Công trình“Trương Tửu – Tuyển tập nghiên cứu văn hóa” (NXB Văn học, H., 2013, 1268 trang) do Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và biên soạn là bộ sách tập hợp những công trình khảo cứu văn hóa – văn học cố Nhà văn, Giáo sư Trương Tửu (1913-1999).
Công trình“Trương Tửu – Tuyển tập nghiên cứu văn hóa” (NXB Văn học, H., 2013, 1268 trang) do Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và biên soạn là bộ sách tập hợp những công trình khảo cứu văn hóa – văn học cố Nhà văn, Giáo sư Trương Tửu (1913-1999).
Trương Tửu (bút danh Nguyễn Bách Khoa, Hoàng Canh, Mai Viên…), quê quán thuộc làng Phú Viên, xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm – Hà Nội. Ông là nhà văn yêu nước từng bị truy tố trước Tòa án Hà Nội vì làm chủ bút báo Quốc gia khuynh tả viết bài đả kích vua Bảo Đại và triều đình Huế (1937) và từng tham gia kháng chiến chống Pháp. Trong suốt 5 năm (1940-1945), Trương Tửu có viết sách, tiểu thuyết nhưng một số tác phẩm đã bị cấm phát hành, thậm chí phải đổi bút danh Nguyễn Bách Khoa để có thể tiếp tục con đường văn chương của mình. Sau này Trương Tửu chuyển sang nghiên cứu những vấn đề triết học, văn học, văn hóa Đông phương…, đóng góp không nhỏ vào tiến trình phát triển văn hóa, văn nghệ dân tộc thế kỉ XX.
Nhân dịp bộ ba tác phẩm của Nhà văn, Giáo sư Trương Tửu: Tuyển tập nghiên cứu, phê bình (2007), Tuyển tập văn xuôi (2009) vàTuyển tập nghiên cứu văn hóa (2013) được Hội Nhà văn Hà Nội trao tặng “Giải Thành tựu trọn đời”, chúng tôi tập trung giới thiệu công trình bộ ba: Tiến hóa sử luận (1943), Nguồn gốc văn minh (1943), Văn minh sử yếu lược (1944) của ông bàn về văn hóa, văn minh Việt Nam và nhân loại đương thời…
NGUYỄN HỮU SƠN giới thiệu
NHÂN LOẠI TIẾN HÓA SỬ[1]
Bộ sách Nhân loại tiến hóa sử là một bộ sách khảo cứu tường tận cuộc tiến hóa đồ sộ và liên miên của xã hội loài người từ ngày khai thiên lịch địa đến hiện tại.
Bộ này gồm có tất cả 32 cuốn (sẽ xuất bản dần dần). Mỗi cuốn biên khảo một chế độ xã hội, một vấn đề nhân sinh hoặc một nền tư tưởng có liên lạc đến cuộc tiến hóa của loài người.
Tác giả theo phương pháp xã hội học hơn là phương pháp sử học chuyên môn: không xét vấn đề theo hẳn trật tự niên biểu, hoặc theo từng xứ, từng thế kỉ[2], tác giả chỉ biên chép đúng con đường diễn triển biện chứng của vấn đề ấy qua thời gian, đứng ở góc tiến hóa của toàn thể nhân loại.
Biên khảo bộ sách này, tác giả giữ thái độ hoàn toàn khách quan, chỉ mong đem trình bày tài liệu và lí thuyết của các nhà bác học triết học về mỗi vấn đề. Tuy vậy, tác giả cũng gắng sức xếp đặt các tài liệu và lí thuyết cho cuốn nào cũng có tính cách phổ thông, tổng quát và phê bình, để độc giả dễ hiểu và đủ tài liệu suy nghĩ thêm về vấn đề nói đến trong sách.
***
Những tài liệu dùng để viết bộ sách này, tác giả lượm lặt kĩ càng – nghĩa là có sự chọn lọc cẩn thận - ở nhiều sách đã đề cập đến vấn đề tiến hóa của nhân loại. Những sách mà tác giả thường dùng đến nhiều hơn cả là: Tủ sách Evolution de l’humanoté (Resnais – sance du livre) do nhà bác học Berr chủ trương. Bộ Evolution humaine của Quillet xuất bản năm 1934, do giáo sư Lahy-Hollebecque trông nom việc sưu tập các thiên sách giá trị của các nhà học thức chuyên môn viết; Bộ Histoire générale của Lavisse và Rambaud; Bộ Histoire générale des peuples, nhà Larousse xuất bản; Bộ Đại từ điển bách khoa (Grande Encyclopédie), Larousse (31 quyển); Bộ Géographie universelle của Vidal de la Blache (Colin xuất bản); Bộ La Serence ses progrés et ses applications depuis I’antiquité jusqua nos jours của Marcel Boll (Larousse) xuất bản năm 1933. Ngoài ra tác giả còn tham khảo nhiều sách chuyên môn về từng vấn đề, biên chép đến đâu sẽ dẫn xuất xứ ra đến đấy để bạn đọc tiện đường tra cứu tường tận thêm.
***
Bộ Nhân loại tiến hóa sử này không có tham vọng là một pho sách hoàn toàn đầy đủ.
Tác giả cũng biết rằng soạn một bộ Nhân loại tiến hóa sử phải là công việc của hàng chục, hàng trăm người. Nhưng vì ở xứ ta, ít ai nghĩ đến công việc mệt nhọc ấy, nên tác giả đánh bạo đứng ra biên soạn. Được đến đâu hay đến đó, có điều gì sai lầm nhờ các bậc trí thức chỉ vạch cho, để khi in lại sẽ liệu sửa chữa. Như vậy, ta sẽ hi vọng có được một bộ sách khả dĩ giúp ích các bạn thanh niên hiếu học muốn tìm hiểu thêm ngoài những điều hấp thụ được ở nhà trường.
Trước kia, người ta thường chê thanh niên lãnh đạm với nền học quốc văn. Ngày nay người ta mới nhận thấy rằng nền học quốc văn chưa có đủ sách để cung cho sự hiếu học của thanh niên. Bổn phận chúng ta ngày nay là phải soạn cho thật nhiều sách quốc văn loại phổ thông giáo dục họ tự học.
Nghĩ như vậy nên chúng tôi biên soạn bộ Nhân loại tiến hóa sử này. Lần lần, chúng tôi sẽ bước sang các ngành học vấn khác để cống hiến cho các bạn thanh niên một nền học [vấn] chắc chắn và đầy đủ[3].
TÁC GIẢ
CHƯƠNG I
QUAN NIỆM TIẾN HÓA
Quan niệm tiến hóa là một quan niệm cận đại. Nó biểu thị cuộc xung đột sống mái của tư tưởng thực nghiệm (khoa học) với tư tưởng thần bí (tôn giáo) và trừu tượng (triết lí). Cuộc xung đột này phôi thai vào khoảng thế kỉ mười tám, ở Âu châu là nơi phát nguyên của khoa học thực nghiệm. Nó kéo dài liên miên trong hai trăm năm, giữa sự chiến đấu gay gắt của hai phái cừu địch nhau: tôn giáo và khoa học. Đến cuối thế kỉ XIX quan niệm tiến hóa mới toàn thắng. Ngày nay thì quan niệm tiến hóa đã thành hẳn một chân lí có thể chứng nghiệm được không còn một nhà tư tưởng nào dám phủ nhận nữa. Đó là một cống hiến quí giá của khoa học thực nghiệm.
Xét cho kĩ thì cuộc xung đột kia tựu chung chỉ là cuộc xung đột của hai phương pháp giải thích trái nghịch nhau, đem áp dụng vào cắt nghĩa bản thể và do lai của vũ trụ, của vạn vật, của loài người. Vũ trụ vì đâu mà có? Trái đất xuất hiện cách nào? Vạn vật ở đâu ra? Loài người ai sinh ra? Vũ trụ, vạn vật, loài người sẽ đi tới đâu? Đó là những câu hỏi vẫn làm băn khoăn loài người từ đời thái cổ đến bây giờ. Hoặc dùng trí tưởng tượng thô kệch, hoạc dùng óc luận lí siêu hình, hoặc dùng khiếu quan sát thiết thực, tùy theo sở kiến và trình độ hiểu biết của thời đại mình, loài người luôn luôn thấy cần sáng tạo ra một vũ trụ quan để cắt nghĩa những hiện tượng quanh mình. Sự hiểu biết, đối với loài người, là một nhu cầu cấp bách không kém gì những nhu cầu sinh lí. Sự hiểu biết ấy đã trải qua bốn thời kì; và ở mỗi thời kì, nó tạo ra một vũ trụ quan riêng biệt.
Bốn thời kì ấy là:
Ta phải xét qua tư tưởng của loài người ở mỗi thời kì ấy, nhiên hậu mới có đủ điều kiện đề cập đến vấn đề tiến hóa.
Tư tưởng ma thuật và quan niệm về vũ trụ. Tư tưởng ma thuật là cách hiểu biết chung của loài người về đời thái cổ (tức là thời tiền sử). Gần đây, nhờ có sự khám phá những di tích sinh hoạt của loài người ở đời cựu thạch khí và tân thạch khí – đó là công lao của các nhà khảo cổ tiền sử học lại nhời có sự khảo xét của các dân tộc bán khai hiện còn sống ở Phi châu, Úc châu, của các nhà nhânchủnghọc, ta mới có thể hiểu dần được cuộc đời cùng tâm tính loài người thời thái cổ. Trong một cuốn sách nhan đề Não trạng thái cổ (Mentalité primilive)[4]nhà xã hội học Lévy Bruhl đã phân tích rất rõ và rất khéo tất cả cái bộ máy tinh thần của con người thái cổ. Bao nhiêu điều nhận xét và chú thích của Lévy Bruhl về não trạng thái cổ, ngày nay, đã được toàn thể các nhà xã hội học và nhân chủng học khắp thế giới coi là cổ điển. Theo sự khảo cứu của Lévy Bruhl thì người đời thái cổ có một thể cách tư tưởng khác hẳn hiện ta bây giờ. Đó là thể cách ma thuật. Nghĩa là họ không có một chút khái niệm nào về luật Nhân Quả. Theo sự nhận thức của họ, mỗi vật hoặc mỗi việc xảy ra không phải do một nguyên nhân vật chất nào tạo nên mà chính là do một vị Thần linh điều khiển. Họ tin rằng vạn vật đề là tài sản của thần. Bao nhiêu hiện tượng thiên nhiên mà họ không thể hiểu được máy chuyển vần, họ cho là kết quả của quyền năng Thần linh hết, và như vậy,mỗi vật tất phải có một vị thần cai quản. Đó là cỗi rễ của tín ngưỡng vật linh (animisme) là tín ngưỡng căn bản của loài người thái cổ. Do tín ngưỡng này mà họ đi tới ha tín ngưỡng khác:
1) Họ tin rằng lượng với vật là cùng một thể chất là đồng nhất.
2) Họ tin rằng có thể cảm thông với thần và ảnh hưởng đến sự vận động của thần được
Hai tin tưởng ấy là nguồn gốc các nghi tiết ma thuật (rites magiques) của loài người thái cổ. Tin tưởng thứ nhất phát sinh ở cách nhận thức đặc biệt của người thái cổ. Cách nhận thức này, ông Lévy Bruhl mệnh danh là sự nhận thức tiền lí luận. Theo phương pháp nhận thức lí luận của chúng ta ngày nay thì hai vật khác nhau không thể là một vật được. Thí dụ: bóng tối là bóng tối, đêm là đêm. Bóng tối không thể là đêm được. Hình ảnh con mèo là một vật; con mèo là một vật. Hình ảnh của vật không phải đồng thể với vật. Nói theo lí luận học thì một vật không thể vừa là nó mà lại vừa không phải là nó được. Hoặc: Một vật không thể vừa không là nó mà lại vừa là nó được. Nguyên tắc lí luận này là luật mâu thuẫn.
Người thái cổ không nhận thức theo luật mâu thuẫn ấy. Cái chỗ khác nhau giữa vật này và vật nọ, họ không nhận thấy. Cho nên, hai vật khác hẳn nhau, họ vẫn tin là cùng một thể chất. Vật nọ tham dự vào vật kia rấ mật thiết. Nói đúng hơn ở con mắt người thái cổ, cái biểu tượng của một vật và chính vật ấy chỉ là một. Cái tượng của vật tham dự vào thể chất của vật. Luật nhận thức này, Lévy Bruhl gọi là luật tham dự (loi de participation); thể hiện cách hiểu biết căn bản của người thái cổ. Thí dụ: họ vẫn cho bóng tối là biểu tượng của đêm.Vậy là theo ý họ, đêm với bóng tối là một. Cũng vì theo luật thamdự mà họ cho tên người với người là một thể chất, một vật.
Bởi nhận thức sai như vậy, nên người thái cổ tin rằng muốn tác động đến vật chỉ cần tác động đến biểu tượng của vật ấy là đủ. Muốn gọi đêm đến thì làm ra bóng tối. Muốn hại một người thù, đem tên kẻ ấy ra nguyền rủa hoặc đánh vào cái áo của người ấy. (Ngày nay, ta còn cái tục kiêng dẫm lên bóng nhau, kiêng đánh bóng mình, chính là di tích của lối nhận thức thái cổ kia vậy). Ở những hành động mà các nhà khảo cổ tiền sử học tìm thấy trong các vùng La Madeleine, Dordogne, Solulré, Aurignac bên Pháp hoặc ở vùng Santander bên Tây Ban Nha, người ta đã khám phá ra được những nét vẽ chạm vào đá của loài người đời cựu thạch khí. Phần nhiều, hình vẽ là những giống thú sống trong thời kì đó. Có khi vẽ một con renne[5]bị một mũi tên bắn xuyên qua bụng, có khi vẽ một con hưu rừng ăn cỏ... Theo lối nhận thức của người thái cổ như đã giảng qua ở trên, vẽ một con thú bị bắn như thế tức cũng như bắn được nó rồi. Và hình dung cảnh bắn được nhiều thú thực sự[6]. Trong những vùng còn để lại vết tích cuộc đời tân thạch khí, người ta lại còn khám phá ra được những bức tượng nhỏ bằng đá, tạc người đàn bà khỏa thân hai tay ấn vào hai vú hoặc đang cho con bú. Người thái cổ cho rằng hình tượng sự sinh sản đến trong thực tế, vì trong óc họ, biểu tượng của một việc và chính việc nhậpmột với nhau, tạo ra cái kia thì tạo ra được cái này. Những tượng nhỏ tân thạch khí ấy (thứ tượng nhỏ hình dung sự sinh nở hiện còn thấy ở xứ sở Sénégal bên Châu Phi) đủ chứng rằng loài người ở thời đá chuốt đã bắt đầu làm nghề nông nên cần đến sự sản xuất trù phú của ruộng đất, của gia súc và sự sinh đẻ của loài người.
Xem vậy, bao nhiêu phát hiện trí thức và nghệ thuật của con người thái cổ đều bị luật tham dẹ của họ chi phối cả. Luật này còn chi phối cả sự tổ chức xã hội của họ nữa. Bởi sợ hãi thần linh, nên họ tôn thờ các ngài. Rồi họ tìm cách cảm thông với các ngài. Họ dâng lễ vật để các ngài hưởng vì họ cho rằng Thần linh cũng giống họ và thích những thứ mà họ thích. Muốn cảm thông với thần linh, họ đặt ra các nghi lễ ma thuật, các lời phù chú. Người được họ cử ra để giao thiệp trực tiếp với thần linh, tức là thầy phù thủy (le sorcier). Người này còn có nhiệm vụ trông coi đoàn thể cho khỏi phạm vào các điều cấm kị (tabous) mà đoàn thể đã thiết lập ra để tránh sự xúc phạm đến thần linh. Hoặc nhỡ có ai phạm vào một điều cấm kị thì thầy phù thủy phải thi hành ngay một nghi lễ rửa tội (rite expiatoire) cho kẻ khờ dại ấy. Bằng mớ nghi lễ ma thuật, người thái cổ tin có thể hướng Thần linhvề chỗ làm lợi cho đời sống của họ. Nên ngày xưa các công việc về kinh tế đều thuộc vào phạm vi nghi lễ cả. Trước khi đẵn một thân cây, hay rủ nhau đi săn, hay gieo hạt giông, người thái cổ đều phải cậy thầy phù thủy làm phép giúp họ thành công và khỏi mắc vào tai nạn (ngày nay các tục Lập đàn đảo vũ, rước Mang thần của ta cũng là di tích của tín ngưỡng thái cổ đó). Họ tin ở sự hiệu lực của các lời phù chú, các nghi lễ ma thuật, nên họ muốn lợi dụng cái hiệu lực ấy bắt buộc Thần linh phải giúp họ sống. “Đối với người thái cổ, vũ trụ hoàn toàn do Thần linh điều khiển. Họ tin rằng những vị này hoạt động cũng đều vì những nguyên cớ giống với những nguyên cớ đã kích thích họ hoạt động, và tất nhiên cũng giống họ nghĩa là các vị ấy có thể thay đổi sự hoạt động được khi các vị ấy bị lòng thương, lòng tha thứ, lòng sợ hãi làm cho xúc động. Ở một thế giới bị quan niệm như vậy, người thái cổ tin rằng mình có thể xoay đổi được sự vận chuyển của các hiện tượng để lợi cho mình. Những lời cầu khẩn, những lời hứa hẹn, những lời dọa nạt, theo ý họ có thể buộc các Thần linh phải đem lại cho họ một mùa màng phong phú hay một thời tiến hóaết tốt lành”. Mấy câu này trích trong sách Rameau d’or của nhà nhân loại học Anh James Frazer đủ cắt nghĩa cái não trạng của người thái cổ khi họ thực hành những nghi lễ ma thuật đó. Não trạng này hiện còn là não trạng của những giống người dã man đang sống rải rác ở Phi Châu, Úc Châu... mà các nhà nhân chủng học đã khảo cứu kĩ càng.
Trong một cuộc sống đầy lo sợ như vậy, với một tư tưởng ma thuật như thế, người thái cổ tất nhiên phải giải thích vũ trụ và vạn vật theo sự hiểu biết của họ. Căn cứ vào những truyện kì cổ tích của các giống người dã man còn sống, ta có thể biết sơ lược quan niệm của người thái cổ về vũ trụ. Không thể thuật hết những truyện kì ấy ra đây được, chúng tôi hỉ lựa chọn lấy ba truyện đặc biệt:
1) Truyện lưỡi câu của thần Tiki (của giống người Canaques ở đảo Marquises gần Úc châu).
2) Truyện con rùa của thần PipePlate (của giống người Da đỏ Arapahos).
3) Truyện Nàng Tinh tú của thần Tirawa (của giống người Da đen Pawnis)[7].
Truyện lưỡi câu của thần Tiki. Theo truyện hoang đường này thì mới đầu vũ trụ chỉ là một vũng nước bao la. Trên mặt nước có độc một vị Thần linh – thần Tiki – chèo thuyền ngao du. Muốn tiêu khiển thì giờ, ngài bèn làm một cần câu và thả xuống nước. Một hôm, nhấc cần câu lên, ngài thấy cần câu bị vướng vào một cái gì nặng lắm. Ngài cố sức kéo lên thì ngạc nhiên thấy có một mảnh đất to mắc vào lưỡi câu. Ngài lấy làm thích về cái kết quả bất ngờ ấy, liền chèo thuyền đi khắp mặt nước và câu ở mọi chỗ lên những mảnh đất như thế. Những cái đảo của thổ dân Canaques chính là gồm những mảnh đất ấy lại. Và đó là khởi thủy của trái đất và loài người.
Truyện con rùa của thần Pipe Plate. Theo truyện này thì sự cấu tạo trái đất lại khác. Thoạt kì thủy, vũ trụ chỉ là một vùng bể lớn. Trên bể ấy có thần Pipe Plate sống binh bồng. Thần nuôi được ba con chim và một con rùa. Một hôm, thần vụt có ý làm ra trái đất. Tức thì ngài thả ba con chim xuống bể mò trái đất mang lên. Rồi thần cắm thuyền ngồi đợi. Trong một thoài gian khá lâu, ba con chim cứ biệt tăm dưới đáy bể. Sau lũ chim lên trình với thần là không tìm được trái đất. Thần giận lắm, quở mắng lũ chim, rồi sai rùa xuống tìm. Sau một tuần lễ lặn lội, rùa ta nhoi lên mặt nước và đeo dính ở chân một ít đất. Thần hài lòng, lấy ít đất ấy ra, đặt vào lòng bàn tay cho khô. Lúc đất khô rồi, thần mới bóp nát ra thành bụi, thổi bay rải rác đi bốn phương. Thế là thành quả địa cầu.
Truyện nàng Tinh Tú của thần Tirawa. Dân da đen Pawnis lại giàu tưởng tượng hơn trong sự đặt truyện. Theo cổ tích của dân ấy thì đầu tiên chỉ có thần Tirawa. Vị này sáng tạo ra thiên đường và các bậc thần khác. Mỗi thần, ngài cho đi coi xét một phương. Ngài chỉ giữ lại ở Thiên đường có một vị nữ thần Tinh tú và bốn thần bộ hạ: thần Gió, thần Chớp, thần Sét, thần Bão. Ngài định dùng họ để sáng tạo ra thế gian. Khi ngài định cấu tạo ra trái đất, Ngài sai Tinh Tú họp các mây lại thả xuống đó một hòn cuội. Bị cuội đụng phải, mây vỡ ra thành mưa trút xuống làm ra một vùng nước bao la. Bốn vị thần bộ hạ kia được lệnh dùng những cái gậy khổng lồ đập vào tảng nước ấy. Tảng nước nứt ra. Và trái đất mọc lên.
