu cho truyền thống văn hóa mấy nghìn năm của dân tộc, nhất là tinh thần yêu nước quật cường, ý chí vượt lên khó khăn trong cuộc đấu tranh chống sự khắc nghiệt của thiên nhiên và âm mưu thôn tính của các thế lực ngoại xâm. Trong suốt chiều dài lịch sử, vùng đất giàu truyền thống văn hóa này đã sản sinh ra nhiều người con ưu tú của dân tộc, với cả tài năng và tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Thời nhà Đường, ở Nghệ An đã có cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan lãnh đạo chống lại chính quyền đô hộ tham lam, tàn bạo. Khi quân Minh đến xâm lược nước ta, Nghệ An đã trở thành căn cứ của nhà Hậu Trần, rồi sau đó trở thành địa bàn chiến lược để nghĩa quân Lam Sơn phát triển lực lượng, trở thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính Nhân dân sâu sắc trong thế kỷ XV. Trong chiến dịch đại phá quân Thanh, Nghệ An cũng đã được vua Quang Trung chọn làm nơi dừng chân và tuyển chọn hàng vạn trai tráng tham gia vào chiến dịch lịch sử của dân tộc. Khi phong trào Cần Vương bùng nổ, nhiều người con của Nghệ An đã hăng hái tham gia đội Chung nghĩa binh do Vương Thúc Mậu lãnh đạo, rồi tham gia cuộc khởi nghĩa Hương Khê nổi tiếng do Phan Đình Phùng đứng đầu. Nghệ An còn là quê hương của nhà cách mạng Phan Bội Châu, là nơi khởi đầu phong trào Đông Du, thu hút sự tham gia của nhiều thanh niên yêu nước trong vùng. Khi còn ở Nghệ An, nhiều lần cụ Phan Bội Châu cũng đã ghé thăm gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh và trao đổi, đàm đạo với cụ thân sinh Người là Nguyễn Sinh Sắc những câu chuyện về tình cảnh đau lòng của đất nước và người dân. Bản thân cụ Phan Bội Châu cũng đã từng có ý định đưa Nguyễn Tất Thành (tên thời niên thiếu của Hồ Chí Minh) sang Nhật trong phong trào Đông du nhưng không thành.

Cuộc đấu tranh của 3.000 nông dân Nam Đàn, ngày 30-8-1930. Ảnh TL

Khi đến tuổi đi học, Nguyễn Tất Thành đã từng được theo học nhiều thầy giáo trong vùng là những nhà nho nghĩa khí và yêu nước, trong đó có thầy Vương Thúc Quý con trai nhà yêu nước Vương Thúc Mậu. Tại nhà thầy Quý, những khi có khách là những người bạn chung chí hướng cứu nước cứu dân cùng thầy Quý đến chơi, Nguyễn Tất Thành thường được giao lo việc tiếp nước. Trong những buổi như vậy, cậu đã được nghe tâm sự yêu nước và tấm lòng nhiệt huyết của các bậc cha chú.

Truyền thống yêu nước, bất khuất của quê hương đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh. Đặc biệt, các phong trào đấu tranh yêu nước của Nhân dân Nghệ An chống ách thống trị của thực dân Pháp đã để lại trong Hồ Chí Minh những ký ức sâu đậm. Tháng 2-1931, trong báo cáo gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản nhan đề Nghệ Tĩnh đỏ, Người viết: “Nhân dân Nghệ - Tĩnh nổi tiếng cứng đầu. Trong thời kỳ Pháp xâm lược cũng như trong các phong trào cách mạng quốc gia (1905-1925) Nghệ Tĩnh đã nổi tiếng”[1].