Sau việc sáng tạo này, Tirawa lại gọi Tinh Tú đến và sai nàng dạy các vị thần hát chào mừng trái đất. Chư thần liền cất tiếng ca vang. Nhưng lúc đó trên trái đất chưa có sự sống. Mây liền bay qua. Gió, chớp, sét ồ ạt kéo qua mặ đất. Chớp truyền sự sống vào lòng trái đất. Bão thổi vào những khoảng đất mềm và nhão, vạch ra các luống. Cây cỏ mọc lên. Chư thần lại cất tiếng ca vang, mừng cho trái đất nhờ có cây cỏ mà thành mầm sám. Cây cỏ tuy mọc và nhớn, nhưng vẫn thiếu sinh khí. Tức thì, gió, mưa, chớp lại xuyên qua cây cỏ và truyền sinh khí cho rừng rậm. Chư thần lại cất tiếng ca vang.
Tirawa còn nhận thấy rằng sông ngòi ở mặt đất không được tốt. Ngài lại gọi nữ thần Tinh tú bảo nàng hạ lệnh cho bốn thần bộ hạ chuyển phép thần thông xuống sông ngòi. Gió liền nổi cơn, vét sạch nước ở sông ngòi. Mưa liền đổ xuống. Chớp và sét liền đi qua. Trên mặt đất, suối ngòi lại róc rách chảy, Tirawa lấy làm vui thích lắm. Chư hầu lại cất tiếng ca vang...
Sau cùng, Tirawa muốn sáng tạo ra loài người. Ngài liền làm nổi lên một cơn giông khủng khiếp. Ngài thả xuống trái đất một đám mây hình cái phễu. Lập tức ở hai nơi cách nhau trên mặt đất sinh ra một người đàn ông, một người đàn bà. Hai người này cứ lang thang rồi một ngày kia họ gặp nhau trong rừng. Nhưng cả hai người cùng u mê không biết truyền sự sống cho nhau. Tirawa lại phải sai mây, bão, chớp xuống dạy cho hai người biết ái tình. Hai người liền thành đôi vợ chồng. Họ đẽo đá làm dao để tự vệ và biết dựng một túp lều để ở. Loài người bắt đầu có.
Cả ba truyện kì lạ ấy đều chứng tỏ một trí tuệ rất đơn giản chưa đủ sức biểu tượng đúng được hình ảnh sự vật ở ngoại giới. Những thổ dân đặt ra các truyện ấy còn ở trình độ sinh hoạt của người thái cổ về thời cựu thạch khí là lúc loài người mới biết đẽo đá làm khí cụ, sống một cuộc đời thú tạp, chài lưới, mới tiến từ sống bằng quả cây, tôm cá đến sự săn bắn các loài thú. Họ còn ở rừng rậm và ven sông, chưa biết làm ruộng và chăn nuôi súc vật. Ý thức về nhân cách của họ chưa manh nha. Tư tưởng của họ có tính cách hoàn toàn ma thuật; tín ngưỡng của họ là một tín ngưỡng vật linh thuần túy.
Phải đợi đến cuối đời tân thạch khí, loài người biết làm ruộng, biết làm kim khí (đồng, sắt) để chế tạo khí cụ, biết chăn nuôi súc vật, biết tổ chức xã hội thành một hệ thống chính trị lúc đó loài người mới có ý thức về vị trí và quyền năng của mình. Lúc đó, loài người mới đủ điều kiện bước từ tư tưởng ma thuật sang tư tưởng thần bí. Tôn giáo bắt đầu phát triển và tiến lần lần từ trạng thái đa thần đến trạng thái độc thần. Xã hội cũng bắt đầu được tổ chức có hệ thống hơn. Lẽ tôn ti trật tự thành hình và tạo cho con người một ý thức mới về đời sống hợp quần. Quan niệm về vũ trụ của loài người cũng theo đó mà biến đổi.
CHƯƠNG II
TƯ TƯỞNG THẦN BÍ VÀ THUYẾT SÁNG CHẾ
Từ sau khi tìm ra được các loại kim khí như đồng đỏ, đồng đen, sắt (chừng 4500 năm Tr.T.L), loài người bước hẳn vào thời kì lịch sử chính thức. Nhờ có kim khí, loài người có thể tổ chức đời sống kinh tế của mình dồi dào hơn, vững chắc hơn. Kĩ thuật sinh sản ngày một tinh vi. Chế độ nông nghiệp ngày một phát đạt; những nghề thủ công tinh xảo thêm ra. Xã hội tổ chức cũng thêm phức tạp. Hồi này là thời kì thành lập những cuộc tập trung quyền chính đồ sộ. Bộ lạc khuếch xung thành quốc gia; chế độ chính trị tiến đến hình thức quân chủ. (Kiểu mẫu của trạng thái sinh hoạt thời kì này là nước Ai Cập. Trong nước tôn thờ một vị đế vương độc tài gọi là Pharaon). Những thành thị đô hội mọc ra để thỏa mãn những điều kiện sinh hoạt mới. Đó vừa là nơi tập trung quyền chính trị và quân bình, vừa là nơi kết hợp các tiểu công nghệ vừa là thị trường buôn bán. Thời này, đã có sự giao thông liên lạc giữa các dân tộc người Chaldec, Phenicie, Assyrie, Eslam. Sự buôn bán rất phồn thịnh. Và sự chiến tranh giữa các dân tộc ấy cũng xảy ra luôn.Người ta đã biết xem thiên văn, biết làm đường sá, biết xê dịch bằng thương thuyền, biết sáng tạo ra văn tự, nghệ thuật. Sự phát triển mạnh mẽ này (về kinh tế, chính trị, văn hóa) gốc ở sự xúc tích của cải do nông nghiệp phồn thịnh gây nên.
Trong một trạng thái sinh hoạt phú túc như vậy, tất nhiên trí tuệ loài người phải tiến hóa rất nhiều. Sự giao thông xứ này sang xứ khác dễ khiến tầm mắt con người rộng thêm ra. Vả chăng, sự buôn bán với các nước láng giềng làm cho người ta rộng thêm khiếu văn nhiều. Vũ trụ, ở con mắt họ, thêm phần rộng lớn thì sự hiểu biết của họ cũng thêm phần thấu đáo. Họ đã biết nghiên cứu sự chuyển vần của tinh tú, của các hiện tượng thiên nhiên và đã biết dùng sự chuyển vần ấy lợi cho công việc làm ăn của họ. Ý thức con người mở ra dễ dàng và mau chóng. Người ta không còn sợ từ hòn đá ngọn cỏ sợ đi như ở thời kì thái cổ nữa.
Nhưng loài người vẫn thấy cuộc sống mình phụ thuộc vào những phép tắc huyền vi của thiên nhiên, chưa sao giải thích và điều khiển được. Nhất là làm nghề nông thì lại càng thấy sự lệ thuộc kia rõ rệt.
Còn bị lệ thuộc, tức là còn sợ hãi, còn tôn thờ. Nên tư tưởng loài người hồi này vẫn chưa vượt được khỏi trạng thái thần bí. Loài người vẫn tin có các Thần linh sáng tạo ra thế giới hữu linh. Họ lại tin rằng bản thể của chính họ cũng do Thần linh cấu tạo nên bằng một phần tử thiêng liêng của bản thể Ngài. Vậy chỉ có Thần linh là hoàn toàn, là vạn năng. Nhiệm vụ của loài người là cảm thông với ngài, hoài vọng của loài người là trở về bản thể của ngài. Chỉ có một điều khác thời kì tiền sử mông muội là loài người đã có ý thức về sự tôn thờ của mình. Họ không sợ hãi thái quá nữa. Họ bình tĩnh hơn. Họ tự có thể giao cảm được với Thần linh bằng sự tư tưởng hành vì họ đồng chất thiêng liêng với thần linh. Họ thờ những vị thần có quyền năng lớn, giúp ích trực tiếp được cho họ (phần nhiều là những thân thuộc về công việc nông nghiệp cả). Vị thần được họ tôn sùng nhất là MẶT TRỜI. Riêng ở xứ Ai Cập cũng đã có đến ba vị thần chỉ mặt trời: thần Horus là mặt trời mới mọc, Osiris là mặt trời lặn và Râ là mặt trời lúc rực rỡ sáng ngời cai quản cả vũ trụ. Xứ Hy Lạp cũng thờ thần Apollon, tức là vị thần ánh sáng.
Những vị thần này và các vị thần khác nữa cứ tùy theo sự tiến hóa của tổ chức chính trị mà lớn quyền dần. Mới đầu có những thần của từng đô thị (Athenes, Sparte, Memphis, Babylone... mỗi đô thị có một vị thần chúa tể); sau lúc các quốc gia thành hình thì mỗi quốc gia lại có một vị thần chúa tể (Ai cập thờ thần Amonra, Hy Lạp thờ thần Zeus, La Mã thờ thần Jujuter, Hy Ba Lai thờ thần Jahveh, Trung Quốc thờ Thượng đế, Ấn Độ thờ thần Bà-la-ma...).
Dần dần, sự sinh hoạt kinh tế càng phức tạp, sự giao thông liên lạc giữa các dân tộc càng rộng, sự tổ chức chính trị càng phiền toái. Tín ngưỡng và sự tôn thờ của loài người cũng phải biến hình thức theo trình độ văn minh của toàn thể xã hội. Thấy các dân tộc cứ chiến đấu với nhau hoài, các vị thần quốc gia cũng tranh giành địa vị với nhau hoài (vì chế độ của riêng đã phát triển) nên loài người mới tưởng tượng ra một đấng Thần linh tối thượng đủ quyền cai trị được tất cả các vị thần quốc gia kia và mong đấng Thần linh ấy sẽ đem lại sự hòa bình cho họ. Cũng như trong tình trạng chiến đấu liên miên giữa các quốc gia, dân gian thường ao ước có vị anh hùng đế vương cái thế xuất hiện để đủ lực lượng tạo ra sự trật tự trong xã hội vậy.
Do hoài bão ấy mà nảy ra óc sùng bái anh hùng và tín ngưỡng độc thần (monotheismez). Tín ngưỡng này là sự chuyển từ cõi tư tưởng cái xu hướng thống nhất về chính trị và cái xu hướng chuộng hòa mình của loài người trong thời kì nông nghiệp phồn thịnh. Về sau, giai cấp thống trị mới lợi dụng nó để ủng hộ quyền thế của mình.
Đại biểu cho tín ngưỡng này, có hai tôn giáo: đạo Bà-la-ma của Ấn Độ và đạo Hybálai của người Do Thái. Đạo Bà-la-ma thoát thai ở đạo Phệ đà (vesdisme). Lúc giống người Aryens mới đến chiếm xứ Ấn Độ thì họ còn theo đạo Phệ đà. Đạo này là một đạo đa thần, thờ rất nhiều vị thần thiên nhiên như Agni (thần lửa), Surya (thần mặt trời), Sooma (thần mưa)... Sau khi chiếm được Ấn Độ rồi, có một giai cấp muốn thống trị toàn xứ giai cấp Bà-la-môn, họ liền tạo ra một hệ thống tín ngưỡng mới để chính thức hóa quyền thế của họ. Họ phá mình ra đạo Bà-la-ma. Họ chủ trương rằng toàn thể vũ trụ do một đấng Thần linh tối cao là đấng Bà-la-ma cấu tạo ra. Và họ tuyên truyền rằng giai cấp Bà-la-môn là do cái tinh hoa của đầu óc đấng Bà-la-ma tạo thành nên được coi như thiêng liêng và được ở địa vị cao sang nhất trong xã hội. Giai cấp Kshatriyas (quí tộc, quân nhân) thì do ngực đấng Bà-la-ma tạo thành nên ở địa vị nhì. Giai cấp Vaicya (thương nhân, công nhân, nông dân) thì do cánh tay đấng Bà-la-ma tạo thành nên ở địa vị thứ ba. Giai cấp Cudra (nô lệ) do bàn chân đấng Bà-la-ma tạo thành nên ở địa vị thứ tư. Còn bọn thổ dân bị chinh phục không phải do Bà-la-ma tạo thành nên bị coi là hạng ô trọc (Parias) không ai dám chạm tới. Nhờ có đạo giáo Bà-la-ma mà giai cấp Bà-la-môn (giáo sĩ) vẫn giữ được toàn quyền thống trị trong xứ Ấn Độ từ xưa tới cận đại. Không có chứng cứ nào rõ rệt bằng chứng cứ này để tỏ rằng tôn giáo thường bị xuyên tạc đi và bị một giai cấp xã hội lợi dụng để đàn áp toàn thể dân chúng.
Đạo Hybalai mới đầu cũng là một tôn giáo đa thần. Người Do Thái cũng thờ kính những thần thiên nhiên, thờ cây, thờ núi, thờ hang động... Sau khi đức Moise giắt dân Do Thái rời bỏ xứ Ai Cập chạy vào rừng núi Sinai (khoảng 1200 năm tr.T.L) để tránh những hình phạt của Chính phủ Ai Cập, họ mới bắt đầu có tín ngưỡng độc thần. Moise tuyên truyền một lòng hi vọng tha thiết vào đấng Jehovah là đấng Thần linh tối thượng, để họ có đủ sức tín ngưỡng mà sinh tồn và mong đợi. Từ đó họ tin rằng, chỉ có đấng Jehovah là chúa tể vũ trụ. Chính ngài tạo ra vạn vật, tạo ra loài người và có quyền năng vô biên. Lần lần tín ngưỡng ấy ăn sâu vào óc người Do Thái khiến họ thù ghét sự cúng lễ các vị thần tạp nhạp khác. Tín ngưỡng ấy, nghìn năm sau, đẻ ra đạo Gia tô và được các hoàng đế Constantin và Theodose dùng chính trị giúp cho phát triển khắp trong đế quốc La Mã.
Đạo Bà-la-ma và đạo Hybalai, bởi cùng là đạo độc thần (religion monotheiste) nên đã tạo ra một vũ trụ quan hao hao giống nhau. Vũ trụ quan này đều có tính cách thần bí tuyệt đối. Nó là thuyết sáng thế, đựng trong hình thức thần thoại. Đó là bản sáng thế kỉ trong kinh Vêđa và bản Sáng thế kỉ trong Kinh Thánh (bản Cựu ước).
Bản Sáng thế kỉ trong kinh Vêđa
“Hồi bản sơ, vũ trụ là một khoảng mù mịt không có hình thức rõ rệt, không thể lấy tri giác mà nhận được, không thể lấy lí luận mà hiểu được, không thể lấy thiên lương mà tìm được. Vũ trụ như triền miên trong giấc ngủ.
“Khi thời kì hoang mang ấy đến ngày cáo chung thì đức Thượng đế tự nhiên có chứ không phải ai sinh ra – đức Thượng đế, mà giác quan của con người không nhận thấy được, liền biến vũ trụ thành một vật có thể dùng giác quan nhận thấy được. Ngài đã dùng năm nguyên tố, tức là ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ và các nguyên lí khác. Và sáng ngời, Ngài hiện ra, làm ta bóng tối, nghĩa là làm sinh trưởng thiên nhiên.
“Đức Thượng đế mà chỉ dùng Thần linh mới cảm thông được, còn dùng tri giác thì không thấy được, vì ngài không có hình thể rõ rệt – đức Thượng đế bất diệt, đức Thượng đế là linh hồn của muôn loài, được Thượng đế mà không ai có thể biết được, liền ban phát ra chung quanh cái tinh hoa riêng của Ngài.
“Ngài có ý muốn là cấu tạo ra muôn loài bằng bản thể Ngài. Ngài liền cấu tạo ra biển và đất, rồi gieo trong đó một hạt giống. Hạt giống đó bỗng trở nên một quả trứng bằng vàng, sáng chói lọi như vị tinh tú với muôn tia hào quang. Trong quả trứng ấy, đức Thượng đế tự đầu thai, và lấy danh hiệu là Bà-la-ma, thủy tổ của muôn loài.
“Sau khi ở trong quả trứng một năm của Bà-la-ma (một năm Bà-la-ma lâu bằng 4.320.000.000 năm của con người), đức Thượng đế tự ý chia quả trứng ra làm hai phần. Một phần ngài làm ra vòm trời; một phần ngài làm ra trái đất. Ở giữa hai khoảng ấy, Ngài đặt ra không trung, tám từng trời, nước (nước có mãi mãi)...
Xong rồi đức Thượng đế đặt ra một nguyên lí tuyệt diệu đồng chất với Ngài. Rồi Ngài cấu tạo ra đủ các khiếu trí thức và tình cảm phụ thuộc vào nguyên lí ấy. Rồi Ngài làm ra linh hồn. Rồi Ngài dùng linh hồn này để cấu tạo ra loài người và vạn vật”.
Bản Sáng thế kỉ trong Kinh Thánh
“Ban đầu, đức Chúa trời dựng nên trời đất. Và đất là vô hình và trống không, sự mở lối ở trên mặt vực. Thần linh của đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước.
Đức Chúa Trời phán rằng: “Phải có sự sáng”; thì có sự sáng. Đức Chúa Trời thấy sáng là tốt lành nên phân ra sáng cùng tối. Đức Chúa Trời đặt tên sự sáng là ngày, sự tối là đêm. Vậy có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhất.
Đức Chúa Trời lại phán rằng: phải có một khoảng không ở giữa nước; để phân rẽ nước cách với nước. Ngài làm nên khoảng không phân rẽ nước ở dưới khoảng không cách với nước ở trên khoảng không; thì có như vậy. Đức Chúa Trời đặt tên khoảng không là trời. Vậy có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhì.
Đức Chúa Trời lại phán rằng: Những nước ở dưới trời phải tụ lại một nơi và phải có chỗ khô cạn bầy ra. Thì có như vậy. Đức Chúa Trời đặt tên chỗ khô cạn là đất, nơi nước tụ lại là biển. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.
Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh cây cỏ, cỏ kết hạt giống, cây trái kết quả, tùy theo loài mà có hột giống trong mình trên đất. Thì có như vậy. Đất sanh cây cỏ. Cỏ kết hột tùy theo loài; cây kết quả có hột trong mình tùy theo loài. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. Vậy có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ ba.
Đức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có các vị sáng trong khoảng không trên trời để phân ra ngày với đêm, và dùng làm đầu đề định thi tiết ngày và năm; lại dùng làm vị sáng trong khoảng không trên trời để soi xuống đất. Thì có như vậy. Đức Chúa Trời làm nên hai vị sáng lớn; vị lớn hơn để cai trị ban ngày, vị nhỏ hơn để cai trị ban đêm. Ngài cũng làm các ngôi sao. Đức Chúa Trời đặt các vị đó trong khoảng không trên trời để soi sáng đất, để cai trị ban ngày và ban đêm, để phân ra sự sáng và sự tối. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. Vậy có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ tư.
Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nước phải sanh ra các vật sống cho nhiều và các loài chim phải bay trên mặt nước trong khoảng không trên trời. Đức Chúa Trời dựng nên các loài cá nhớn, các vật sống hay động nhờ nước mà sinh nhiều ra tùy theo loài. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. Đức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: “Hãy sinh sản thêm nhiều, làm cho đầy rẫy dưới biển; còn các loài chim hãy sinh sản cho nhiều trên đất”. Vậy có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ năm.
Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sinh ra các vật sống tùy theo loài, súc vật, côn trùng và thú rừng, đều tùy theo loài. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. Đức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tư tưởng ta, để quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất và khắp cả đất. Đức Chúa dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống hình đức Chúa Trời. Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. Đức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: “Hãy sinh sản thêm nhiều làm cho đầy rẫy đất, hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời, cùng các vật sống hành động trên mặt đất”. Đức Chúa Trời lại phán rằng: “Này ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ có kết hột mọc khắp mặt đất và các loài cây sanh quả có hột giống ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi. Còn các loài thú ngoài đồng, các loài chim trên trời và các động vật khác trên mặt đất phàm giống nào có sự sống thì ta ban cho mọi thứ cỏ xanh đặng dùng làm đồ ăn. Thì có như vậy. Đức Chúa Trời thấy những việc ngài đã làm thực rất tốt lành. Vậy có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ sáu.
“Ấy vậy, trời đất và muôn vật đã dựng nên xong rồi. Ngày thứ bảy, Đức Chúa Trời làm xong công việc Ngài đã làm. Và ngày thứ bảy Ngài nghỉ các công việc Ngài đã làm. Rồi ngài ban phước cho ngày thứ bảy là ngày thánh vi trong ngày đó Ngài nghỉ các công việc đã dựng nên và đã làm xong rồi.
“Ấy là gốc tích trời và đất khi đã dựng nên trong lúc Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất.
“Và lúc đó chưa có một cây nhỏ nào mọc ngoài đồng và cũng chưa có một ngọn cỏ nào mọc ngoài ruộng vì đức Chúa Trời chưa cho mưa xuống trên đất và cũng chẳng có một người nào cày cấy đất nữa. Song có hơi nước dưới đất bay lên tưới khắp cùng mặt đất. Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nặn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một loài sanh linh”.
Xem qua hai lối giải thích người vũ trụ và loài người của đạo Bà-la-ma và đạo Hybálai, ta nhận thấy rằng trong cách đặt truyện, con người đã có ý thức về nhân phẩm mình. Khác hẳn những chuyện hoang đường xưa, con người đã nhận mình đồng chất thiêng liêng với Thượng đế, là một động vật cao nhất trong các loài động vật và sinh ra với cái nhiệm vụ bắt trái đất và muôn loài phải tùng phục mình. Cái ý thức về nhân phẩm ấy chỉ có thể phát sinh được khi loài người đã biết rời bỏ đời du mục, biết cắm trại một nơi, chăn nuôi súc vật, cày ruộng và thắng đạt được các loài ác thú. Ý thức ấy có thể được coi là ý thức của sự toàn thắng. Trong cái ý thức ấy, ẩn nấp một tấm lòng tự tôn phong phú mà những người đời thái cổ không thể có được. Đó chính là tư tưởng loài người ở thời đại nông nghiệp, tuy còn rất thần bí nhưng đã có xu hướng tiến đến một thống hệ nhận thức nhất quán.
Đồng thời với nền tư tưởng ấy, xã hội loài người cũng bắt đầu được tổ chức có ý thức hơn trước. Sự an cư của đời canh nông đẻ ra sự phồn thịnh. Lại nhờ có chế độ nhân công, trong xã hội nông nghiệp vụt nảy nở ra một hạng người không phải làm việc bằng chân tay. Hạng người này lấy sự trau dồi tri thức là lẽ sống, và lấy sự đi tìm chân lí làm chức vụ. Kiểu mẫu của hạng người ấy là phái nhà Nho ở Trung Hoa và phái Triết nhân ở Hy Lạp. Với họ, loài người bước từ cách giải thích thần bí (tôn giáo) sang cách giải thích trừu tượng (triết học) do lai vũ trụ và nhân loại.
CHƯƠNG III
TƯ TƯỞNG TRIẾT LÍ VÀ XU HƯỚNG CỨU THẾ
Chế độ nông nghiệp đã bước vào thời kì cực thịnh (khoảng sáu bảy trăm năm Tr.T.L). Lại thêm có sự phát đạt của thương nghiệp, loài người trong thời khoảng lịch sử này tiến bộ một cách đột ngột và mau lẹ bất ngờ.
Nhờ giống người Pheniciens giỏi về nghệ thuật hàng hải và tài doanh nghiệp nên sự buôn bán hồi ấy hầu như có tính cách quốc tế. Bất cứ ở đô thị lớn nào trong cõi Á Đông cũng có cửa hàng buôn bán của người Pheniciens. Họ tổ chức những đoàn vận tải (caravane) đồ sộ, hoặc trên bộ hoặc dưới nước, để chuyên chở các hàng hóa ở ngoại quốc vào nội địa xứ họ nhất là vào hai đô thị lớn nhất của họ: Sidon và Tyr. Họ tập trung về đó những ngọc châu, gia vị, ngà voi, gỗ quý của Ấn Độ; ngựa, đay, bông của Ai Cập; vàng, gỗ mun, lông đà điểu của Phi Châu; đồng, đá hoa, vỏ chai màu đỏ rực của Hy Lạp; vải lụa, đệm dệt, nước hoa, quả chà là của Mesopotamie. Họ lại sở trường nhất về nghề buôn nô lệ: nô lệ da đen ở các vùng Ethiopie, nô lệ da trắng ở Hy Lạp, La Mã, Caucase. Muốn tiêu thụ hàng hóa do công nghệ trong xứ xuất sản, họ đi chiếm thuộc địa ở Tây Ban Nha và châu Phi, đặt tô giới ở Ai Cập, lập các thương điếm lớn ở các xứ mọi rợ, làm nên một đế quốc giàu có và cường thịnh.
Đồng thời với sự thành lập của đế quốc Phesnicie, vị anh hùng Cyrus, người Ba Tư (Perse) vào năm 546 tr.T.L cũng lập được một đế quốc lớn gồm có Ba Tư, Medie, Tiểu Á tế Á, Chaldee và tất cả những xứ khác nằm trong phạm vi đất đai từ sông Indus (Ấn Độ) tới ven Địa Trung Hải.
Xứ Hy Lạp cũng chuyển dần thành một đế quốc bằng cách đi chiếm các thuộc địa ở ven Địa Trung Hải, ven Hắc Hải. Họ tiến sang tận Tây phương lập Marseille làm thuộc địa. Bấy giờ, người đời gọi đế quốc đó là Đại Hy Lạp.
Bên Á Đông và Trung Hoa vì nông nghiệp và thương nghiệp phát đạt mạnh nên đế quốc nhà Chu tan rã. Trong xứ nảy ra rất nhiều đất chư hầu phú túc, hùng cường không chịu phục tùng Thiên tử nhà Chu nữa. Tại Ấn Độ, sau những cuộc chinh phục của Cyrus (558-529), của Darius (521-485) và của Alexandre (326) toàn xứ có xu hướng tiến đến chế độ đế quốc. Năm 322 tr.T.L, có người hầu cận của Alexandre là Chandragupta nổi lên khôi phục sự độc lập cho đất nước, rồi lập xứ Ấn thành một đế quốc, mở đầu triều vua Maurya. Đế quốc này đã có một hồi cực thịnh dưới thời vị hoàng đế Acoka (273-232). Hoàng đế này thống trị toàn thể xứ Ấn Độ và đã dùng uy quyền chính trị giúp đạo Phật phát triển rất nhanh chóng. Người ta thường ví ngài với hoàng đế Constaitin bên đế quốc La Mã: ngài có công ủng hộ Phật giáo mà Constaitin thì có công làm thắng Gia tô giáo (325 tr.T.L).
Coi vậy, nông nghiệp, thương nghiệp, tiểu công nghệ, kĩ thuật sinh sản, sự mở mang đường giao thông, tất cả những ngành kinh tế ấy đã trực tiếp đẻ ra ở khắp nơi những đế quốc cường hùng mạnh làm cho loài người bước rất dài trên con đường văn minh sáng lạn. Nhưng đồng thời, sự phát triển kinh tế và chính trị đó cũng sinh ra nhiều kết quả khác đủ sức đánh nghiêng được cán cân tiến hóa. Nó tạo ra sự chiến tranh giữa các đế quốc, sự chiến tranh giữa các quốc gia trong một đế quốc, và sự chiến tranh giữa các giai cấp trong một quốc gia. Đó là ba việc ta thường thấy luôn luôn ở khoảng lịch sử này, trong lòng trạng thái kinh tế phủ túc kia.
Vì tranh giành thị trường của nhau, vì ganh tị với nhau về quyền lợi nên các đế quốc, các quốc gia, các thị phủ luôn luôn chiến đấu với nhau. Đế quốc Ba Tư chiến tranh với đế quốc Hy Lạp. Thị phủ Athenes chiến tranh với thị phủ Sparte khiến đế quốc Hy Lạp yếu sức chẳng bao lâu bị vua xứ Macedoine là Phillippe và con ông này là Alexandre chinh phục. Alexandre kéo cuộc chiến tranh đi khắp châu Á, đến đâu chinh phục đến đó, lập thành một đế quốc hùng vĩ. Đến khi Alexandre mất (323) đế quốc tan rã vì nội loạn. Sau La Mã nổi lên, chinh phục Ý đại lợi, chinh phục xứ Carthge rồi kéo binh chiếm Ai Cập, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Gaute làm nên đại đế quốc La Mã, đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử loài người. Ở Trung Hoa đang là thời đại Xuân Thu, Chiến quốc: các chư hầu không tòng phục nhà Chu, mỗi vị lập nên một giang san tranh hùng tranh bá với nhau. Ở Ấn Độ, dòng họ Maurya trị vì đến thế kỉ thứ II tr.T.L thì đổ, trong xứ lại nội loạn âm ỉ không ngớt.
Ngoài chiến tranh giữa các xứ và các đế quốc như vậy, lại còn một cuộc chiến đấu về giai cấp ở ngay trong mỗi xã hội nữa. Đâu đâu cũng bày ra cảnh giàu nghèo, sang hèn trái nghịch nhau. Sự tổ chức chính trị, đồng lõa với tôn giáo và phong tục chỉ có mục đích duy trì sự trái nghịch ấy. Một bên là bọn cầm quyền, quý tộc, phú hào hết mực sung sướng; một bên là bọn bần dân, nô lệ sống một cuộc đời trâu ngựa. Sự chênh lệch này làm cho xã hội thời đó luôn luôn bị ngửa nghiêng vì những cuộc chống đối tàn phá của các bọn nô lệ bình dân và những cuộc giết chóc xảy ra chung quanh mỗi cuộc chống đối. Ở Hy Lạp, ở La Mã, ở Trung Hoa, ở Ấn Độ... đâu cũng thấy diễn ra cái trò giai cấp chiến đấu tàn khốc ấy. Sự lầm than của loài người không còn bờ bến nào nữa. Sự chán nản bốc lên đến cực điểm. Loài người ngóng chờ một vị cứu tinh thần diệu đem yên ổn và hạnh phúc lại cho họ...
Tình trạng khốn cùng thê thảm ấy đã làm bùng nổ ra khắp trên trái đất, trong khoảng thời gian từ thế kỉ thứ sáu tr.T.L đến đầu Tây lịch, cả một trào lưu tư tưởng cứu thế cuồn cuộn sôi nổi, như chưa từng thấy bao giờ. Ấn Độ có Phật Thích Ca, Trung Hoa có Khổng Tử, Mặc Tử; Hy Lạp có các phái triết nhân chuyên môn theo đuổi công việc thuộc về phạm vi tư tưởng; sau cùng là sự xuất hiện của Jesus Christ. Tất cả những đấng thánh hiền ấy đều đem lại cho loài người cái liều thuốc mà loài người đang mong đợi: phương pháp diệt khổ. Tất cả đều hoài bão thực hiện một sứ mệnh thiêng liêng là cứu loài người thoát vòng trầm luân khổ ải. Tất cả đều cất tiếng phản đối sự buông lỏng lòng vật dục tham lam và ích kỉ.
Thích Ca phản đối giai cấp Bà La Môn. Khổng Tử phản đối sự vượt quyền của các vua chư hầu. Mạc Tử phản đối chiến tranh. Socrate phản đối các nhà cầm quyền. Jesus phản đối các bọn giàu sang đương thời và bọn Pharisiens. Tất cả đều nhận lấy nhiệm vụ cứu thế và hăng hái tự thi xả cho thành đại nghĩa.
Các bậc thánh hiền ấy đều muốn cứu nhân loại bằng tư tưởng triết lí. Đó là đặc điểm của thời kì quá độ này. Trong mấy nghìn năm, phải dâng đến trí tuệ để sinh tồn, loài người đã rèn luyện được khiếu suy nghĩ và xét đoán của mình. Trái với hồi xưa chỉ biết biểu tượng ngoại vật một cách thực dụng – biểu tượng phải dính liền vào vật hoặc việc – hồi này loài người đã quen biểu tượng vật ngoài cả sự có mặt của vật. Ý tưởng đã thành một vật. Người ta đã coi nó như một thực thể độc lập. Những thực thể đầu tiên được công nhận là những con số những vật hoàn toàng trừu tượng mà óc có thể quan niệm được không cần đến cảm giác hay tri giác. Vì thế nên khoa toán pháp là khoa học thịnh hành nhất vào khoảng thế kỉ thứ sáu, thứ V tr.T.L. Khổng Tử, Lão Tử, Pythagore toàn là những bậc triết học biết dùng đến con số để xây dựng vũ trụ quan của họ cả.
Đã đến trình độ ấy, tư tưởng trở nên thuần lí (speculatif). Với khiếu rừu tượng con người biết biểu tượng sự vật một cách rành mạch hơn. Bằng những khái niệm và ý tưởng (biểu thị của sự vật), óc người nhào nặn, pha trộn, xây dựng nên những thống hệ tư tưởng thuần lí, phản ánh của sự vật. Bởi thời đó, khoa học chưa phát triển, những khí cụ kiểm soát chưa có hoặc có mà chưa tinh vi nên những thống hệ tư tưởng kia không có cái gì nối liền với thực tế vật chất cả. Chúng phiêu diêu trong cõi thuần lí, cứ một ngày một xa thực tế và cứ theo luật phức hóa nội tại mà đẻ ra những cục diện mới, làm thành sự phát đạt của triết học.
Quả vậy, không có thời kì lịch sử nào mà triết học phát đạt bằng khoảng thời kì tr.T.L năm sáu trăm năm. Hai nơi tập trung được sự cực thịnh ấy của tư tưởng triết lí là Hy Lạp và Trung Hoa. Chúng tôi không thể nói cặn kẽ đến tất cả những thống hệ triết lí Hy Lạp và Trung Hoa ở đây được. Chúng tôi chỉ lược biên dưới đây những thuyết của các nhà triết học hai xứ đó có liên can đến sự giải thích vũ trụ và vạn vật.
Như trên kia đã nói, bởi sống trong một tình trạng hỗn loạn, các thánh triết đều băn khoăn về những tư tưởng cải tạo xã hội. Nhưng vì được thừa hưởng được của những thế kỉ trước một triết lí di truyền rất phong phú và phức tạp, nên các bậc triết nhân kia đều muốn xây dựng những thuyết luân lí và xã hội của mình trên một vũ trụ quan để cho hệ thống tư tưởng của mình được duy nhất và chặt chẽ. Đó là dấu hiệu của một năng lực tư tưởng rất xúc tích, ưa thống hệ hóa tất cả những tri thức của thời đại.
Triết học Hy Lạp và sự giải thích vũ trụ. Ta cần phải nói ngay rằng các môn phái triết học Hy Lạp đều chịu khoanh tay trước vấn đề vũ trụ. Mỗi triết nhân chỉ theo cái sở kiến chủ quan của mình để giải thích sự cấu tạo vạn vật. Tuy mỗi người đều chịu quan sát vật chất rất kĩ lưỡng nhưng vì khí cụ quan sát chưa có nhiều và tinh vi nên sở kiến ấy đành phải căn cứ vào trực giác.
Thales (thế kỉ thứ VII tr.T.L) cho rằng vạn vật do chất nước sinh ra, nhưng không nói rõ sự sinh hóa ấy thế nào.
Anaximene (thế kỉ thứ VI tr.T.L) thì cho rằng vũ trụ biến thân ở không khí ra. Nhờ có không khí mà các đại dương có sức sống và ở đại dương các sinh vật xuất hiện.
Heraclite (thế kỉ thứ V tr.T.L) lại cho rằng cái nguyên chất của vũ trụ kia là lửa. Nguyên chất ấy chuyển động sinh ra không khí, không khí sinh ra nước, nước sinh ra đất. Rồi do một sự biến hóa ngược lại, đất lại sinh ra nước, nước lại sinh ra không khí, không khí sinh ra lửa. Vũ trụ cứ theo cái nhịp biến hóa của sự vật không cùng ấy, cái mất sinh ra cái còn, cái còn sinh ra cái mất mà giữ được mực điều hòa.
Leucippe và Democritr (thế kỉ V tr.T.L) chủ trương thuyết nguyên tử (atomisme). Theo ý hai ông này, những chất nhỏ (nguyên tử) ngẫu nhiên kết hợp với nhau rồi biến hóa đi mà tạo thành vũ trụ chứ không có cứu cánh gì hết.
Ngoài mấy lí thuyết duy vật ấy, còn có những nhà triết học duy tâm như Pythagore, Anaxagore; sau này Platon, Aristote.
Pythagore là một nhà toán học. Ông cho rằng tất cả vũ trụ đều chỉ là hình ảnh của những biểu tượng toán pháp : những con số. Bản thể của vũ trụ là Số một. Con số này theo luật biến hóa của nó sinh ra những con số khác và làm ra vạn vật. Thuyết của Pythagore là một thuyết bí hiểm, siêu việt quá đến huyền bí. Có người cho là vì ông chịu ảnh hưởng của siêu hình học Á Đông (Ấn Độ, Trung Hoa) nhiều quá nên mới phát sinh ra cái thuyết trừu tượng tuyệt đối ấy.
Anaxagore (thế kỉ thứ V tr.T.L) cũng nhận có vật chất nhưng lại cho rằng có một nguyên lí tối cao – ông gọi là Lí Trí – điều khiển sự biến hóa của vật chất để kiến trúc thành vũ trụ. Ông cắt nghĩa các hiện tượng thiên nhiên một duy lí đanh thép, không công nhận có Thần linh can dự vào sự cấu tạo ra vũ trụ. Ông cũng không nói rõ về cái Lí Trí tối cao kia, nhưng có lẽ ông cho đó là biểu thị của một trí năng hoạt động có trật tự và tổ chức.
Platon là một nhà triết học duy tâm hơn hết, duy tâm đến thần bí. Ông tin có sự can thiệp của Thần linh vào công việc sáng tạo ra vũ trụ. Tuy vậy chữ «Thần linh» đối với ông có một ý nghĩa triết lí hơn là tôn giáo. Bằng danh từ ấy, ông muốn chỉ cái ý tưởng Siêu việt đứng quản trị sự tác động của vật chất. Cái ý tưởng ấy không cùng một thể chất với vật giới. Nó tự tại, tự lập. Ông gọi nó là Chí Thiện (Idée du Bien). Xem vậy đủ biết, quan niệm về vũ trụ của ông chỉ là một cách củng cố luân lí.
Lí thuyết của Aristote, đệ tử của Platon khác hẳn. Ông không còn nhận có một ý tưởng ngoài vật chất. Theo ý ông, ý tưởng và vật chất là một, không thể phân tách ra được. Vật chất không phải là hư ảo, như Platon nói. Vật chất là thực. Nó chứa trong mình nó cái ý muốn thành hình. Tức thì ý muốn này biến nó ra thành hình. Nó cứ tiến mãi bao giờ đến chót đỉnh thì nó mất đi để nhập vào Thượng đế. Thượng đế là một hình tượng không có vật chất nữa. Lí thuyết Aristote có giống như lí thuyết của Chu Hy về lí và khí vậy.
Xét qua những môn phái triết học Hy Lạp chung quanh vấn đề giải thích vũ trụ, ta nhận thấy hai điều :
1) Con người đã có xu hướng giải phóng sự suy nghĩ khỏi gông cùm thần bí của tôn giáo, để tạo ra phép tắc luận lí riêng của khối óc mình.
2) Con người đã có xu hướng xây đắp hệ thống tu của mình bằng sự quan sát thực nghiệm, nhưng chưa đạt được vì trình độ khoa học và kĩ thuật còn thấp quá.
Bởi vậy nên các nhà triết nhân Hy Lạp đành rời bỏ công việc giải thích vũ trụ để lưu ý đến tâm lí con người, luân lí trong xã hội và sự cải cách chính trị. Socrate là người đại biểu ý thức của xu hướng này. Ông chỉ chuyên tâm nghiên cứu tâm lí và luân lí cùng những phương pháp suy luận. Ông nêu ra khẩu hiệu «Mày hẵng tự biết lấy mày» (Connais toi toi meem).
Cho hay một khi khoa học chưa phát triển thì các khối óc thông minh phi thường đến như các triết nhân gia Hy Lạp cũng đành phải chịu đầu hàng, trước cái huyền bí mênh mông của vật chất.
Sự đầu hàng này ta còn chứng kiến ở các triết nhân Trung Hoa nữa.
Triết học Trung Hoa và sự giải thích vũ trụ. Ở Trung Hoa, thuyết minh về vũ trụ có hệ thống nhất chỉ có Nho giáo. Sự thuyết minh ấy được ghi chép trong Kinh Dịch. Theo thuyết minh này thì từ lúc ban sơ vũ trụ là một khối mờ mịt hỗn độn. Trong cái khối mờ mịt, hỗn độn ấy, lưu hành một cái Lí vô hình rất cương kiện gọi là Thái cực. Nguyên tính của Thái cực là động. Vì sao mà sinh ra động? Vì Thái cực chứa trong mình nó hai sức mạnh mâu thuẫn nhau. Hai sức mạnh tương phản ấy (âm và dương), giao động với nhau, điều hòa với nhau, sinh ra vạn vật. Nói khác đi vũ trụ sinh ra là nhờ sự tác động của một sức mạnh nó chứa trong bổn thể nó hai xu hướng phát triển mâu thuẫn có năng lực khuynh đến sự điều hòa. Nhờ sự mâu thuẫn và sự điều hòa ấy mà trời đất vạn vật có biến hóa (dịch).
Lí thuyết Nho giáo về sự cấu tạo vũ trụ giống như lí thuyết của phái triết nhân duy tâm cổ ở Hy Lạp (trên kia đã nói rõ). Khổng Tử cũng quan niệm một cái ý tưởng tuyệt đối (Thái cực) làm bản chất nguyên thủy của vạn vật. Ngài cũng nhận cái ý tưởng tuyệt đối ấy chuyển động theo một phép tắc rõ rệt, bày ra cái máy móc sinh hóa của vạn vật. Cái máy móc này biểu hiện ra thành những tượng. Chữ tượng trưng Kinh Dịch vừa có nghĩa là hiện tượng (representation) lại vừa có nghĩa là ý tượng (symbole). Tượng là cái hình thái tự tại và chuyển biến của vật chất. Nhìn cái hình thái thiên nhiên đó, loài người mới nảy ra một biểu tượng tương đương, để ghi vào cái trí tuệ mình cái thực tế bên ngoài. Rồi do biểu tượng ấy, loài người cho cái hình thái thiên nhiên kia một ý nghĩa, mà tự nó không có. Biểu tượng vì thế thành ý tượng. Trong Kinh Dịch lấy quẻ ra để ghi những ý tượng này. Đạo Nho chủ trương lấy những ý tượng này làm mô phạm cho các sự hoạt động về kĩ thuật, về luân lí, về chính trị của loài người. Ta có thể cử ra đây một thí dụ. Như thấy nước ở dưới núi. Đó là hình thái thiên nhiên của vật giới (hiện tượng). Loài người chuyển cái hình thái ấy vào trí tuệ mình. Nó biến thành một biểu tượng: nước ở dưới núi là nước đầu nguồn. Rồi loài người suy diễn cái biểu tượng ấy ra thành một ý tượng: nước ở đầu nguồn khác nào con người lúc ấu trĩ. Do ý tượng này mà phát kiến ra chế độ nhi đồng giáo dục. Trong Kinh Dịch, đó là quẻ Mông: trên Cấn (núi), dưới Khảm (nước). Xem đó, Kinh Dịch có thể coi như một cách biểu tượng bằng nét vạch (representation lineaire) các hiện tượng thiên nhiên và ý nghĩa của các hiện tượng ấy.