Chẳng những được tắm mình trong truyền thống yêu nước bất khuất của quê hương, Hồ Chí Minh còn sớm được trực tiếp học tập và tiếp thu truyền thống yêu nước của gia đình. Gia đình bên nội và bên ngoại của Hồ Chí Minh đều là những gia đình giàu truyền thống yêu nước, thương người. Ông ngoại của Hồ Chí Minh là cụ Hoàng Xuân Đường, một nhà nho yêu nước, bạn của nhà yêu nước Vương Thúc Mậu. Cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc, chị gái Nguyễn Thị Thanh và anh trai Nguyễn Sinh Khiêm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều là những người yêu nước nồng nàn và sớm tham gia các hoạt động yêu nước. Đặc biệt, người có ảnh hưởng nhiều nhất và trực tiếp nhất đến tình cảm yêu nước thương dân của Hồ Chí Minh chính là cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc. Từ lúc còn thơ ấu cho đến khi trưởng thành, Hồ Chí Minh thường được ở bên cụ Nguyễn Sinh Sắc và được cụ dạy bảo, rèn giũa về đạo làm người. Đặc biệt, nhân cách cao quý, giàu lòng yêu nước thương dân của người cha luôn luôn là tấm gương sáng để Hồ Chí Minh học tập noi theo. Những khi nhà có khách là các bạn của cụ Nguyễn Sinh Sắc đến chơi, hoặc những lúc theo cha đi thăm các nhà nho yêu nước, đã để lại trong ký ức tuổi thơ Hồ Chí Minh những ấn tượng sâu sắc về những câu chuyện đàm đạo về thời cuộc, về tình cảnh đất nước, dân tộc.

Kế thừa truyền thống yêu nước, ý chi kiên cường, bất khuất của quê hương, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành sớm nung nấu ý chí cứu nước, cứu dân, bất chấp những nguy hiểm rình rập, trong khi từ bỏ con đường mưu cầu danh lợi bản thân đang rộng mở. Người đã vượt qua bao khó khăn, hiểm nguy ra đi tìm một con đường cứu nước mới, phù hợp cho đất nước, dân tộc, để tìm lại hình của đất nước, làm hồi sinh dân tộc.

Khởi đầu của hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh chưa thể định hình con đường phải đi của dân tộc như thế nào, nhưng Người chắc chắn xác định được tiêu chí của con đường đó là phải giải phóng được dân tộc, làm cho đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, nhất là những người lao động, sẽ được thay đổi tốt đẹp hơn dưới một chế độ xã hội mới của đất nước mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho tất cả người dân. Chính với tiêu chí như vậy, Người không chọn cứu nước theo những con đường “cách mạng không đến nơi”, cách mạng giành được thắng lợi nhưng quyền hành và lợi ích lại chỉ nằm trong tay một thiểu số người. Người đã tìm ra và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp - con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, gắn liền sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng triệt để con người. Sự đúng đắn, phù hợp không chỉ với điều kiện cụ thể của đất nước, dân tộc Việt Nam, mà còn với xu thế phát triển ngày càng tiến bộ của nhân loại. Đó là con đường hướng đến sự phát triển và tiến bộ thực sự của con người cả về vật chất và tinh thần. Đó cũng chính là mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam - người lãnh đạo con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp đó. Tận trung với Tổ quốc, với Đảng, tận hiếu với Nhân dân trở thành chuẩn mực đạo đức không thể thiếu của mỗi cán bộ cách mạng và Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực.

Những năm hoạt động bí mật, đối mặt với chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo của thực dân Pháp và tay sai, thậm chí bị kết án tử hình vắng mặt, Hồ Chí Minh vẫn vững vàng niềm tin vào sự nghiệp cách mạng tất thắng của Đảng và dân tộc. Vượt qua sự lùng bắt ráo riết của kẻ thù và bao khó khăn, gian khổ của hoàn cảnh hoạt động bí mật, bất hợp pháp, Người trực tiếp tuyên truyền, giáo dục và tổ chức sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Những bài báo, tác phẩm của Người và đặc biệt là những “hạt giống đỏ” từ những lớp huấn luyện do Người tổ chức và trực tiếp giảng dạy, đã học tập theo tấm gương của Người, thúc đẩy sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ.