Như vậy, ta có thể nói rằng Đạo Khổng là một đạo căn bản thì ở sự hiểu biết thiên nhiên (cách vật, trí tri) mà chủ đích là thiết định một nền đạo lí cá nhân và xã hội. Nên Khổng Tử chỉ xét cái trạng thái hiển hiện của vật giới (là hình và tượng) chứ không truy cứu đến bản chất của nó. Cái bổn chất này, ở thời đại Khổng Tử, chưa có đủ điều kiện kĩ thuật để quyết đoán là vật chất hay lí tưởng. Nên Khổng Tử phải gọi nó là Thái cực và gạt nó ra ngoài sự có thể hiểu biết của loài người. Trong một trình độ khoa học quá ư thấp kém, đạo Khổng bắt buộc phải là một triết học duy tâm vật. Và các triết nhân Hy Lạp cũng như các triết nhân Trung Hoa đều phải rời bỏ sự giải thích bổn thể vũ trụ mà tự buộc trong phạm vi nghiên cứu của nhân sinh[8].
Vì thế cho nên đến tận thời cận đại, sự biết của loài người mới chỉ đứng ở trạng thái thuần lí và chỉ quanh quẩn trong phạm vi nhân sinh (luân lí, tâm lí, chính trị...). Phải chờ cho khoa học phát triển dồi dào (từ cuối thế kỉ XVIII tới nay) tư tưởng loài người mới có đủ điều kiện để tự giải phóng khỏi trạng thái thuần lí và vượt được ra ngoài khoa nhân sinh học, để tìm hiểu đến cội nguồn của sự vật. Với khoa học, tư tưởng loài người bước vào thời kì chứng nghiệm.
CHƯƠNG IV
KHOA HỌC CHỨNG NGHIỆM VÀ THUYẾT TIẾN HÓA
Mãi đến đầu thế kỉ mười chín, loài người mới bắt đầu có đủ điều kiện (tài liệu, kĩ thuật, phương pháp quan sát) để giải thích vũ trụ và vạn vật một cách minh bạch. Đó là nhờ có sự phát triển bồng bột của khoa học chứng nghiệm.
Thực ra sự nhận thức theo óc khoa học đã manh nha ở Hy Lạp từ thế kỉ thứ VI tr.T.L. Về thời này, giữa lúc khắp mọi nơi tư tưởng loài người đều bị giam hãm trong những tín ngưỡng thần bí hoặc trong những kiến trúc thuần lí, ở Hy Lạp nhiều nhà bác học kiêm triết học đã biết căn cứ sự lập luận của mình vào thực tế. Họ quan sát sự vật với sự tin tưởng rằng những hiện tượng thiên nhiên không có Thần linh nào điều khiển mà chỉ là do nguyên nhân trực tiếp ngay ở hiện tượng khác trong vật giới sinh sản ra. Nhờ có khái niệm nhân quả này mà tư tưởng giới Hy Lạp đã nhiễm được nhiều tính cách rất khoa học. Bảy trăm năm tr.T.L, nhà triết học Thalés đã dám lập ra một ức thuyết duy vật thứ nhất về sự cấu tạo vũ trụ (xem chương III). Ngoài ra lại còn những nhà bác học khác như Euclide (thủy tổ khoa kỉ hà học), Pythagore (nhà toán học đại tài), Archmede (nhà toán học kiêm vật lí học), Apollonius de Perga (nhà toán học đã thai nghén ra khoa đại số kỉ hà học: algebre geometrique) làm chói lọi cả khoa học giới trong mấy trăm năm và giúp ích cho các nhà bác học cận đại rất nhiều.
Tiếc rằng cái văn minh xán lạn ấy đến đầu kỉ nguyên Tây lịch bị người La Mã chinh phục làm cho suy đọa. Sau này văn minh La Mã (vốn chịu ảnh hưởng rất xấu của Hy Lạp) lại bị cuộc xâm lược của bọn rợ man tàn phá[9]đến mất tích (thế kỉ thứ V), khiến toàn cõi Âu châu bị chìm đắm trong tư tưởng thần bí suốt thời Trung cổ, hơn một nghìn năm. Suốt thời Trung cổ, các nhà tư tưởng Âu châu đều bị nằm ép dưới uy quyền đạo Giatô (cũng như ở Trung Quốc bị tư tưởng giới bị đạo Nho thống trị). Quan niệm về vũ trụ của người Hybálai (xem lại chương II) diễn trong bản Cựu ước của Kinh Thánh được cả các giáo sĩ đầu kỉ nguyên Tây lịch thêm sắt sửa sang thành một tín điều (dogme) bất khả xâm phạm của Giatô giáo. Tín điều ấy gồm có thuyết sáng thế cho rằng mọi vật đều do Thượng đế nhất đán cấu tạo ra bằng uy quyền vạn năng trí của Ngài. Thuyết định chủng chủ trương rằng từ lúc Thượng đế cấu tạo ra đến giờ, vạn vật vẫn y nguyên không thay đổi. Con người, sinh vật, thảo mộc mà ta trông thấy bây giờ thế nào thì từ khai thiên tích địa cũng vẫn như vậy – nghĩa là vạn vật không biến hóa.
Những chủ thuyết ấy - ngự trị tư tưởng giới Âu Tây suốt thời Trung cổ - đã kéo sự hiểu biết của loài người (ở Âu châu) thụt lùi về tận thời kì thần bí. Quả vậy, năm bảy trăm năm tr.T.L, ở Trung Hoa và ở Hy Lạp, các nhà triết học đã vượt quá trạng thái thần bí mà bước sang trạng thái thuần lí cao hơn. Họ đã biết đả đảo thuyết sáng thế và thuyết vạn vật bất biến rồi. Duy vật như Democrite, Lucrece... hay duy tâm thần túy như Platon, Khổng Tử, Lão Tử cũng đều không công nhận sự can thiệp của Thần linh nào trong việc sáng tạo ra vũ trụ. Phái duy vật thì cho là vũ trụ do một vật chất (nguyên tử) tự chuyển động mà biến thành; phái duy tâm thì cho là vũ trụ do một cái Lí (thái cực của Khổng Tử, Chí Thiện của Aristote, Lí tưởng của Platon) tự chuyển động mà làm nên. Không ai công nhận có một vị Thượng đế sáng tạo ra vạn vật cả. Hơn nữa, các bậc triết nhân ấy lại còn phản đối cả thuyết bất biến nữa. Lẽ dịch cả Khổng Tử, Lí động của Heraclite đủ nói dài về sự phản đối ấy.
Đáng lí với trình độ nhận thức và suy luận khá cao như vậy, loài người phải tiến thẳng đến khoa học mới phải. Ngặt vì, ở Trung Quốc thì Nho giáo chính thống bị quyền chính trị xuyên tạc đi để lợi dụng. Suốt một thời gian từ Hán Triều đến cận đại, bị chính trị kiềm hãm, tư tưởng giới Trung Hoa mất hết sinh lực, chỉ còn là một hình thức trống rỗng. Phải trí thức thì xu nịnh quyền chính, tạo thành một đẳng cấp riêng càng ngày càng xa rời thực tế, chỉ chơi vơi trên từng thuần lí không thể đạt được tư tưởng thực nghiệm. Còn ở Âu châu thì giặc Nhật Nhĩ Man làm tiêu trầm cả nền văn hóa La - Hy và giúp đạo Gia Tô thắng thế đủ sức nắm quyền bá chủ của toàn cõi lục địa suốt trong hơn một nghìn năm.
Nhưng dù sao, một nền văn hóa như Hy Lạp không thể mất tích hẳn được. Lúc La Mã chiếm Hy Lạp và lúc La Mã bị giống Nhật Nhĩ Man xâm lược văn hóa Hy Lạp đã cùng với một số trí thức gia lánh được sang xứ Islam. Rồi từ Islam, nó lan tới nước Ý đại lợi, Tây Ban Nha gây nên cuộc Phục hưng văn nghệ và khoa học hồi thế kỉ XIV, XV, XVI. Nhờ cuộc phục hưng này mà khoa học có lối để phát triển. Nhất là các khoa thiên văn, toán pháp và cơ khí thì tiến bộ mau lắm. Những ức thuyết thiên văn của Copernic, Kepler (thế kỉ XV, XVI) về điểm: trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ làm chấn động cả dư luận vì chủ trương này trái với chủ trương của tôn giáo hồi đó cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ. Sách của Copernic, vì thế bị giáo đồ cấm lưu hành.
Thế kỉ XVI đã ẩn cái đà phát triển cho khoa học. Thế kỉ XVII tiếp tục theo và phát triển rất mau. Một phát kiến lớn lao nhất của các nhà bác học về cuối thế kỉ XVI là sự thí nghiệm (experimentation). Từ trước, các nhà bác học muốn nghiên cứu sự vật chỉ căn cứ hoàn toàn vào cổ nhân, nhất là căn cứ vào sách của Aristote, ở Kepler, phương pháp thí nghiệm bắt đầu thành lập. Với Francois Bacon (1561 - 1626) và Galilee (1564 - 1642) thì phương pháp ấy lại càng được thắng thế lắm. Theo phương pháp này thì muốn hiểu sự vật, cần phải quan sát kĩ hiện tượng thiên nhiên rồi lại phải đem những điều nhận xét của mình kiểm điểm lại bằng sự thí nghiệm trong phòng khảo cứu. Thí nghiệm mà thấy đúng tức là nhận xét đúng. Thí nghiệm mà thấy sai thì sự nhận xét chưa đầy đủ, phải bắt đầu lại sự quan sát.
Lối hiểu biết này khác hẳn lối ma thuật, thần bí hay thuần lí của loài người từ đời thái cổ đến thời đại Galilee. Nó gạt hẳn ra ngoài sự can thiệp của thần linh, của trí tưởng tượng cuồng phóng, của lí trí thuần túy, của trực giác. Nó chỉ lấy quan sát và thí nghiệm làm căn bản để đi tìm chân lí về sự vật.
Nhờ có phương pháp hiểu biết ấy mà khoa học về thế kỉ XVIII đi được những bước rất dài. Với Newton khoa cơ khí học thành lập, Linne, Buffon, Jussieu làm nổi bật khoa học tự nhiên học và mở mào cho khoa khảo cổ sinh vật (paleontologie). Lavoisier tạo ra khoa hóa học. Sự tìm tòi khám phá của loài người tiến vào các ngành sinh hoạt của thiên nhiên.
Với những điều kiện ấy, bước sang thế kỉ XIX, khoa học giới đứng ra giải thích vũ trụ đàng hoàng và tự tin. Theo nhà thiên văn học Laplace (1749 - 1827) thì vũ trụ thoạt nhiên là một khoảng mông mênh, vô biên. Trong khoảng ấy có muôn triệu đám tinh vân (nébuleuses)[10]vận chuyển không ngừng. Mỗi đám tinh vân chứa hàng 20 triệu ngôi sao, mỗi ngôi là một thế giới độc lập. Bao nhiêu ức vạn ngôi sao ấy, từ thuở nào đến giờ, vẫn vận chuyển không phút nào ngừng theo một nhịp điệu điều hòa và theo luật vạn vật hấp dẫn. Sở dĩ những tinh vân kia vận chuyển liên miên như vậy là bởi nó hoàn toàn là chất hơi, trong lòng lại có một sức nóng quá mạnh luôn luôn giao động làm cho không đứng yên được phút nào. Những tinh vạn ấy cứ xoay chuyển, vận động, ngùn ngụt cháy phát ra chung quanh những vòng lửa sáng quắc. Rồi ngày một lạnh dần, trong đám tinh vân có phần thì kết tinh đọng lại ở giữa, có phần lỏng bắn ra chung quang. Phần kết tinh vẫn âm ỉ cháy chiếu sáng những phần tử bắn ra chung quanh. Đám tinh vân thành một thái dương hệ, trong vũ trụ, kể không biết bao nhiêu thái dương hệ vì mỗi đám tinh vân đã biến ra nhiều thái dương hệ như thế. Ở đây, nói riêng về cái thái dương hệ, trong đó có quả đất.
Trước đây, vào khoảng bốn, năm nghìn triệu năm, một đám tinh vân đã kết tinh và làm bắn ra chung quanh nhiều chất lỏng. Phần kết tinh là Mặt Trời, những phần tử bị bắn ra chung quanh là các vị hành tinh. Tất cả đều vẫn ngùn ngụt cháy. Dần dần các vị hành tinh đó mỗi ngày một nguội và tử chất hơi, chất lỏng chuyển sang chất đặc như ngày nay.
Trái đất chúng ta ở cũng chỉ là một trong những vị hành tinh ấy. Khi mới ở mặt trời văng ra thì nó vẫn có ánh sáng riêng, chạy một mình xoay quanh mình và xoay quanh mặt trời. Vì sau này, cọ xát với lớp không khí lạnh hơn, nó nguội dần đi, ngoài vỏ rắn lại, mất hết ánh sáng và trở nên một vị hành tinh xoay quanh mặt trời.
Thuyết «tinh vân» của Laplace nay đã được các nhà bác học công nhận là đúng. Với sự giải thích vũ trụ của Laplace quan niệm sáng thế của tôn giáo đã không còn chỗ đứng nữa. Người ta đã thấy rõ không có Đức Thượng đế nào làm ra vạn vật nữa. Vũ trụ phát nguyên ở vật chất và biến hóa cũng hoàn toàn theo luật lệ của vật chất.
Thuyết Laplace lại còn gợi ra quan niệm tiến hóa nữa. Trái đất nếu đã không do Thượng đế cấu tạo thì tất nhiên nó phải theo lẽ tiến hóa của vật chất mà thành. Quan niệm tiến hóa ấy sang thế kỉ XIX được các nhà địa chất học, các nhà khảo cổ sinh vật học, sinh vật học phát huy rực rỡ. Mỗi ngày lại thêm một sự khám phá chứng thực thuyết tiến hóa cho đến ngày nay thì quan niệm tiến hóa thành giường cột của khoa học. Ngày nay, ai cũng phải nhận rằng «những loại hóa chất hay những loại sinh chất không có loại nào là không biến hóa» (Gustave Le Bon – Evolution de la matière). «Dù hữu cơ hay vô cơ, sống hay chết, chịu sức tác động đến các chất ấy, chất nào cũng biến hóa cả. Càng ngày càng thấy rõ sự tiến hóa của sinh vật chỉ là một ca đặc biệt của sự tiến hóa chung của vật chất» (E. Rabaud – Le Transformisme et l’expérience).
Người đầu tiên khởi xướng ra quan niệm tiến hóa có hệ thống là nhà thảo mộc học Lamarck (1744 - 1829). Theo thuyết của ông này thì các sinh vật ngày nay là kết quả của một cuộc tiến hóa liên tiếp trong thời gian. Bị luật tiến hóa chi phối, vạn vật mỗi ngày một biến đổi diễn ra thiên hình vạn trạng. Ông cho rằng các sinh vật sở hữu tiến hóa là vì ảnh hưởng của hoàn cảnh, ông viết: «Khi những điều kiện về nhà, về khí hậu, về ăn uống, về cách sống của một sinh vật thay đổi thì vốc vác, hình thể, sự cân đối của các bộ phận, màu sắc, sự vững chắc, sự khéo léo, sự xảo trí của sinh vật ấy cũng thay đổi tương hợp với cuộc thay đổi trên này (Philosophie zoologique). Lẽ thứ hai làm vạn vật tiến hóa là sự các cơ quan có dùng đến hay không: «Cơ quan nào không được dùng đến lâu ngày thành ra yếu đuối rồi một ngày kia biến mất... cơ quan nào được dùng đến luôn sẽ lớn lên và mạnh mẽ lên». Những đặc tính do sự tiến hóa đem lại cho sinh vật có thể di truyền lại cho con cháu được. Vì thế mà cứ mỗi thế hệ ta lại thấy sự biến đổi ở các loài thảo mộc và sinh vật.
Thuyết tiến hóa của Lamarck tuy giá trị mà không được mọi người chú ý đến bởi vì nó bị nhà bác học Cuvier chủ trương rằng các loài sinh vật không có tiến hóa. Nhưng quả địa cầu cứ lâu lâu lại bị một trận thiên tai[11]đảo lộn cả sự sống, chôn vùi các sinh vật đang có, rồi lại một loạt sinh vật khác được sáng tạo ra (Théorie les créationas successiver) nên ta thường lầm rằng sinh vật tiến hóa. Chủ trương này hợp với tín điều tôn giáo đương thời nên được cực lực hoan nghênh, làm cho thuyết Lamarck bị rơi vào bóng tối. Mãi đến năm 1859, vấn đề tiến hóa mới lại nảy ra rầm rộ, nhờ có Darwin với quyển Vật chủng khởi nguyên (Origine des especes) của ông. Theo sách này thì «mỗi sinh vật càng tiến hóa thì càng xa mãi trạng thể gốc của nó». Tiến hóa vì phải cạnh tranh sinh tồn. Giống nào khỏe thì sống vì thích hợp, giống nào chết vì yếu vì không thích hợp. Dần dần, giống nào còn sống sót được tất đã phải biến cải thể chất cho thích hợp với hoàn cảnh. Sự cải biến ấy làm ra sự tiến hóa. Luật tiến hóa này, Darwin kêu là thiên trạch (sélection naturelle). Thuyết Darwin được tán thành nhiệt liệt mà bị công kích cũng kịch liệt. Tất nhiên trong số người công kích này có các giáo sĩ cơ đốc, vì thuyết Darwin – cho rằng loài người do giống khỉ tiến hóa mà thành hình – xúc phạm đến tín điều sáng thế và định chủng của Gia tô giáo.
Nhưng khoa khảo cổ sinh vật học và khoa địa chất học dần dần đem lại nhiều tài liệu ủng hộ cho thuyết tiến hóa của Darwin. Nhờ công phu nghiên cứu của nhà địa chất học Anh cát lợi Lyell (1797 - 1875) ta được biết rằng trái đất chịu ảnh hưởng liên tiếp của những điều kiện vật chất luôn luôn thay đổi nên tiến hóa lần lần, hết lớp vỏ này đến lớp vỏ khác chồng lên nhau[12]. Sự khám phá này đủ lật nhào cái chủ trương «thiên tai trên địa cầu» của Cuvier, đồng thời các nhà khảo cổ sinh vật học lại tìm được ở những tầng thạch kỉ (ere geologique) chồng chất lên nhau, các vết tích ở các thời kì xưa còn sót lại. Vết tích ấy kêu là hóa thạch (fossiles). Nhờ những vết tích ấy mà người ta tìm ra được sự tiến hóa của các loại sinh vật trên mặt đất từ ngày trái đất thành lập đến ngày nay. Từ thời kì nọ sang thời kì kia, sự tiến hóa của sinh vật thật rõ rệt.
Riêng về sự tiến hóa của loài người, các nhà khảo cổ sinh vật học đã phác họa lại được bằng hóa thạch tìm thấy cả một lịch trình biến thiên. Nhờ các bác học ấy ta được biết rằng, trước kia khi tới được hình thể hiện thời, giống người đã trải qua ba hình thể khác. Ba hình thể này các nhà khảo cổ sinh vật học đã tìm thấy ở trạng thái hóa thạch:
1) Giống người vượn Pithecanthrope (tìm thấy ở Java 1891).
2) Giống người CroMagnon (tìm thấy ở Pháp).
3) Giống người Neanderthal (tìm thấy ở Đức 1856).
Gần đây (1929 - 1930) người ta lại mới đào được ở Bắc Kinh (Trung Hoa) một bộ xương người xét ra còn cổ hơn giống Pithecanthrope đào thấy ở Java. Đủ biết rằng, trước khi thành hình như hiện tại, giống người đã trải qua một lịch trình biến hóa phiền toái lắm.
Khoa thai sinh học (embryologie) cũng giúp nhiều tài liệu làm sáng tỏ thuyết sinh vật tiến hóa. Nhờ có các bác học Sarres, Fritz Muller, người ta khám phá ra được một định luật trong sinh vật học là: «Những hình thể tiến hóa của một sinh vật từ lúc thành thai đến lúc nở ra nhắc đúng những chặng đường tiến hóa trong các thạch kì địa chất của toàn thể chủng loại sinh vật ấy». Xét kĩ những hình thể quá độ từ chặng này sang chặng khác của một bào thai trước khi nở ra thành người, ta thấy những hình ấy giống các hình sinh vật tìm thấy ở các tầng địa chất trước thời kì loài người xuất hiện. Điều ấy chứng tỏ rằng loài người do các giống sinh vật tiến hóa mà thành.
Tóm lại, khoa học hiện đại đã chứng minh rằng: vật chất tiến hóa thành vũ trụ và trái đất, trái đất tiến hóa làm thành sinh vật, sinh vật tiến hóa làm thành loài người, loài người tiến hóa từ trạng thái người vượn (Pithecanthrope) đến trạng thái hiện kim. Luật tiến hóa quả là then chốt của sự sống, nguyên động lực của sự biến thiên. Nó đã làm cho cuộc sinh hoạt trở nên linh diệu vô cùng. Đó là một chân lí chắc chắn không ai có thể lay chuyển được.
Với thuyết trên, những quan niệm sáng thế và vạn vật bất biến bắt đầu sụp đổ. Và đổ luôn cả những tín ngưỡng thần bí, những hệ thống triết lí viển vông không căn cứ vào sự chứng nghiệm. Thuyết tiến hóa thắng là khoa học tư tưởng thắng vậy.
CHƯƠNG V
LUẬT TIẾN HÓA VÀ LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI
Đồng thời với các nhà tự nhiên học (Buffon[13], Lamarck) đem áp dụng thuyết tiến hóa vào sự giải thích vạn vật, các nhà triết học Pháp thế kỉ thứ XVIII chịu ảnh hưởng gián tiếp của chủ nghĩa duy lí (rationalisme) do Descarte thiết lập và chịu ảnh hưởng trực tiếp của triết học Anh đương thời cũng hăng hái áp dụng thuyết tiến hóa và sự giải thích lịch sử loài người. Montesqien viết Cuộc hưng vong của đế quốc La Mã (Grandeur et décadence des Romains) và Vạn Pháp tinh nghĩa (Esprit des Lois), Voltaire soạn cuốn Tiểu luận về phong tục và tinh thần các dân tộc (Essaisur les moeurs et l’Esprit des Nations – 1756). Condorcet phác hoạch ra «bảng kê sự tiến bộ trí tuệ loài người» (Tableau des progres de l’Esprit humains). Đại loại ông nào cũng tin rằng từ trước tới nay tiến hóa luôn luôn không lúc nào ngừng, hết chặng đường này biến sang chặng đường khác, theo những định luật bất di bất dịch chứ không theo một ngẫu nhiên hay một sức mạnh Thần linh nào. «Không phải sự ngẫu nhiên điều khiển cuộc đời. Có những nguyên nhân chung hoặc tinh thần hoặc vật chất, nó làm cho mỗi xã hội quân chủ hưng thịnh lên, đứng vững được hay đổ sụp xuống» (Montesquieu).
Hưởng ứng theo các nhà sử học, phái kinh tế gia (Turgot), phái cải cách xã hội (Saint Simon) cũng mạnh dạn tán thành thuyết tiến hóa.
Turgot, trong sách Suy luận về sự thành lập và phân chia của cải (Reflexions sur la fomation et la distribution des richesses) diễn tả và cắt nghĩa rành mạch sự biến thiên của chế độ nô lệ (esclavagisme) ra chế độ nông nô (servage), sự biến thiên của chế độ nông nô ra chế độ lao động tự do (travail libre), theo hẳn quan niệm tiến hóa về lịch sử. Saint Simon và các đồ đệ càng thuyết minh sáng sủa hơn Turgot quan niệm tiến hóa ấy và kết luận thẳng đến chế độ phân chia của cải theo chủ nghĩa xã hội.
Bước sang thế kỉ XIX thì quan niệm tiến hóa về lịch sử lại càng được phát huy rực rỡ, với những nhà xã hội học trứ danh như Auguste Comte, Herbert Spencer, Karl Mars, Enghels. Một lòng tin vô biên đối với sự tiến hóa vô cùng của xã hội loài người vụt nở ra trong triết học giới, quét sạch những di tích còn sót lại của quan niệm bất biến về lịch sử. Tất cả đều tin rằng loài người đã tiến hóa và sẽ còn tiến hóa mãi mãi – tiến hóa theo những định luật mà các nhà xã hội học đã lần lượt khám phá ra được. Năm 1848, trong cuốn Tương lai của khoa học (Avenir de la Science) nhà triết học Renan đã ghi chép được lòng tin tưởng chung ấy: «Sự tiến bộ lớn lao nhất của tư tưởng giới hiện đại là biết đem cái khái niệm về sinh thành thay vào khái niệm về bổn thể, đem quan niệm về sự tương đối thay vào quan niệm về sự tuyệt đối, đem lẽ động thay vào lẽ tĩnh. Trước kia cái gì cũng được coi như có... Bây giờ cái gì cũng được coi như đang sinh thành».
Từ 1848 đến nay, loài người đã đi được những bước khổng lồ trên con đường tiến hóa. Những cuộc biến đổi lớn về kĩ thuật, kinh tế, về công nghiệp, về chính trị, về khoa học, về tư tưởng, liên tiếp xảy ra trong một thế kỉ nay ở khắp mặt địa cầu, làm cho không còn ai có thể không công nhận sự tiến hóa của loài người được nữa. Để tựa cho một pho sách bách khoa Evolution Humaine[14]bác sĩ Langevin, một nhà khoa học cự phách hiện đại, đã viết những dòng bất hủ sau đây :
«Chủ nghĩa tiến hóa dạy cho chúng ta biết rằng loài người chúng ta phát sinh ở những hình thức sống tối sơ và đã trải qua không biết bao nhiêu thế hệ mới đến được hình thức hiện đại. Những thế hệ tiền bối ấy đã chuyển giao lại cho chúng ta, trong sự đau thương quằn quại, ngọn lửa thiêng rung động nhưng mỗi ngày một ngời sáng thêm ra. Đối với các bậc tiền bối đó, chúng ta có bổn phận phải giữ lấy và chuyển giao ngọn lửa kia cho bọn hậu sinh. Chúng ta là cái chung cục hiện tại của những lớp sinh vật biến hóa nối tiếp nhau không gián đoạn: chúng ta có trách nhiệm trong cuộc kế tập sự biến hóa ấy. Và, lấy quá khứ đảm bảo cho tương lai, chúng ta có thể hi vọng rằng trong cái khoảng thời gian vô tận sắp tới, những lớp sinh vật kia sẽ tiến hóa đến những hình thức sống vô cùng tốt đẹp, vô cùng phong phú, tốt đẹp và phong phú gấp bội cái hình thức của chúng ta ngày nay. Sự tiến hóa này nhanh chóng hơn cả sự tiến hóa từ côn trùng amibe đến chúng ta bây giờ, về phần vật chất cũng như về phần tinh thần... Chúng ta đã hằng chứng kiến bao nhiêu cuộc biến hóa, ở phạm vi hình thức sinh vật hoặc ở phạm vi tư tưởng linh động: chúng ta đã được thấy mỗi ngày sự hiểu biết và sức khả năng của chúng ta giàu thêm mãi ra; tất chúng ta phải tin cậy hoàn toàn vào sự tiến hóa không ngớt của sự sống. Dù phải trải qua nhiều hoan lạc và đau thương, cuộc sống cũng sẽ phải đi tới những hình thức (vật chất và tinh thần) mà hiện nay chúng ta không tài nào tưởng tượng đến được».
* *
*
Tuy vậy, sự đắc thắng của quan niệm tiến hóa không phải là không gặp nhiều sức cản trở mãnh liệt. Sức cản trở đáng cho ta lưu ý nhất, ngoài sự khủng bố của chính trị và tôn giáo, là sự phản đối của hai phái tư tưởng: hoài nghi và bi quan. Tuy mỗi phái lập luận một khác, nhưng cả hai đều giống nhau ở chỗ không công nhận sự tiến hóa của loài người.
Phái hoài nghi.Phái này tin có một con người muôn thủa, một hình thức xã hội kiểu mẫu của đời đời và một nền đạo lí bất di bất dịch. Họ lại tin rằng cổ nhân đã có thời kì đạt được cái đạo lí ấy, tạo được cái hình thức xã hội ấy và phát huy được những năng khiếu của con người ấy. Những điều mà chúng ta tưởng mới tìm ra được trong buổi cận đại, cổ nhân đã tìm thấy từ lâu rồi. Theo ý họ, bổn phận chúng ta ngày nay chỉ là cố gắng bắt chước cho đúng được những điều cổ nhân đã tin theo. Sự tiến hóa chỉ là một ảo tưởng.
Với thái độ tư tưởng ấy, phái hoài nghi trở nên bảo thủ. Họ muốn kéo loài người lui lại thời xưa, để duy trì lấy cái dĩ vãng mà họ cho là hoàn hảo. Ở Trung Hoa, đại biểu cho não hoài nghi và bảo thủ ấy là phái Khổng giáo. Phái này một mực công nhận nền văn minh Nghiêu Thuấn làm khuôn vàng thước ngọc cho muôn thuở. Bắt đầu từ Khổng Khâu đã nêu ra cái ý kiến bảo thủ ấy thành một thái độ học vấn và hành đạo của người quân tử. Ngài nói rằng: «Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, thiết tỉ ư ngã Lão Bành: Thuật lại cái đạo của Thánh hiền mà tự không sáng tác ra cái gì, tin mà thích đạo đời xưa, ta trộm ví như ông Lão Bành»[15](Luận ngữ: Thuật nhi, VII).
Cái đạo của Thánh hiền mà Khổng Tử thuật lại đó là cái đạo trị quốc của các đấng vua thời xưa (như Nghiêu Thuấn) và của các bậc đại phu dưới các triều Hạ, Thương, Chu. Khổng Tử tin rằng đạo trị nước của các vị Thánh hiền và đại phu ấy muôn đời sau không thể nào hơn được nữa, nên người sau chỉ cần học lại cái «thánh đạo» của cổ nhân, rồi đem ứng dụng cho đúng, thế là hoàn toàn rồi. Sách Luận ngữ chép rằng: «Nhan Uyên hỏi việc nước, ngài đáp: «Theo lịch pháp đời Hạ, cỡi xe lộ đời Ân, đội mũ miện đời Chu, về nhạc thì múa nhạc thiều (đời Thuấn)».
Vì Khổng Tử chủ trương «tổ thuật Nghiêu Thuấn» như thế, nên các môn đệ của ngài về sau cứ nhắm mắt theo gót ngài, khư khư ôm lấy cái đạo thánh hiền của những đời Tam Hoàng Ngũ Đế, không thừa nhận một lí thuyết hay một chế độ nào mới cả. Cái tinh thần bảo thủ ấy làm cho văn hóa Trung Quốc ngừng trệ không sao tiến bộ nhanh chóng được.
Đời nhà Tần (thế kỉ thứ III tr.T.L), đã có một học phái phản động lại não trạng nho bảo thủ kia. Hồi ấy, Tần Thủy Hoàng đế vừa thống nhất toàn cõi, muốn đem chính sách cai trị mới để tạo cho nước Tàu một sinh hoạt thích hợp với những điều kiện kinh tế thời đó. Lí Tư làm thừa tướng nước Tần. Lí Tư vốn cùng với Hàn Phi học đạo của Tuân Tử. Hai người thường có một thái độ rất cấp tiến trong học thuật cũng như trong việc hành chính. Thấy các đạo Nho đương thời hay lấy cổ nhân ra để công kích các điều cải cách chính trị cần thiết cho xã hội Hàn Phi liền đứng ra bài xích các môn đồ Khổng Tử. Trong thiên Ngũ Đố, ông viết:
«Đời Thượng cổ, người ít cầm thú nhiều, thánh nhân chụm cây làm tổ để tránh các loài thú dữ làm hại; người ta ăn trái cây cùng các loại sống sít hôi tanh, thánh nhân dùi gõ lấy lửa để nấu chín mà ăn cho khỏi bệnh tật. Đời trung cổ nước lụt mênh mông, ông Cổn ông Vũ khơi ngòi cho nước chảy. Đời cận cổ vua Kiệt, vua Trụ tàn bạo, vua Thang vua Vũ phải chinh phạt.
Nay nếu có người chụm cây làm tổ lấy gỗ dùi lửa ở đời nhà Hạ thì tất bị ông Cổn, ông Vũ cười; nếu có người khơi ngòi cho nước chảy ở đời nhà Ân, nhà Chu thì tấ bị vua Thang, vua Vũ cười – Vậy nay cho đạo vua Nghiêu vua Thuấn, vua Võ là hay ở đương thời, tất là bị bậc thánh đời nay cười. Ấy là bậc thánh nhân không vụ theo cổ, không bắt chước cái đạo thường khả, chỉ xét việc đời và nhân đó mà phòng bị»[16].
Lời nói thật khác một trời một vực với cái chủ trương «tổ thuật Nghiêu, Thuấn; hiến chương Văn, Vũ» của Khổng Tử. Hàn Phi đã tỏ ra biết tin ở lẽ tiến hóa của sự sống và sự tỏ chức xã hội. Trái lại, bọn Khổng nho chỉ tin ở cổ nhân. Nên khi Thủy Hoàng bỏ chế độ cũ lập chế độ chính trị mới, bác sĩ Thuần Vu Việt, thay lời các bạn Nho khác, tâu rằng: «Nhà Ân nhà Chu làm vua hơn một nghìn năm phong cho con em và công thần để làm vây cánh. Nay bệ hạ gồm có bốn bể mà con em không có chức tước gì cả. Nhỡ có kẻ làm tôi như bọn Điền Hằng và Lục Khanh thì lấy ai mà cứu? Việc làm không theo cổ mà lâu dài được là chưa thấy bao giờ».
Thừa tướng là Lí Tư vốn cùng chủ nghĩa với Hàn Phi tâu rằng:
«Năm đời đế không trở lại, ba đời Vương không bắt chước nhau thế mà vẫn trị được thiên hạ, không phải đời nọ trái đời kia chỉ vì thời biến khác nhau vậy. Nay bệ hạ mở nghiệp lớn dựng công muôn đời. Vốn không phải là kẻ ngu Nho dám biết thế mà người Việt nói những việc đời Tam Đại thì sao đủ theo được?... Nay chư sinh không theo đời bây giờ mà cứ bắt chước đời xưa để chê bai đương thế làm mê hoặc bọn ngu dân. Tôi, thừa tướng tên là Tư tưởng, dám liều chết nói để nhà vua biết: «Thuở trước thiên hạ tán loạn không có thống nhất cho nên chư nho dấy lên, động nói cái gì là nói đời cổ để làm hại đời kim, trang sức hư ngôn để làm rối sự thực... Nay Hoàng đế gồm cả thiên hạ, phân biệt cái đen cái trắng mà định nhất tôn, thế mà những nhà có cái học riêng cứ cùng nhau bẻ bác pháp giáo của nhà vua... Tôi xin phát lệnh rằng: sử quan thấy sách gì không phải là sách của nhà Tần thì đốt hết cả. Ai dám nói thì thầm với nhau sách Thi, Thư thì chém bỏ xác ngoài chợ; ai lấy đời xưa để chê đời nay thì giết cả họ...»[17].
Vì đó mà có việc đốt sách giết Nho sĩ dưới triều Tần Thủy Hoàng. Cuộc xung sát giữa phái Hàn Phi, Lí Tư và phái Khổng Nho chỉ là cuộc va đụng mãnh liệt của thái độ tiến hóa và thái độ thủ cựu. Hàn Phi và Lí Tư được coi là những người đề xướng táo bạo nhất quan niệm tiến hóa về học sử trong học giới Trung Quốc.
Nhưng sau, Tần Hán bị diệt rồi, bọn Khổng Nho lại thắng thế, xuyên tạc đạo chính thống để ủng hộ quân quyền; và từ đó về sau, hết đời nọ đến đời kia đẳng cấp Nho cứ bo bo giữ thái độ hoài nghi và thủ cựu đối với bất kì một phát kiến mới lạ nào, làm cho nước Tàu chìm đắm trong một trạng thái văn hóa gần như chết trong mấy nghìn năm.
Sự u mê của bọn Khổng Nho ở thế kỉ thứ III tr.T.L còn có chỗ đáng khoan dung vì họ sống trong một trạng thái xã hội lạc hậu. Đến cái u mê của bọn triết nhân thời cận đại (thế kỉ XVI, XVII) bên Âu châu thì không thể tha thứ được. Giữa một thời đại có các bác học lừng danh như Pascal, Galilee, Newton, Descartes mà còn có một số trí thức gia dám phủ nhận sự tiến hóa của nhân loại thì thật là kì quái.
Năm 1687, một văn sĩ Pháp Perrault quá tin ở lẽ tiến hóa ngang nhiên công bố: hiện đại hơn cổ thời. Sau Perrault có Fontenelle cũng nhiệt liệt tán dương ý kiến ấy. Lập tức phái thủ cựu Boileau, La Bruyere, La Fontaine, Fenelon nhẩy ra phản đối,bênh vực thái độ «thần phục cổ nhân» mà tất cả văn giới Pháp vẫn theo từ lúc có trào lưu phục hưng văn nghệ (thế kỉ XVI). Phái thủ cựu này cho rằng những cái gì gọi là hoàn toàn thì cổ nhân (Hy Lạp) đã thực hiện được hết rồi, ngày nay chỉ nên bắt chước mà đừng tranh cãi gì hết.
Cuộc tranh biện giữa phái Cũ và phái Mới (Querelle des Anciens et des Modernes) ở bên Pháp hồi cuối thế kỉ XVII, chính là cuộc chiến đấu giữa hai thái độ hoài nghi thủ cựu và thái độ tiến hóa trong tư tưởng giới.
Tại sao lại có một số trí thức gia hoài nghi sự tiến hóa của nhân loại như vậy? Xét cho kĩ thì bởi từ thế kỉ XVIII về trước, người ta chưa biết tí gì về đời hồng hoang và đời tiền sử cả. Người ta nói đến cổ nhân tức là chỉ nói đến thời đại Nghiêu Thuấn Hạ Thương, Chu (ở Trung Hoa) và Hy Lạp, La Mã ở châu Âu. Ở những thời đại này, xã hội Trung Hoa và Hy Lạp, La Mã đã thành hình nghĩa là đã có một tổ chức phân minh, tinh tế lắm. Bởi vừa trải qua một giai đoạn lịch sử ngưng trệ và hỗn loạn (thời Xuân Thu, Chiến Quốc ở Trung Hoa, thời xâm lược của bọn Man Dã ở Âu châu) trong đó bao nhiêu chân lí bị ma chiết, bao nhiêu tổ chức xã hội bị tan nát, bao nhiêu giá trị văn hóa bị chà đọa, nên sau hồi đảo lộn đó, người đời muốn tìm lại cái dây tiến hóa từ cổ thời đến minh phải lần mò phục hưng lại những giá trị đã tiêu trầm mất. Trong cuộc phục hưng này, người ta khám phá dần thấy nền văn minh cổ; người ta đem so sánh với đương thời thì thấy văn minh kia đẹp đẽ hơn nhiều. Do đó, người ta kết luận rằng về mọi phương diện sinh hoạt, cổ nhân đều hơn hẳn hiện đại. Và do đó, những kẻ tri thức nông cạn đâm ra nghi ngờ sự tiến bộ của loài người.
Nếu họ được biết rằng dưới đời Nghiêu Thuấn, Hy Lạp, La Mã loài người đã sống cách nào ở những thời đại Cựu thạch khí và Tân thạch khí; nếu họ được biết rằng trước kia khi tiến đến văn minh nông nghiệp của cổ thời (Nghiêu Thuấn, Hy Lạp) loài người đã trải qua bao nhiêu trạng huống sinh hoạt bấp bênh cơ cực khác (trạng thái thú lạp, du mục); nếu họ được biết rằng trước kia các đấng thánh hiền cổ đem văn chương nghĩa lí truyền giảng cho muôn dân, loài người đã thí nghiệm hằng bao nhiêu văn tự tối tăm, thô lậu (cổ tự Ai Cập, chữ qui đẩu ở Trung Hoa...); nếu họ được biết rằng ở các phạm vi, loài người đã tranh đấu, đã đau khổ mới tiến được đến những trạng thái văn minh Nghiêu Thuấn, Hy Lạp, La Mã; nếu họ biết được như thế thì họ sẽ phải nhận rằng thái độ hoài nghi của họ chỉ là sự dốt nát, sự nông cạn, sự thiên kiến. Và lúc đó, họ mới tin rằng loài người đã tiến hóa, đang tiến hóa và sẽ còn tiến hóa không cùng.
CHƯƠNG VI
LOÀI NGƯỜI TIẾN HÓA HAY THOÁI HÓA
Ngoài phái hoài nghi thủ cựu ra, còn có phái bi quan nhất mực không công nhận sự tiến hóa của loài người. Phái này cũng công nhận là cuộc sinh hoạt của nhân loại có thay đổi từ thế kỉ này qua thế kỉ khác. Họ cũng công nhận rằng từ khi phát minh được khoa học, chế tạo được cơ khí, biến cải được tổ chức chính trị... thì loài người đi được những bước rất dài về văn minh vật chất. Nhưng họ không cho thế là tiến hóa. Ở con mắt họ, «con người bao giờ cũng là lang sói đối với con người». Càng tăng gia sự sung sướng vật chất bao nhiêu, càng làm thoái hóa phẩm chất bấy nhiêu. Trước kia chưa có khoa học loài người chém giết nhau bằng giáo mác; bây giờ sáng chế được máy móc thì lại chém giết nhau nhiều hơn lên, vì những khí cụ chém giết đã nhờ có khoa học mà tinh xảo hơn lên. Trước kia, loài người sống ở trạng thái nông nghiệp, yên cư ở nơi đồng nội thì phong tục còn mĩ lệ, đơn giản; ngày nay công nghệ mở mang, đô thị phồn hoa mọc ra nhiều thì phong tục càng đồi bại, luân thường đạo lí càng mờ ám. Số sát nhân nhiều ra, số tự tử nhiều ra, số gái đĩ nhiều ra, số gian phu dâm phụ nhiều ra, số thất nghiệp nhiều ra. Tóm lại, sự đau khổ tăng thêm, sự suy đốn tinh thần tăng thêm. Vậy bảo nhân loại tiến hóa ở chỗ nào?
Đại khái những lí sự của phái bi quan đưa ra để kết án cuộc tiến hóa là như vậy. Họ đứng về quan điểm đạo đức để phủ nhận sự tiến hóa của nhân loại. Đối với họ, chỉ có một sự tiến hóa đáng kể là sự tiến hóa về đạo đức.
Ta đừng tưởng rằng đó là quan niệm và thái độ của bọn hủ nho xứ ta vì luyến tiếc Khổng giáo mà sinh ra cố chấp bảo thủ[18].