Trước ảnh hưởng “tả khuynh” trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhất là bởi một số quan điểm của Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1928) chưa sát hợp với thực tiễn các nước thuộc địa phương Đông, Hồ Chí Minh đã có sự vận dụng, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đó vừa là sự thể hiện tư duy lỗi lạc, vượt trước thời gian của Người, vừa là kết quả xuất phát từ việc đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của dân tộc lên trên hết và trước hết, nêu cao bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm trước sự phát triển chung của phong trào cách mạng. Dù có lúc bị phê phán đối với những quan điểm thực sự đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của Người, song Hồ Chí Minh vẫn giữ vững niềm tin vào con đường cách mạng vô sản và mục tiêu, lý tưởng của Đảng, đồng thời nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm quyết định của tổ chức Đảng. Người cũng vẫn kiên định, kiên trì những quan điểm đúng đắn của Người về cách mạng Việt Nam và những quan điểm đó đã mang lại thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam sau khi Người trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Đó thực sự là một biểu hiện sinh động của tinh thần trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sự nghiệp cách mạng của đất nước và dân tộc.

Hai lần bị bắt giam trong chốn lao tù của thực dân Anh và quân đội Tưởng Giới Thạch; bị hành hạ, đày ải tàn bạo và đối mặt với âm mưu lung lạc, mua chuộc của kẻ thù, nhưng Hồ Chí Minh vẫn giữ vững tấm lòng kiên trung với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Tổ quốc và dân tộc. Người vẫn luôn luôn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của cách mạng. Người chú ý khai thác, phân hóa mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đồng thời tích cực thực hành tuyên truyền, giáo dục, tranh thủ những người còn ít nhiều tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, đưa họ về với hàng ngũ của lực lượng cách mạng.

Những ngày chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền của dân tộc, dù bị ốm nặng, Người vẫn suy nghĩ, trăn trở về tương lai sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc và khẳng định quyết tâm: “dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập”[2].

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trên cương vị người đứng đầu Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo toàn dân bắt tay xây dựng xã hội mới, Hồ Chí Minh nêu rõ tiêu chí của nước độc lập là tự do, hạnh phúc của Nhân dân, bởi “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[3] và “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì”[4].

Người chú trọng nhắc nhở những người cán bộ, đảng viên được giao nắm giữ các chức vụ trong bộ máy chính quyền phải ghi nhớ quyền hành và lực lượng là ở nơi Nhân dân; Chính phủ là công bộc của Nhân dân; phải trung thành, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết và trước hết; phải gắn bó mật thiết với Nhân dân và chăm lo, phụng sự cho lợi ích của Nhân dân, coi lợi ích chính đáng của Nhân dân chính là tiêu chuẩn của chân lý; đồng thời phải hết sức phòng tránh bị thoái hóa trong điều kiện Đảng cầm quyền, trở thành những vị “quan cách mạng” đặc quyền, đặc lợi. Được tôn vinh là người “công dân số một” của chính thể dân chủ mới, vị lãnh tụ của Đảng và dân tộc, nhưng trên cương vị đỉnh cao quyền lực như vậy, Hồ Chí Minh vẫn giữ nếp sống thanh bạch, giản dị, gần gũi với thiên nhiên, vẫn thể hiện nhất quán sự khiêm tốn, tôn trọng Nhân dân, gắn bó mật thiết với Nhân dân. Người khẳng định tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Cương vị Chủ tịch nước của Người là việc phải gánh, phải gắng sức làm, bởi đó là tuân theo sự ủy thác của đồng bào, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Người bộc bạch chân thành trước quốc dân, đồng bào: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[5]. “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân.

Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó.

Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó. ... Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân.”[6].