Quan niệm và thái độ ấy là của chung phần đông trí thức gia trên thế giới. Hạng tri thức gia này vì không có một đạt kiến lịch sử thống quát và không nhìn nhận thấy sự tương quan liên lạc của vật chất và tinh thần, nên đã lớn tiếng công kích khoa học, công kích máy móc, công kích văn minh. Họ linh cảm rằng khoa học càng phát triển, máy móc càng tinh vi, đời vật chất càng dồi dào thì quyền năng của KINH TẾ càng to, càng lấn át hết quyền năng của TRÍ TUỆ. Kinh tế càng lấn vào địa vị chỉ huy xã hội thì giá trị người kĩ sư, người thợ càng to hơn giá trị người tri thức. Nên, tuy nói nhân danh TRÍ TUỆ, nhân danh ĐẠO ĐỨC để bài xích sự tiến hóa mà kì thực chỉ là nhân danh QUYỀN LỢI RIÊNG của đẳng cấp trí thức vậy. Đã có sẵn ý thức về quyền lợi đẳng cấp như thế, họ lại bị sự hiểu biết chủ quan của họ làm cho mờ tối. Họ không hiểu rằng sự tiến hóa có những định luật gang thép của nó. Những định luật này không bao giờ ngừng thi hành để chiều theo những tình cảm phẫn uất của một hạng người thấy vai trò của mình lu mờ đi trước sự áp đảo của các vai trò khác.
Xét đến tận gốc thì thấy rằng những nhà trí thức kia sở dĩ bi quan đối với sự tiến hóa là bởi trong khi quan sát và suy luận, họ đã tin theo thuyết sa đọa, phủ nhận giá trị của khoa học và của văn minh vật chất.
Ta thử bình tĩnh xét lần lượt giá trị của từng luận chứng ấy.
Thuyết sa đọa(Théorie de la chute).Theo thuyết này thì hồi khởi thủy, loài người sống trên thượng giới rất sung sướng, sau vi phạm tội nên bị đày ải xuống cõi trần để chuộc tội và mong ước trở về trạng thái sinh hoạt gốc.
Thuyết sa đọa là tín điều phổ thông của các tôn giáo. Nhất là của đạo Bà-la-ma và đạo Hybálai. Theo đạo Bà-la-ma thì mới đầu loài người sống trong một cảnh rất mực sung sướng. Thần Công lí khoác hình một con bò mộng, đứng vững trên bốn chân của nó. Chân lí ngự trị, không có người nào làm điều gì bất nhân độc ác. Trong kinh Lực Phệ Đà (Rig Veda), gọi thời đại đó là Krita Youga.
Sau đến những thời đại sa đọa của loài người: Thời đại Trèta, thời đại Dwapara, thời đại Kali là những thời đại mà công lí mờ ám dần, của cải kiếm được bằng những việc bất nhân phi nghĩa. Loài người vì thế mà càng ngày càng khổ.
Nguyên do của sự sa đọa này, theo triết học thần bí của đạo Bà-la-ma, là sự cách xa của tiểu hồn (atman) – tức là mỗi người chúng ta – với đại hồn (paratman) – tức là đấng Bà-la-ma. Càng hành động, con người (tức là tiểu hồn) càng xa cái bản thể trong sạch của đại hồn. Càng xa, sự sinh hoạt càng tiến vào cảnh trầm luân. Muốn thoát khỏi sự trầm luân ấy, phải làm cách nào để cho tiểu hồn trở về với đại hồn. Tất cả cuộc sống của người Ấn Độ chỉ là sự chờ đợi trở về với đại hồn của Bà-la-ma. Trong lúc chờ đợi đó, phải coi cuộc sống là ảo ảnh, sự hành động là tạo nhân của cái khổ. Cho nên phải tìm cách để diệt sự sống thì mới sát nhập được với nguyên thể (là đại hồn).
Đối với người Do Thái theo đạo Hybálai thì nguyên nhân sự sa đọa kia lại lí thú hơn. Và thời đại hoàng kim của loài người cũng cụ thể hơn.
Hồi ban sơ Adam và Eve (người đàn ông và người đàn bà đầu tiên do Chúa Trời sáng tạo ra) sống rất sung sướng trong cái vườn tiên mà Thượng đế trồng nên gọi là vườn Eden. Hai người hưởng một cuộc sống thật là tiên cốt, không biết điều trái phải, không tư lự, ngày ngày hái quả cây ăn, ra suối trong uống nước. Thượng đế có dặn hai người muốn ăn quả cây nào cũng được, chỉ phải kiêng không được ăn quả «Cây biết điều Thiện và điều Ác» (Arbre de la connaissance du bien et du mal). «Con rắn là con vật xảo quyệt nhất các loài vật ở đồng mà Thượng đế đã sinh ra. Nó bảo người đàn bà (tức là Eve): Có phải đức Thượng đế hạ lệnh không được ăn tất cả những trái cây trong vườn không? Người đàn bà đáp: Chúng tôi hái trái cây để ăn, chỉ có cái cây giữa vườn thì Thượng đế dạy không được ăn mà cũng không được mó đến, nếu không sẽ bị chết. Rắn ta liền nói với người đàn bà: Không chết đâu mà sợ. Thượng đế dặn các người đừng ăn vì ngài biết khi các ngươi ăn trái cây ấy vào thì các ngươi sẽ biết điều Thiện, điều Ác, các ngươi sẽ khôn ra như các vị thiên thần vậy. Người đàn bà liền hái quả cây cấm kia, ăn một nửa và đưa cho chồng một nửa. Tức thì hai người nhận thấy là mình trần truồng và đâm ra thẹn thuồng...» (Thánh Kinh).
Đức Chúa Trời biết được tội của Adam và Eva liền đuổi hai người ra khỏi vườn Eden. Adam và Eve liền xuống trần giới, sống cuộc sống sa đọa của mình, chờ ngày cứu chuộc (rédemption) để lại trở về trong sự trong sạch của nguyên thủy và sự sống thần tiên trên vườn thượng giới Eden.
Theo thần thoại Hybálai này thì đối với loài người, thời kì ở vườn Eden là một thời đại hoàng kim (âge d’or). Sự phạm tội của Adam và Eve đã kết thúc thời đại ấy và mở ra một kỉ nguyên khác. Trong kỉ nguyên này, loài người chỉ càng ngày càng rơi mãi xuống cõi đau khổ cho đến ngày tận thế.
Coi vậy, thuyết sa đọa là một thuyết tôn giáo phủ nhận sự tiến hóa một cách tiên thiên (a priori). Đã sa đọa thì càng đi xa nguồn gốc và càng ngã xuống sâu hơn. Nói rằng tiến hóa mà thực ra chỉ là bước dài đến sự đau khổ.
Thuyết sa đọa ấy đã được nhiều nhà triết học tin tưởng như một chân lí tuyệt đối. Các nhà triết học này tin rằng ở thời kì hồng hoang loài người hoàn toàn tự do sung sướng, không bị ràng buộc bởi những ước lệ chính trị luân lí, xã hội...
Bởi loài người tổ chức cuộc sống một ngày một phiền toái, nên càng ngày càng thẳng thức nhau, làm khổ lẫn nhau. Muốn được hưởng hạnh phúc, không gì tốt hơn là theo chủ nghĩa «trở về với thiên nhiên» (retour à la nature). Nghĩ là trở về đời thái cổ mông muội. Đó là chủ nghĩa của các nhà triết học Hy Lạp như Empédocle, Plotin và của các nhà triết học Trung Hoa như Lão Tử, Trang Tử. Đó cũng là chủ nghĩa của nhà đại văn hào Pháp ở thế kỉ XVIII: Jean Jacques Rousseau.
Empédocle cho cuộc đời là một «thung lũng nước mắt». Trong sách Fragments sur I’histoire de la philosophie, nhà triết học Đức Schopenhauer, một kiện tướng của tư tưởng bi quan cận đại, đã phê bình Empédocle như sau đây: «cái mà ta nên lưu ý nhất trong những thuyết triết lí của Empédocle là sự bi quan nhất quyết của ông. Ông nhận quả quyết rằng cuộc đời là bể khổ... Trong cuộc đời của loài người, ông thấy một trạng huống đầy ải, thống khổ; và ông cho rằng thân thể là nhà tù giam hãm linh hồn. Linh hồn xưa kia, sống rất tinh khiết thảnh thơi, sau vì phạm tội nên phải rơi xuống trần để chịu các điều khổ nhục hiện tại và ngày càng ngày càng chìm đắm mãi vào vòng luân hồi sinh tử. Chỉ có một cách giải thoát là vun xới đạo tâm, dứt với những lạc thú trần hoàn; như vậy linh hồn mới mong trở về cái trạng thái gốc của mình được»[19].
Plotin, trong tập sách Ennéade, chủ trương rằng: mới đầu linh hồn là một. Sau vì cọ sát với thế giới hữu hình nên tự phân bố ra thành nhiều tiểu hồn. Từ khi nhập vào thế giới thể chất, linh hồn (Plotin gọi là Psyché) cứ vướng víu mãi vì hai cái lỗi của mình: lỗi thứ nhất là đã khờ dại xuống mãi vào cõi vật chất, lỗi thứ hai là cứ kéo dài cuộc tồn tại của mình bằng những hành động trong cõi vật chất ấy. Muốn thoát li sự giam hãm này, phải đoạn tuyệt với sự luân hồi để trở về nguyên thể.
Cái hoài bão «trở về trạng thái nguyên thủy» này, ở nhà triết học Lão Tử, lại được diễn dịch ra thành một mơ ước không tưởng về một tổ chức xã hội. Vũ trụ quan của Lão Tử đại cương cũng đồng màu sắc triết lí như của Empédocle, Plotin. Nhưng ông lại áp dụng nó vào sự giải thích xã hội. Ông cho rằng loài người khổ vì đã đặt ra đạo đức, lễ nghi, chính trị, văn chương... Theo ý ông thì muốn cứu vớt loài người khỏi cảnh tù khổ não, phải phá hoại hết những tổ chức ấy đi. Ông nói: «Dứt nhân bỏ nghĩa thì dân sẽ trở lại thói hiếu thảo chân chính của đời thượng cổ». Ông mơ ước một chế độ xã hội lí tưởng trong đó «dù có khí cụ gấp trăm gấp, gấp chục sức người mà không dùng đến... Có xe thuyền mà không ai ngồi, có gươm có giáo mà không bao giờ đem bầy. Bỏ hết văn tự khiến người ta trở lại dùng cách thắt giây cua đời thượng cổ. Ai nấy đều chăm việc ăn ngon mặc đẹp, ở yên ổn, vui với phong tục của mình»[20].
Tóm lại, theo ý Lão Tử thì phải vứt bỏ hết hành động tiến triển của người đời, quay về cuộc sống thiên nhiên của thời kì hồng hoang.
Lão Tử kết án bọn trí thức và chính trị gia thời Xuân Thu cho là đã gây ra mối loạn trong thiên hạ, có giống như Rousseau kết án bọn «triết nhân» Pháp hồi thế kỉ XVIII. Nhà đại văn hào này soạn một cuốn luận bài xích văn chương, Khoa học và Mĩ thuật, cho rằng những thứ sản vật văn minh ấy chỉ làm khổ thêm loài người, bại hoại thêm luân lí và phong tục. Nguyên tắc căn bản của tư tưởng Rousseau là «Tạo hóa sinh ra loài người sung sướng và tốt nhưng xã hội làm cho trụy lạc và khốn khổ». Bao nhiêu chế độ xã hội chỉ đùn đẩy loài người xa dần trạng thái sơ thủy (estatoriginel) – trạng thái thiên nhiên – và làm loài người càng trụy lạc, càng đau khổ. Muốn sung sướng, loài người phải tước bỏ hết những chế độ nhân tạo (chính trị, khoa học, văn chương, mĩ thuật...) và quay trở về sự trong sạch nguyên thủy. Tư tưởng phá hoại cực đoan bày đã đặt Rousseau vào một lập trường triết lí đặc biệt: lập trường yếm thế. Những người đồng thời với ông gọi ông là một kẻ chán đời (misanthrope).
Thuyết sa đọa, dù khoác hình thức tôn giáo hay hình thức triết lí, cũng đều phát nguyên:
1) Ở sự không hiểu đời sống của loài người thời hồng hoang.
2) Ở sự chán ghét hiện tại.
Bởi không hiểu rõ trạng thái sinh hoạt xác thực của loài người đời thái cổ, nên mới hình dung nó với các màu sắc không tưởng của hạnh phúc tuyệt đối. Ngày nay, các nhà khảo cổ tiền sử học và các nhà nhân loại học đã cống hiến cho chúng ta đủ tài liệu để chắc chắn bác cái thuyết “đời thái cổ là đời hoàng kim” do các giáo sĩ và các triết nhân giàu tưởng tượng đặt ra. Ngày nay, ai cũng biết rằng thời thái cổ là một thời khổ sở nhất của loài người. Trong đời Cựu thạch khí (paléolithique), sự sống thật là trăm phần chật vật. Ở thì ở hang động, ăn thì ăn hoa quả và thịt súc vật bắn được, chưa biết cấy cày trồng trọt, chỗ nào hết trái cây thì lại bỏ, đi tìm chỗ khác, sống lan man, sợ hãi các giống mãnh thú, sợ thiên nhiên, sợ ma quỷ thần linh... cuộc đời người thái cổ tối tăm mù mịt như đời một con sò con hến trong vỏ trai kín bưng và bất trắc như một con thuyền nhỏ lênh đênh trên dòng thác. Dần dần nhờ óc hợp đoàn, nhờ não sáng kiến, nhờ sự tìm được kim khí, loài người đến cuối đời Tân thạch khí (nesolithique) mới sống định cư, làm ruộng, chăn gia súc nhưng đứng trước những hiện tượng thiên nhiên thì vẫn run sợ khủng khiếp vì tưởng có Thần linh điều khiển.
Ở cả hai thời kì đó, cá nhân không có một chút tự do nào. Sự đè nén của bộ lạc, thêm vào sự đè nén của ma thuật, làm cuộc đời cá nhân bị dính chặt vào đoàn thể như một cái mắt xích dính liền vào chuỗi xích.
Nhìn tổng quát cả con đường tiến hóa của loài người và bằng cứ vào những tài liệu khoa học để phán đoán, ta mới thấy rằng nhân loại càng ngày càng tăng gia quyền năng, càng ngày càng tự chủ và càng ngày càng nhận thức được địa vị mình. Nhờ có khoa học, loài người không còn sợ thiên nhiên nữa. Trái lại, thiên nhiên trở thành một bạn cộng tác đắc lực của loài người.
Đứng trước ánh sáng của khoa học, thuyết sa đọa đã mất hết giá trị. Thời đại hoàng kim, trạng thái sơ thủy... chỉ còn là một ảo tưởng thuần túy. Sở dĩ các giáo sĩ và triết nhân kia tưởng tượng ra một dĩ vãng cực kì tốt đẹp như thế là bởi họ muốn đem một lí tưởng sinh hoạt ra chống với hiện tại. Họ nói đến trạng thái sơ thủy mà kì thực họ trút vào đó tất cả mơ ước tương lai của họ. Họ chán ghét cái đang có, họ muốn phá đổ đi. Nhưng vì bất lực, họ liền phá đổ nó trong tưởng tượng, trong văn chương. Họ lập ra thuyết này thuyết nọ trong thế giới của họ: thế giới trừu tượng. Rồi, muốn cho mọi người cùng hiểu, họ biến những thuyết kia thành những hình ảnh cụ thể. Họ sáng chế ra một sinh hoạt tốt đẹp, tô điểm nó cho hoàn toàn, rồi họ đem nó đặt vào điểm tận cùng của quá khứ. Họ biết rằng chỉ có thời gian mới tinh khiết hóa (purifier) được mọi sự mọi vật, mọi việc nên họ lồng khung cái lí tưởng của họ vào thời kì hồng hoang là thời kì mà không một ai biết rõ cả.
Nguồn gốc tâm lí thuyết sa đọa là thế. Ngày nay, loài người đã hiểu rõ lịch trình tiến hóa của mình nên không mong trở về đời sống thái cổ nữa. Ngày nay loài người chỉ nhìn thẳng tương lai mà đi tới. Sự giải phóng chỉ ở phía chân trời mai hậu chứ không thể ở bóng tối của dĩ vãng.
Không nhìn đến tương lai mà suy luận thì không bao giờ nhìn thấy con đường tiến hóa và định luật của sự tiến hóa. Đã vậy, mà phê bình cuộc tiến hóa thì tránh sao khỏi có thiên kiến? Đó là trường hợp của những nhà tư tưởng bi quan và yếm thế đã lớn tiếng bài xích khoa học và máy móc.
CHƯƠNG VII
GÍA TRỊ CỦA KHOA HỌC
Như đã nói qua ở những trang trên, phái trí thức bi quan không công nhận sự tiến hóa của loài người vì hai lẽ:
Ở chương VI ta đã xét và phê bình lẽ thứ nhất. Chương này nói đến lẽ thứ hai.
Phái bi quan không tin ở công dụng tiến hóa của khoa học vì họ cho rằng khoa học chỉ làm tăng gia sự sung sướng vật chất, chứ không có hiệu lực gì trong việc vun xới tinh thần của loài người. Họ viện lí do rằng khoa học càng phát triển rực rỡ, sự chém giết nhau càng thảm khốc. Sự tổ chức lao động càng theo phương pháp hợp lí hóa (của Taylor), các máy móc dùng để sản xuất hàng hóa càng tinh vi thì sự bóc lột kinh tế càng tàn nhẫn. Công nghiệp, nhờ có khoa học và máy móc, càng thịnh vượng thì sự thặng dư sinh sản (surproduction) càng dễ đẻ ra nạn thất nghiệp và chóng gây ra chiến tranh giữa các cường quốc. Trong cái guồng máy văn minh ấy, nhận tính một ngày một đọa lạc, nhân phẩm ngày một suy đồi, hạnh phúc nhân phẩm ngày một tiêu trầm.
Trong một số báo Le Temps ra ngày 3 Avril 1943, ông Maurice Larrouy đã kết án chế độ lao động hợp lí hóa (Taylorisem) ở Hoa Kì, như dưới đây:
“Chế độ hợp lí hóa hạ người thợ xuống một tình trạng thấp hèn hơn một cái máy. Người chủ xưởng, người kĩ sư còn công nhận rằng cái máy thường đôi khi mòn yếu, hư hỏng hay sai lệch và tìm cách chữa nó. Họ săn sóc, nâng niu nó như một vật biết cảm giác và có căn tạng mảnh khảnh. Họ chú ý đến sự lành mạnh điều hòa của nó. Còn như con người thì họ lại không thể tha thứ, không thể công nhận một chút vô ý hay mệt nhọc khi làm việc. Tôi đã đi vòng khắp các xưởng máy lớn ở Hoa Kì, tôi tưởng tôi lạc vào cái địa ngục mà thi hào Dante đã mô tả. Trong những xưởng ấy, những con người đồng loại với tôi, cứ 5 hoặc 10 tích tắc đồng hồ, lại nhắc lại một cử động duy nhất chẳng khác nào những cái máy, hoặc quay một cái khoan (Villebrequin), hoặc xoáy một cái trôn đinh ốc (Écrou), hoặc mắc một cái lò so... và như thế suốt 8 giờ trong một ngày, suốt 300 ngày trong một năm. Giữa cái chuỗi xích nô lệ ấy, ngộ có kẻ nào nhỡ tay một lần, hụt mất một cử động, để cái bộ phận cơ khí đang chế tạo đó không được hoàn hảo thì – thôi! Chẳng còn ai thương và tha thứ cho nữa: kẻ đó bị đuổi liền, không còn viu cớ này, lẽ nọ gì cả. Người ta không cho phép nhỡ tay, khi sự nhỡ tay này làm thiệt một đồng tiền vàng. Khí cụ thì được quyền mòn yếu, con người thì không được quyền mệt mỏi. Thật giàu trí tưởng tượng đến như giống người cổ Hy Lạp cũng không thể chế tạo ra được một cực hình nào để trừng trị kẻ phạm tội kinh tế và dai dẳng hơn thế nữa...”.
Một nhà trí thức khác, ông Lucien Duplessy, cũng kết án máy móc bằng những lời rất hậm hực:
“Máy móc là kẻ thù của trí tuệ. Không thể đứng trung lập được nữa: trong hai cái ấy ta phải chọn lấy một. Không có kẻ thù nào nguy hiểm cho trí tuệ bằng bằng sản phẩm ấy của trí tuệ, cái sản phẩm mà trí tuệ vẫn thường tự phụ vì đã sáng tạo ra. Máy móc do trí tuệ phát minh thật, nhưng chỉ là cái hình vẹo vọ, một cái cặn bã của trí tuệ...
“Máy móc động đến cái gì là làm mất tinh thần của cái ấy. Ngay đến một cái xe hơi tầm thường mà cũng đã biến người sốpphơ ra một con người khác. Người sốp phơ chỉ cần có những cử động phản ứng (réflexe) nhanh nhẹn là đủ rồi. Linh hồn hắn không ăn nhập gì vào những cử động ấy hết. Hắn thấy hắn thuộc về một chủng loại xa cách hẳn với những người đi bộ...
“Người kĩ sư chuyên nghiệp là một kẻ không có tinh thần. Đối với y thì chỉ cái gì đem tính toán được mới là đáng kể. Đầu tiên là Tiền Bạc, yếu tố cần thiết cho sự tính toán của y. Có tiền bạc tức là có Mãnh Lực. Sự vô luân lí của y biến y ra một kẻ đồng lõa của các két bạc. Y là kẻ đi tiên phong trong việc kiếm tiền cho đầy những két bạc đó. Cái mộng tưởng của y, xét cho cùng, chỉ là hưởng sự xa hoa đàng điếm và đè nén người khác...
“Máy móc xâm đoạt nhân cách ta, xâm đoạt sự độc lập của ta. Nó càng thỏa mãn những nhu cầu của ta, thì nhu cầu của ta càng nhiều ra mãi và càng cấp bách hơn lên... Máy móc vừa phụng sự ta vừa giam cầm ta. Nó làm mòn mỏi nghị lực ta, chí quyết định của ta, khiếu đối phó với sự bất ngờ của ta. Nó lôi kéo ta đến sự xa phí, đến trạng huống tinh thần bất nhất; nó làm ta mất sự kính trọng đối với đồng loại của ta”[21].