Trước tình hình hân dân, nhất là từ khu vực Bắc Trung Bộ trở ra bị ảnh hưởng nghiêm trọng của nạn đói Ất Dậu, Hồ Chí Minh chủ trương một mặt đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đồng bào tăng gia sản xuất, mặt khác thực hành tiết kiệm, chống ăn uống hội hè lãng phí. Đặc biệt, Người đã vận động phong trào sẻ cơm nhường áo, khơi dậy tinh thần tương thân tương ái trong đồng bào toàn quốc thực hiện cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, một tháng nhịn ăn 3 bữa để xây dựng những hũ gạo cứu đói, cứu trợ cho những đồng bào nghèo đang lúc giáp hạt. Là Chủ tịch nước, song Người vẫn thực hành nêu gương nhịn ăn. Có lần vào bữa dự định nhịn ăn, Người lại được mời dự chiêu đãi khách quốc tế. Hôm sau, Người nhịn ăn bù lại.

Hơn 20 năm trên cương vị người đứng đầu Đảng, Nhà nước, lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc, xây dựng đời sống mới, Hồ Chí Minh luôn thực hiện đặt việc công, việc chung lên trên hết (dĩ công vi thượng), lấy mong muốn, nguyện vọng của Nhân dân làm mong muốn, nguyện vọng của mình (Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm). Người luôn trăn trở làm sao để nước nhà được hoàn toàn độc lập, Nam Bắc thống nhất một nhà; tất cả mọi người dân đều có cuộc sống ngày càng ấm no, tự do, hạnh phúc; làm sao để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đạo đức, là văn minh, phòng chống hữu hiệu nguy cơ suy thoái của một đảng cầm quyền; Nhà nước thực sự là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, trong đó pháp luật có vị trí tối thượng.... Người không giành cho mình những đặc quyền, đặc lợi và từ chối những danh hiệu cao quý khi công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà còn chưa hoàn thành.

Chưa đầy hai tháng trước khi qua đời, trong buổi tiếp và trả lời phỏng vấn nữ đồng chí Mácta Rôhát, phóng viên báo Granma (Cuba) Người nói: “Tôi yêu đồng bào ở miền Bắc cũng như yêu đồng bào ở miền Nam. Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”[7].

Trong bản Di chúc lịch sử, với tinh thần trách nhiệm cao trước sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc trong tương lai. Người nêu rõ “để lại mấy lời” không phải để nói về cá nhân, hay dặn lại những mong muốn của cá nhân theo như lẽ thông thường của con người, mà trước hết chính là để “đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”[8]. Thực tế, đó chính là điều Người đã trước hết nghĩ cho đồng bào, đồng chí.

Người quan tâm đề cập trước hết trong Di chúc là về Đảng ta. Trong bản viết bổ sung năm 1968, Người xác định rất rõ: “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ Nhân dân”. Do đó các cán bộ, đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con người của mắt mình; phải thực hành dân chủ, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; phải giữ gìn Đảng thật trong sạch; phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của Nhân dân.

Vừa là theo đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc, vừa xuất phát từ tinh thần giải phóng triệt để con người của chủ nghĩa nhân văn nhân đạo cộng sản, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân[9].

Trong phần nói về việc riêng, tưởng như đó là những mong muốn, những nhu cầu riêng của bản thân Người, nhưng thực tế đó cũng lại là những lo nghĩ cho người đang sống, cho dân tộc. Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”[10]. Người yêu cầu được hỏa táng để “đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng”, đồng thời nhắc nhở “chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của Nhân dân”. Đó chính là sự nêu gương nếp sống mới văn minh trong Nhân dân.

“Nâng niu tất cả chỉ quên mình”, tất cả là vì đất nước, vì dân tộc, vì Nhân dân, vì Đảng, ở Hồ Chí Minh đã kết tinh và tỏa sáng những giá trị tốt đẹp của quê hương, Người là hiện thân trọn vẹn nhất hình ảnh của một người cán bộ cách mạng luôn nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất trước kẻ thù và suốt đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, độc lập, tự do, hạnh phúc của Nhân dân.

 


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.79.

[2] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tập 2, tr.225.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.64.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.64.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.187.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.272.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.674.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.611.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.612.

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.615.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114443589

Hôm nay

2147

Hôm qua

2333

Tuần này

21402

Tháng này

218763

Tháng qua

112676

Tất cả

114443589