Đứng dưới lá cờ nhân bản chủ nghĩa (humanisme) để lên án máy móc và văn minh vật chất do khoa học đẻ ra, các nhà trí thức Đông phương còn gay gắt và cực đoan hơn nhiều. Trong một cuốn triết luận giá trị nhan đề Les Ideaux de I’Orient (Những cao vọng của Đông phương), nhà học giả Nhật Bản Okakura Karuzo đã viết, giọng mai mỉa:
“Tây phương tôn thờ sự tiến bộ. Được lắm! Nhưng sự tiến bộ ấy sẽ đi tới đâu? Thí dụ một ngày kia đời sống vật chất của loài người đã tổ chức được hoàn toàn rồi thì Tây phương sẽ đạt được mục đích gì? Tình bác ái rồi có tiến đến cực điểm trong cuộc sinh hoạt công cộng của loài người đi nữa thì tình bác ái ấy sẽ phụng sự lí tưởng gì? Nếu nó chỉ phụng sự có tư lợi thì cái chỗ tiến bộ ở đâu?”.
Okakura Karuzo muốn duy trì cái giá trị nhân đạo văn minh của Đông phương nên đã phản đối cả chế độ cơ khí. Ông viết:
“Á Đông không biết đến những lạc thú mọi rợ của một chiếc đầu tầu hỏa chạy nhanh vùn vụt như uống không gian. Nhưng Á Đông có một khoa du lịch thâm trầm hơn: đó là khoa trẩy hội chùa và khoa ngạo du của những thầy tu lưu đãng.
“Người thầy tu khổ hạnh Ấn Độ ngày ngày đi lang thang xin ăn của các thiếu phụ nơi xóm làng, chiều chiều ngồi dưới bóng cây, trò chuyện và hút thuốc lá với người nhà quê trong vùng, đó mới là một du khách thực thụ...
“Người dân quê Nhật Bản, lúc du lịch, trước khi rời xa thắng cảnh cũng phải lưu lại đó một bài thơ mộc mạc để diễn tả cảm tình, cảm xúc của mình.
“Bằng cách ấy, quan niệm về Á Đông về Nhân tính được vun xới như một khoa học chín chắn và linh động. Khoa học này có thể hòa hợp tư tưởng và tình cảm của các cá nhân với toàn thể nhân loại làm cho cuộc sống tuy nghiêm trang mà vẫn giữ được vẻ êm đềm tươi sáng.
“Nhờ những hình thức giao dịch ấy, cái ý tưởng Á Đông về sự thông cảm của cá nhân với đồng loại được duy trì như một phương tiện giáo hóa chân chính”.
Ráo riết hơn nữa, còn có nhà ái quốc Ấn Độ Gandhi. Ông này vì chịu ảnh hưởng của Tolstoi, Ruskin, lại vốn tin ở giá trị tinh thần Ấn Độ giáo (hindouisme) nên đã cực lực phản động lại cái trào lưu Âu hóa xứ Ấn. Theo ý ông, văn minh Tây phương chỉ có danh mà không có thực. Nó là một sản vật của quỉ Satan. Nó đánh dấu một thời kì đen mù của loài người. Ông thù ghét máy móc của Tây phương như thù ghét một tội ác vậy:
“Cái nguyện vọng tha thiết nhất của Gandhi là triệt bỏ chế độ máy móc ở Ấn Độ”... Ông viết: “Thà phải mua vải vóc của Manchester còn hơn thiết lập tại Ấn Độ những xưởng dệt như ở Manchester... Chế độ máy móc là tội lỗi lớn, nó giam hãm các dân tộc trong vòng nô lệ...”. Đã có nhiều người Ấn nhiễm phải tư tưởng duy tân băn khoăn hỏi ông: “Nhưng Ấn Độ mà thiếu dường xe hỏa, xe điện, đại công nghệ thì sẽ sống cách nào?”. Ông đáp: “Thế xưa kia thì Ấn Độ sống ra sao? Hàng ngàn vạn năm, Ấn Độ vẫn tồn tại, bất di dịch, cô độc giữa sự thăng trầm của bao nhiêu đế quốc... trong hàng ngàn vạn năm ấy. Ấn Độ đã tìm ra được sức tự chủ và con đường hạnh phúc riêng. Ấn Độ không cần phải học dân tộc nào khác về những điều đó. Ấn Độ không muốn có chế độ máy móc, và các đô thị lớn, cái cày xưa, cái guồng quay tơ cổ, sự giáo dục cũ đã tạo nên được sự hiền lương và sự sung sướng cho dân Ấn Độ, chúng ta ngày nay phải trở về cuộc đời giản dị xưa...”.
Đó là nền tảng của tư tưởng Gandhi... tư tưởng ấy là sự phủ nhận cuộc tiến hóa và gần như phủ nhận toàn thể khoa học Âu châu vậy”[22].
Nhà thi hào Tagore, một đệ tử trung thành của chủ nghĩa nhân bản, đứng trước sức mạnh mọi rợ của máy móc, đã phải thốt ra lời than lo lắng:“Trờii ơi! Trông cái máy chẳng khác chi đầu của một con quỉ: Không có thịt xương đâu cả, chỉ thấy hai cái hàm răng khổng lồ chìa ra. Ta cứ đứng mà ngắm nó cái miệng há hốc ra thế mãi thì rồi nó đến làm khô héo tâm hồn ta đi mất thôi!”.
Những lời bình phẩm gay gắt của các nhà tri thức đó đối với văn minh vật chất chỉ là sự khuếch xung cái tư tưởng phản đối cái xã hội của phần đông triết nhân, văn hào, thi sĩ, nảy nở ra từ cuộc cách mạng công nghiệp đến giờ, nghĩa là từ thế kỉ mười XVIII.
Quả vậy, “đã từ lâu, chính người Tây phương cũng bất bình với cái xã hội mà nền văn minh đã tạo cho họ. Cứ 10 năm một, càng ngày cái xã hội ấy và tình cảm của họ càng xung đột với nhau, nền văn minh ấy và nguyện vọng của họ càng bất hòa với nhau. Nên họ càng bất bình thêm, nghệ thuật cao nhất của họ, chỉ là một sức phản kháng chống lại xã hội hoặc một sự chế diễu châm biếm con người văn minh hiện đại. Từ Rousseau đến Stendhal, đến Renan, đến Taine, đến Flauberl, đến Manpassant, đến Zola, sự bi quan cứ tăng thêm lên mãi, càng ngày người ta càng chán ngán cái tầm thường của một nền văn minh vật chất, không cao vọng, không lí tưởng, không có vẻ đẹp, không có nhân đạo. Chán ngán như vậy để rồi trốn lui vào dĩ vãng, vào mộng ảo, vào không tưởng. Tất cả các nhà văn có biệt tài trong văn giới hiện đại, từ Catlyle và Ruskin ở Anh, đến Tolstoi và Dostoieuski ở Nga, Ibsen ở Norvege, và Anatole France ở Pháp đều là những người đứng ra tố cáo sự giả trá của xã hội cả... ”[23].
Cái tư trào phản đối xã hội, bài xích văn minh vật chất và công phá sự hiệu dụng nguy hại của khoa học và cơ khí mà các bậc tri thức Đông Tây chủ xướng lên hơn hai thế kỉ nay đến giờ vẫn chưa ngớt, không phải là không có nguyên cớ sâu xa và vững chắc. Nguyên cớ thứ nhất là tất cả các tri thức gia ấy đều chỉ quan niệm sự tiến hóa theo góc độ đạo đức. Nguyên cớ thứ hai là họ toàn thị là những người giàu tình cảm hơn khiếu hoạt động. Nguyên cớ thứ ba là tình trạng xã hội hiện đại quả có diễn ra nhiều lỗi trầm luân đọa lạc thái quá. Nguyên cớ thứ tư là họ chỉ nhìn đến hiệu dụng thực tại của khoa học và cơ khí mà quên giá trị tuyệt đối của nó. Nguyên cớ thứ năm là họ thấy rõ ràng là mỗi ngày địa vị của kẻ tri thức tức là của họ bị xụp đổ dần để nhường chỗ cho sự cai quản của người doanh nghiệp, người kĩ sư, người thợ.
Năm nguyên cớ ấy là nguồn gốc của tư trào đối lập nói ở trên, tư trào này có thể coi như một cuộc thẩm duyệt lại những giá trị nhân sinh do loài người tạo ra bằng xương máu trong bảy tám nghìn năm nay. Thẩm duyệt lại xem cái nào nên giữ và phát huy, cái nào nên hủy bỏ, cái nào nên chỉnh bị lai. Cuộc thẩm duyệt ấy sẽ ảnh hưởng lớn đến sức tiến triển của văn minh hiện thời; cái đó không còn ai chối cãi được.
Nhưng từ thẩm duyệt đi thẳng đến phủ nhận cuộc tiến hóa hiển nhiên của loài người thì các nhà tri thức kia quả là đã vội vàng sốc nổi quá. Họ đã để tình cảm lôi cuốn đi mạnh quá không đủ sức tự chủ nữa. Họ đã bi quan một cách hấp tấp nên dụng ý thì rất tốt mà lập luận thì rất nhiều thiếu sót, sai lầm.
Trước hết họ quên rằng vấn đề xã hội không phải là một vấn đề tình cảm. Vẫn biết tình cảm cũng dự một phần lớn vào sự hoạt động của loài người, nhưng không thể dùng tình cảm để giải quyết vấn đề xã hội được. Cuộc sống xã hội là một bài toán. Nó có những điều kiện để giải quyết rất khách quan nằm ngay trong lòng nó. Muốn giải quyết, phải nhận rõ phép tắc dao động của các điều kiện kia, rồi lựa chiều (hợp với phép tắc ấy), lựa thời (hợp với sự kết thúc của các điều kiện ấy) mà dắt sự giải quyết đến cái (trả lời) luận lí của bài toán. Đó là công việc của trí tuệ, không phải của tình cảm.
Khổng Tử thuyết minh nhân đức, Mặc Tử đề xướng kiêm ái, Thích Ca hô hào từ bi, Jésus tuyên truyền bác ái từ mấy ngàn năm nay mà loài người vẫn thù ghét nhau, chém giết nhau, là tại sao? Là bởi xã hội loài người chưa chứa đủ những điều kiện nội tại để giải quyết triệt để và thiết thực sự thù ghét và chém giết ấy. Những giáo chủ kia không nhìn thấy những sự thực này, chỉ căn cứ vào tình cảm mong cải tạo xã hội, nên đã thất bại vậy.
Sau nữa, các nhà tri thức phái đối lập trên kia lại quên rằng công dụng và giá trị của khoa học là hai cái khác hẳn nhau không thể đem xô bồ làm một được. Khoa Học đã giải thoát loài người khỏi sự ngu tối và sợ hãi. Nó đã giúp loài người hiểu biết thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên. Nó tạo ra máy móc và các khí cụ làm cho năng lực hoạt động của con người tăng gia bội phần, nhờ đó mà dần dần thống trị cả trái đất bầu trời. Với khoa học, loài người trở thành một Thượng đế. Tuy rằng hiện nay khoa học chưa giải thích được hết các vấn đề huyền bí nhưng ngoài cách hiểu biết bằng khoa học ra thì tuyệt nhiên không có một cách giải thích nào tin được cả. Cái tâm mà các nhà nho Á Đông ca ngợi, cái trực giác siêu việt mà nhiều nhà triết học Tây phương tôn thờ, ở người thường, chỉ là một khí cụ rất yếu đuối, rất bất lực, hơn nữa, rất sai lầm trong công việc hiểu biết. Ngày nay, ai cũng phải công nhận rằng cái “tâm” của nhà bác học – cái tâm ấy là lòng thành thực – ham mê chân lí, sốt sắng tìm tòi – chỉ có cái trực giác của nhà bác học – trực giác đây tức là sự suy luận có tính cách tổng hợp và sáng tạo – mới có thể dùng để hiểu biết thế giới hữu hình cũng như thế giới vô hình; ngoài ra là ảo tưởng, là sai lầm, là mù quáng. Vả lại, chính cái tâm và trực giác của nhà bác học kia cũng còn phải đợi các phòng thí nghiệm kiểm điểm lại xem có hợp với thực tế không, trước khi được công nhận là chân lí. Khoa học, đến thời kì chứng nghiệm này, thật là một bó đuốc soi sáng cho loài người trên con đường nhận thức.
Không công nhận như vậy phải là người câu chấp lắm, nếu không phải là thiên kiến và bướng bỉnh. Còn như buộc tội cho khoa học và Kĩ Nghệ đã tạo ra chiến tranh, buộc tội cho kĩ thuật sinh sản đã sáng tạo ra nạn thất nghiệp thì đó chỉ là một cách lảng tránh vấn đề trách nhiệm, trốn lui sự hành động. Tố giác những điều xấu xa phải đưa thẳng đến sự chiến đấu với các điều xấu xa ấy mới hợp lí, mới là làm trọn phận vụ một người thờ chủ nghĩa nhân bản.
Không dám chiến đấu, chỉ dám đứng ngoài cuộc để công kích khoa học và máy móc là những khí cụ giải phóng rất quí mà vì bị một số người đang lợi dụng nên hóa ra tác ác, thì có khác gì thấy nhà cháy mà đứng yên để công kích lửa? Đó là thái độ của những nhà trí thức bất lực chỉ biết bài xích xã hội, mạt sát văn minh mà không bao giờ dám nghĩ đến cải tạo xã hội, cứu vãn văn minh khỏi sự băng hoại đang chờ trước mặt.
Thực ra, những nhà trí thức bất lực ấy, nói rằng nhân danh trí tuệ, nhân danh bác ái, nhân danh nhân bản chủ nghĩa để bài xích khoa học, kĩ nghệ, máy móc mà trong thâm tâm họ thì chỉ nhân danh có quyền lợi riêng của đẳng cấp họ. Vì khoa học càng phát triển, máy móc càng tinh xảo, kĩ nghệ càng mở mang thì địa vị cao quý của họ càng đổ tụt xuống. Họ tự thấy bị đào thải. Cái ngôi báu của TRÍ THUẬT bị KINH TẾ xâm đoạt mất. Cho nên họ lo lắng, hoảng hốt, vội vàng đứng ra lập thành một mặt trận để chống lại sự xâm đoạt nguy hiểm ấy.
Họ không biết tự quên mình, bắt chước các nhà trí thức can đảm khác, nhập thân với những lực lượng xã hội mới, để biến cải tình trạng văn minh trầm luân hiện nay ra một tình trạng sáng đẹp tương lai, cho loài người được chung hưởng tự do và hạnh phúc.
Bị cái ý thức về quyền lợi đẳng cấp kia mê hoặc, họ phải buộc chân họ trong triết học duy tâm và thái độ đạo đức, để hành động trong vòng không tưởng, vô ích cho sự tiến triển của nhân quyền. Nên luận về sự tiến bộ, họ đã thẳng tay mạt sát văn minh vật chất để mong duy trì đạo đức hiện hành.
Họ không chịu nhận rằng vật chất tiến bộ tức là tinh thần tiến bộ. Họ muốn nâng tinh thần lên địa vị độc tôn như ở đời Trung Cổ. Nhưng khoa học đã chứng minh rằng sự lệ thuộc của tinh thần vào vật chất. Ngày nay thì ai cũng đã biết: tư tưởng, tình cảm, ý chí của con người chỉ là phản ảnh của các cơ quan sinh lí. Tùy sự kiến trúc của óc, tùy sự tác dụng của tinh thần hệ và nội hạch tinh thần sẽ khoác một hình thức và chứa một sinh khí tương đương.
Không những thế, tinh thần con người lại bị hoàn cảnh xã hội điều khiển nữa. Mà xã hội lại bị sức sinh sản kinh tế chi phối. Một khi mà sức sinh sản biến thể, đời sống kinh tế sẽ biến đổi theo, đời sống vật chất của xã hội cũng biến đổi theo luôn. Nhân đó, nảy nở ra những cách nghĩ, cách cảm xúc mới thích hợp với cuộc sống vật chất mới kia. Những hệ thống tư tưởng mà các nhà triết học tạo ra chỉ là thu góp tất cả những cách nghĩ và cảm xúc mới thành hình kia, đem xếp đặt cho có trật tự, để trí tuệ lí hội được dễ dàng và mau chóng. Bởi không hiểu như vậy, nên các trí thức gia bi quan kia mới bo bo ôm lấy đạo đức (tinh thần) để thống mạ văn minh vật chất và bài xích sự tiến bộ của loài người.
Luận về sự tiến hóa theo kiểu của các trí thức gia duy tâm ấy là trái với phương pháp khoa học.
Chính thực, luận về sự tiến hóa, không thể đem đạo đức và tình cảm vào đó được. Phải xét từng ngành hoạt động của loài người từ đời thái cổ đến hiện đại, xem nó có tiến hóa không? Phải nghiên cứu sự tiến hóa theo hai con đường phát triển nội tại của nó, nghĩa là: sự thích ứng (adaptation) và sự phồn tạp (complexite).
“Quan niệm hiện thời về sự tiến hóa không phải là quan niệm cuộc tiến triển đến cõi vô cùng tận thiện của con người hay của xã hội, như người ta đã hiểu lầm về thế kỉ XVIII nữa. Hiện thời, nói đến tiến hóa, người ta không tiên đoán tương lai sẽ tốt hay xấu; người ta bao hàm cả trong khái niệm ấy những hiện tượng thoái lui lẫn hiện tượng sậu tiến. Nói đến tiến hóa, người ta chỉ muốn biểu thị cái xu hướng của loài người luôn luôn đi tới một sự thích ứng hoàn hảo hơn và một trạng thái phồn tạp lớn lao hơn” (Lahy Hollebecque).
CHƯƠNG VIII
THẾ NÀO LÀ TIẾN HÓA?
Ở những chương trên, chúng ta đã xét qua những ý kiến về sự tiến hóa của các phái triết học hoài nghi và bi quan. Chúng ta thấy rằng những ý kiến ấy phần lớn là kết quả của một cách nhận thức hẹp hòi và của một phương pháp suy luận thiên về chủ quan. Nhận thức mà hẹp hòi, suy luận mà chủ quan thì không đạt được chân tướng bao quát của sự vật, của lịch sử. Đã không đạt được chân tướng bao quát của sự vật thì không thể định nghĩa đúng được. Và định nghĩa đã không đúng thì đánh giá tất phải sai lầm không sao tránh được.
Định nghĩa, đó là công việc đầu tiên của nhà lí luận học. Muốn định nghĩa cho hợp phép khoa học, cần phải gạt hết những thành kiến, tình cảm, xu hướng riêng, tóm lại là cái bản ngã của mình. Chỉ nên nhìn thẳng vào cái đối tượng của sự định nghĩa, nghiên cứu bổn thể nó, một cách tổng hợp và theo quan điểm động. Như vậy mới có thể định nghĩa đối tượng ấy không thiếu sót và không lầm lẫn.
Định nghĩa và đánh giá tuy có quan hệ qua lại với nhau, nhưng vẫn là hai thái độ trí tuệ sai biệt nhau, hai công việc khác nhau nhưng dù sao sự định nghĩa cũng phải thành lập trước sự đánh giá. Muốn đánh giá một vật trước hết, phải biết vật ấy là cái gì đã. Tức là phải định nghĩa vật ấy. Định nghĩa xong là đánh giá song. Cái này chỉ là phụ thức (corollaire) của cái kia.
Phái trí thức hoài nghi và bi quan, bởi chưa định nghĩa được sự tiến hóa, nên đánh giá thiên vị và câu chấp. Ở đây chúng ta thử định nghĩa rành mạch sự tiến hóa, để làm căn cứ dứt khoát cho sự lập luận của bộ sách này từ nay về sau.
Tiến hóa là gì? Thế nào là tiến hóa? “Quan niệm tiến hóa của loài người là một quan niệm mơ hồ hỗn tạp không thể đem áp dụng toàn khối vào tất cả xã hội được. Nó chỉ có ý nghĩa khi ta phân tách nó ra thành những cuộc tiến hóa nhất định, ở từng phần tử cụ thể có tính cách rõ rệt và cần thiết nhất là không được đem xen lẫn vào đó những tình cảm và những lời phán đoán thuộc về luân lí”[24].
Theo phương pháp ấy, chúng ta thử nghiên cứu cuộc tiến hóa ở hai ngành: kĩ thuật và tư tưởng, xem nó bày ra những tính cách gì, những tính cách này sẽ là yếu tố của cái định nghĩa về cái tiến hóa mà chúng ta muốn thiết lập vậy.
Sự tiến hóa về kĩ thuật. Kĩ thuật (technique) là gồm tất cả những khí cụ (outils) cùng những phương sách (procédés) mà loài người đã sáng tạo ra để xử trí sự vật và mưu cuộc sinh hoạt kinh tế của mình.
Ta hãy lấy một thí dụ nhỏ. Ngày xưa muốn đẵn đổ một cái cây, người thái cổ dùng đến thanh đá xù xì, đập vỡ từ tảng đá ra. Dần dần đến đời Tân thạch khí, người ta biết mài đá thành cái rìu. Sự đẵn cây tuy còn cực nhọc, nhưng cũng đã nhanh hơn ở thời trước. Tiến đến thời Kim khí, người ta biết đúc một cái rìu sắt, sự đẵn cây diễn ra dễ dàng và chóng vánh bội phần. Về sau người ta chế tạo ra một cái lưỡi cưa thép, thì sự đẵn cây lại càng dễ dàng và nhanh chóng hơn nữa. Đối với thanh đá thì cái rìu đá là một bước tiến hóa. Đối với rìu đá, thì rìu sắt là tiến hóa. Đối với rìu sắt, thì lưỡi cưa thép lại là tiến hóa.
Vậy ở trường hợp này, thế nào là tiến hóa? Trước hết, ta thấy từ thanh đá đến lưỡi cưa cái khí cụ dùng để đẵn cây càng tinh vi hơn, nghĩa là càng thích hợp với sự đẵn cây hơn. Ta nói lưỡi cưa thích hợp hơn thanh đá. Và ta có thể diễn dịch ra kết luận này: Thích hợp (adaptation) là một yếu tố của sự tiến hóa. Sau nữa ta còn nhận thấy từ thanh đá đến lưỡi cưa, sự chế tạo khí cụ thêm phiền tạp dần ra. Hình thức cưa, nguyên liệu dùng để làm cưa, cách làm cưa, cách dùng cưa... đều phiền tạp hơn thanh đá. Và ta có thể kết luận: Tiến hóa là biến từ trạng thái giản dị sang trạng thái phiền tạp. Vậy phiền tạp (complexité) cũng là một yếu tố nữa của sự tiến hóa.
Ta có thể chứng nghiệm sự tiến hóa đó ở một thí dụ nhỏ khác, như chở một vật nhỏ nặng. Ngày xưa muốn chở một vật nặng từ chỗ này ra chỗ khác. Người thái cổ chỉ biết vác lên vai (hoặc đẩy bằng tay, hoặc buộc dây kéo). Sau người ta biết làm một cái xe trượt (traineau), không có bánh để ngựa hay bò kéo đi. Sau đó người ta biết làm ra bánh xe và xe ngựa có bánh để chuyên chở cho dễ và nhanh. Đến cận đại, người ta dần dần chế tạo ra nào là xe hỏa, tầu thủy (chạy bằng hơi), xe điện, xe ô tô dùng vào việc vận tải. So với công dụng của xe ngựa thì sức nhanh chóng và sự tiện lợi của những thứ xe hiện đại tăng gấp nghìn phần. Những thứ xe khoa học ấy thật thích hợp với công việc vận tải. Và ai cũng phải công nhận rằng từ cái kĩ thuật “buộc dây vào vật nặng để kéo”, đến kĩ thuật “xe điện”, sự phiền tạp (về nguyên liệu, về cách chế tạo, về cách dùng) tăng gia không thể tưởng tượng được.
Ở trường hợp này cũng như ở trường hợp trên kia, ta đều nhận thấy: Thích hợp và phiền tạp là hai yếu tố nền tảng của sự tiến hóa. Bất cứ ở vật gì, việc gì mà thấy có hai yếu tố ấy, ta đều có thể quả quyết nói rằng “có tiến hóa”.
Sự tiến hóa về tư tưởng. Con người ta thường phát lộ sức sống theo hai bình diện: hoạt động và tư tưởng. Bình diện hoạt động (plan moteur) bao quát mọi cử chỉ và hành vi của con người để đối phó với ngoại vật. Bình diện tư tưởng (plan verbal)[25]gồm tất cra những thể cách quan sát, suy nghĩ, hình tượng, ghi nhớ, diễn dịch, giải thích, xếp đặt... dùng để lí hội sự vật và hiểu rõ sự liên quan giữa các sự vật.
“Tư tưởng là một thứ động tác loại đặc biệt, không đem thi hành ở ngoại giới mà ở tâm giới. Thi hành mà không cần đến sự vận động, không cần đến những vật cụ thể, những việc có thực. Chỉ cần đến những phù hiệu (signes). Những phù hiệu này, những lược đồ này (schèmes)[26]là nhữnghình thế chân (cho việc hoặc cho vật) dễ biến hóa hơn, dễ sai khiến hơn. Chứng kiến ta rút bớt được nhiều cuộc thử thách, thí nghiệm vừa khó, vừa nhọc, vừa vô hiệu quả, khi dùng tay hành động, trì hoãn cuộc hành động lại và ráp gần nhau, đem so sánh những phù hiệu kia, tư tưởng còn giúp ta nhận được những liên quan, những tác dụng bí hiểm mà trước đây ta chưa thấy. Như vậy, tư tưởng bắt ta phải phát minh ra những hành động mới: trong sự đối phó với ngoại giới thì những hành động mới này, so với cái hành động ta định làm trước khi tư tưởng, thích dụng hơn nhiều”(Félix Sartiaux – sách đã dẫn).
Vậy, sự tiến hóa về tư tưởng chỉ là sự tạo thêm ra được nhiều ý niệm về sự vật, về các tương quan giữa các sự vật, bằng các phương tiện quan sát, trừu tượng và khái quát, để có thể càng ngày càng hiểu rõ sự vật và kinh lí ngoại giới một cách sáng suốt hơn.
Ở đây, cũng như ở ngành kĩ thuật, sự tiến hóa vẫn có thể thu gọn vào hai tính cách căn bản: thích ứng và phiền tạp. Ta hẵng xét những chặng đường mà tư tưởng đã tiến triển qua thì có thể thấy rõ được sự tiến hóa ấy.
Thoạt tiên, tư tưởng ở thời kì kinh nghiệm (stade empirique). Trong thời kì này, tư tưởng dính liền với vật hoặc việc. Người ta không quan niệm được tư tưởng ngoài hình dáng thực bên ngoài của vật hay việc. Cho nên, người thượng cổ chỉ chế tạo ra được những danh từ cụ thể để chỉ vật và việc. Sự hiểu biết vì thế mà phù phiếm, nông cạn, thiếu sót. Người ta chưa biết đến mối tương quan của các vật, các việc. Mỗi vật là một thế giới kín bưng, không liên lạc gì với vật khác. Ở trạng thái kinh nghiệm, tư tưởng, vì giản dị quá, cụ thể quá chưa thích hợp với sự hiểu biết ngoại vật mà loài người hằng khao khát và theo đuổi.
Bước sang thời kì thuần lí (stade ra tionnel), tư tưởng đã phức tạp ra nhiều. Người ta đã biết tách ra khỏi vật cụ thể mà nó biểu tượng. Nó biến thành một vật tưởng tượng (eetre imagi naire) có đời sống riêng, không dính gì đến vật thực tại nữa. Thí dụ: những con số. Như ta nói số 7, số 9 thì ta không cần nghĩ đến vật cụ thể mà con số ấy biểu tượng. Ta coi con số ấy cũng là vật có thực, tuy rằng nó chỉ do trí tuệ ta đặt ra một cách rất trừu tượng. Rồi với những vật trừu tượng này, ta cấu tạo nên những kiến trúc thuần lí, không cần đến vật cụ thể. Tỉ như ta làm một cái tính nhân 7x9=63. Ta đã cấu tạo được một con số kết quả bằng hai con số đơn. Và con số 63 mới này cũng vẫn được ta coi như một vật có thực. Ta lại lấy nó hòa động vào với những số khác làm nên những tính nhân, tính chia, trừ, cộng.
Xem vậy, tư tưởng thuần lí đã phiền tạp hơn tư tưởng kinh nghiệm nhiều. Nhờ thế mà nó cũng thích ứng với công việc hiểu biết hơn. Bởi nó không còn bị dính chặt vào vật nữa, nên óc người mới có thể tự do phối hợp những phù hiệu của vật (ý tưởng) để tạo ra những ý tưởng mới. Lần mò mãi, óc người tạo ra được những phép tắc quan sát, suy luận và nhận thức rõ thêm để hiểu ngoại giới và tâm giới. Bao nhiêu phép tắc luận lí hình thức đều phát sinh trong thời kì này.
Nhưng vì phiêu diêu trên cõi thuần lí, tư tưởng trở nên quá ư trừu tượng, đứt đoạn với thực tế, vì thế nảy ra nhiều kiến trúc thuần lí viển vông không dính dáng chút nào đến thực tế (như những luận điệu của Tống Nho về Lí về Khí và những luận điệu của các môn đồ Phật giáo Sắc không, Nát bàn...).
Đến cận đại, nhờ có khoa học, tư tưởng mới rời thoát cõi thuần lí mà bước vào thời kì chứng nghiệm (stade experimental). Ngày nay thì bao nhiêu biểu tượng về sự vật, bao nhiêu cách suy luận để tìm ra chân tướng sự vật đều phải đem vào phòng khảo cứu của nhà bác học để chứng nghiệm nghĩa là để đối chiếu với thực tế xem có phù hợp với viên mãn không. Từ khi bước vào thời kì chứng nghiệm tư tưởng càng thích hợp với công việc hiểu biết thực tế là công việc phú bẩn của nó. Nó đã tìm được chân tướng sự vật, các mối tương quan của sự vật, các phép tắc chỉ huy cuộc diễn triển của sự vật. từ đó, tư tưởng của loài người mới gọi là làm tròn được sứ mệnh của nó là hiểu thấu đáo vật giới thực lại.
Xét qua ba chặng đường đã đi qua của tư tưởng, ta nhận ngay thấy là càng ngày nó càng phiền tạp hơn, nhưng cũng càng hoàn thiện hơn, nghĩa là càng thích hợp với công việc hiểu biết thêm ra. Có phiền tạp, có thích hợp, vậy là có tiến hóa.
Trên đây chúng tôi đã lượm, ở trong cuộc sinh hoạt đồ sộ của xã hội, hai ngành sống có tính cách tiêu biểu (kĩ thuật và tư tưởng) một cụ thể, một trừu tượng để minh chứng lẽ tiến hóa và để tìm ra một định nghĩa xác đáng cho sự tiến hóa. Chúng tôi đã rút ra được một định nghĩa vững chãi sau đây: sự tiến hóa là sự biến chuyển từ đơn giản đến phiền tạp và sự tăng gia về thích ứng. Diễn dịch ra ta có thể kết luận: có phiền tạp, có thích ứng, là có tiến hóa.
Bàn về lẽ tiến hóa, giáo sư Lahy Hollebecque cũng đã viết: “Khi nghiên cứu thật khách quan cái ý nghiệm tiến hóa, đem áp dụng nó vào con người, hay vào xã hội, ta đều có thể gom nó vào hai tính cách căn bản: sự phiền tạp và sự thích ứng, hai tính cách này phát triển sóng đôi với nhau, gây ra giữa con người với hoàn cảnh xã hội những hình thức liên quan luôn luôn biến đổi thình lình, tạo thành sự kiện mới. Nhờ thế mà con người càng ngày càng thích ứng hoàn toàn thêm với hoàn cảnh xã hội, trong khi hoàn cảnh này cứ phiền tạp mãi ra. Kết quả là con người, được hưởng thêm những điều kiện may mắn để sinh tồn, cũng có ý thức sáng suốt thêm về bản than mình, về vũ trụ, mỗi ngày một gần thực tế, con người rút khỏi được sự lầm lẫn, sự mê tín. Mỗi ngày một gần chân lí, con người có thể hành động ảnh hưởng đến hoàn cảnh xã hội...”.
Sự tiến hóa của con người và của xã hội phần lớn bị chi phối bởi hai tính cách kia và bị thuộc lệ vào điều kiện ấy.
CHƯƠNG IX
ĐỘNG LỰC CỦA SỰ TIẾN HÓA
Những trang sách trên đã cho ta thấy rõ về vấn đề tiến hóa, các nhà tư tưởng bất đồng ý kiến với nhau như thế nào. Cội rễ sự bất đồng này là chỗ sai biệt nhau của các nhà ấy về thời đại, về sứ sở và nhất là về đẳng cấp. Tùy sự thuộc vào đẳng cấp nào, xuất sứ nào, thời đại nào, mỗi cá nhân sẽ phải theo những điều kiện tương đương (quyền lợi, trình độ, kĩ thuật, hoàn cảnh xã hội) mà công nhận hay phủ nhận lẽ tiến hóa, tán trợ hay bài xích quan điểm tiến hóa, hưởng ứng hay bàn đãi những người phụng sự cuộc tiến hóa. Truy cứu đến tận gốc mọi ý kiến thì thường thường ta thấy sự chi phối của đẳng cấp xã hội mạnh nhất, quyết định nhất, cùng trong một thời đại, một xứ sở mà có người đề xướng thuyết tiến hóa, lại có người đạp đổ thuyết ấy là tại sao? Tại hai người trái tín ngưỡng nhau, trái tư tưởng nhau, trái giáo dục nhau. Tín ngưỡng, tư tưởng, giáo dục cũng như quyền lợi sinh tồn nền tảng của chúng đều là những thứ mà đẳng cấp ban phát cho cả. Có hiểu được sự thực quan trọng này mới không ngạc nhiên trước những cuộc xô sát về tư tưởng ở bất cứ phạm vi nào.
Sự thực quan trọng ấy lại một lần nữa được minh chứng, chung quanh vấn đề động lực của lẽ tiến hóa. Vì đâu mà xã hội tiến hóa? Tại sao có sự tiến hóa? Động lực nào sai khiến cho sự tiến hóa. Đó là những câu hỏi thường làm bận trí những người lưu tâm đến cuộc nhân sinh trong lịch sử. Về vấn đề này, ý kiến của người đời lại một phen xung đột. Ta có thể chia những ý kiến bàn về động lực của sự tiến hóa ra làm bốn loại:
1) Thuyết “thiên mệnh”
2) Thuyết “sức mạnh tinh thần”
3) Thuyết “anh hùng tạo thời thế”
4) Thuyết “kinh tế quyết định”
Ta thử lược khảo đại cương của bốn thuyết ấy, cho có đủ điều kiện để giải quyết vấn đề động lực của sự tiến hóa.
1)Thuyết thiên mệnh. Phái theo thuyết này là một phái triết nhân, tuy đã dứt được với những di tích ma thuật còn sót lại trong tôn giáo, đã vượt lên được tầm tư tưởng, nhưng vẫn còn dính chặt với tôn giáo bằng tín ngưỡng về Thượng đế và Thần linh. Tư tưởng căn bản của những người trong phái đó là tin có một Thượng đế điều khiển thiên nhiên và nhân sự; mặc dầu Thượng đế ở con mắt họ chỉ còn là một ý chí vạn năng, toàn chân, toàn thiện, chứ không phải là hình dáng cụ thể như đối với các thường nhân mê tín.
Theo ý họ thì sự sinh hóa tồn tại của toàn thể vũ trụ là do một vị Thượng đế quyết định và dìu dắt theo ý muốn của Ngài. “Vì thế cho nên những đấng vương giả quản trị muôn dân lúc nào cũng cảm thấy mình bị tùy thuộc vào một bất khả kháng lực... Chỉ có tạo hóa (tức là biểu thị của cái bất khả kháng lực ấy) mới nắm được trong tay vận mệnh của mọi vật, mọi sự. Chỉ có Ngài là biết tên được cái đang có và biết được tên cái chưa có. Chỉ có Ngài mới thống trị đời đời và truyền phán được những giáo lệnh phải tuân theo”.
Câu này trích trong bộ sách Luận về lịch sử thế giới (Discours sur I’Histoire universelle) của nhà triết học thần bí Jac ques Bésnigne Bossuet (1672 - 1704). Câu đó cũng là triết lí trụ cột của bộ sách ấy. Bởi tin có sự chỉ huy của Thượng đế, nên Bossuet sắp đặt lịch sử thế giới dường như cuộc sinh hoạt của loài người từ ngày khai thiên tịch địa đến giờ[27]đều diễn triển theo một chương trình mà tạo hóa đã vạch sẵn. Bao nhiêu cuộc hưng vong của các cổ đế quốc đều được coi như đã tiền định sẵn sàng, cũng như đã tiền định sẵn sàng sự lưu tôn và sự toàn thắng của thiên chúa giáo vậy. Thiên mệnh bao trùm cả sự sống của loài người, không ai có thể cưỡng lại được. Bossuet, cái triết lí của lịch sử phải kết thúc đến sự toàn thắng của thứ tôn giáo mà Bossuet tôn thờ và phụng sự. Quyển Luận về lịch sử thế giới của Bossuet thật là một biểu chương (illustration) mẫu của thuyết Thiên mệnh (providentialisme).
* *
*
Thuyết thiên mệnh này cũng là triết lí giường cột của Nho giáo. Khổng Tử là người tin hơn ai hết cái tư tưởng thiên nhân tương dữ (trời với người quan hệ mật thiết với nhau). Ông tin rằng có một ý chí vạn năng cai trị sự vật, gọi là thiên mệnh. Nên bao nhiêu phép tắc của trời (diễn ra trong thiên nhiên) người quân tử phải tìm hiểu để lấy làm tiêu chuẩn cho phép tắc sinh hoạt của con người. Thiên đạo phải là mô phạm của nhân đạo.
Ngài nói: “Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã: Không biết mệnh trời thì không lấy gì làm quân tử” (Luận ngữ - Nghiêu viết). Sức tự cường của người quân tử chỉ là thể theo chiều cái mệnh trời đó mà thi hành ra.
Tư tưởng thiên mệnh rất có ảnh hưởng đến việc chính trị của Trung Hoa. Nó là gốc tích của nghi lễ bốc phệ nghĩa là bói mai rùa và cỏ thi “ThiênHồng phạm trongKinh Thư nói rằng: Nhữ tắc hữu đại nghi, mưu cập, nãi tâm, mưu cập khanh sĩ, mưu cập thứ nhân, mưu cập bốc phệ: Người (Vua) có điều người lớn thì tự trong bụng suy nghĩ cho kĩ, rồi bàn với khanh sĩ, hỏi những thứ nhân, hỏi bốc phệ...”. Dùng bốc phệ là hỏi quỉ thần để biết sự cát hung... Nên khi có việc quân, việc nước hay các việc tế là các vua chúa đều phải bói rồi mới dám quyết... Vua chúa đời xưa đều phải đặt quan Thái bốc để giữ việc bói toán”[28].
Bởi lẽ đó, nhà nho cũng là người rất giàu lòng tin lí số, bốc phệ. Tin bốc phệ tức là tin có thiên ý. Tin có thiên ý tức là tin rằng sự tuần hoàn biến hóa của vạn vật và của xã hội đều do thiên định hết cả. Nước bình trị là nhờ trời cho bình trị. Nước loạn lạc là tại trời bắt loạn lạc. Trị, loạn, hung, vong toàn là những hiện tượng lịch sử đã định trước theo một chương trình bí mật viết sẵn cả rồi vậy.
Thuyết thiên mệnh thụ động ấy đã bị một tay môn đệ cự phách trong Khổng phái cuối đời Chiến quốc cực lực công kích: Tuân Tử. Ông này nêu ra thuyết “thiên nhân bất tương quan”, nghĩa là trời và người không có quan hệ gì với nhau cả. Ông cho rằng sự binh trị của xã hội đều là kết quả của sức người chứ không phải là của thiên ý. Ông có một lòng tin tuyệt đối ở sự nỗ lực của loài người. Sự nỗ lực này, trời cũng không thể lũng đoạn hay tàn diệt được. Ông viết: “Làm cho mạnh cái gốc mà sự dùng có tiết độ thì trời không thể làm cho nghèo đói được; dự bị sự nuôi và hành động thuận trời thì trời không thể gieo bệnh tật cho được...
Trời có thời của trời, đất có tài sản của đất, người có việc trị của người; ấy gọi là có thể ngang với trời đất...” (Thiên luận, XVII)[29].
Ông lại viết:
“Trị loạn có phải tại trời không? – Rằng: mặt trời mặt trăng, các ngôi tinh tú cùng cách làm lịch thì trời của vua Vũ và trời của vua Kiệt giống nhau thế mà vua Vũ thì trị mà vua Kiệt thì loạn. Vậy trị loạn không phải là tại trời.
“Trị loạn có phải tại trời không? – Rằng: Sự sinh sôi nảy nở ở mùa xuân mùa hạ, sự súc tích thu tàng ở mùa thu, mùa đông thì thời của vua Vũ và thời của vua Kiệt cũng giống nhau, thế mà vua Vũ thì trị vua Kiệt thì loạn. Vậy trị loạn không phải là tại trời.
“Trị loạn có phải là tại đất không? – Rằng: được đất thì sống, mất đất thì chết, thì đất của vua Vũ và đất của vua Kiệt cũng giống nhau thế mà vua Vũ thì trị, vua Kiệt thì loạn. Vậy trị loạn không phải là tại đất...” (Thiên luận, XVII)[30].
Việc trị loạn chính là việc của người lịch sử là do người tạo ra. Trời không dính dấp gì vào đó cả. Tư tưởng của Tuân Tử về sự trị loạn không khỏi có vẻ máy móc và thiếu sự thống quan, nhưng cũng đã cấp tiến và khích động hơn của chư nho chính thống nhiều.
Tuy vậy, dù không công nhận sự quan hệ của trời và người, Tuân Tử cũng vẫn chủ trương có Trời; nên tư tưởng của ông vẫn còn bày ra nhiều di tích thần bí. Muốn đánh đổ hẳn thuyết thiên mệnh, phải đánh đổ hẳn quan niệm về trời. Xét kĩ quan niệm về Trời, ta thấy có ba loại Trời đã được cấu tạo ra:
1. Trời của các nhà đạo đức. Ở đây, lòng tin Trời nảy ra để cắt nghĩa và biện hộ sự bất công của xã hội loài người. Nó phát sinh vào khoảng lịch sử mà nông nghiệp cực thịnh đẻ ra trong xã hội sự chênh lệch về tiền bạc quyền thế. Thấy cuộc đời đầy rẫy sự bất bình mà không sao giải quyết được, các nhà đạo đức liền tưởng tượng ra một ông trời để trừng phạt những kẻ tội lỗi sau khi chết. Trời của các nhà đạo đức là một quan niệm phản động lại xã hội của những tâm hồn đa cảm nhưng bất lực.
2. Trời của các nhà thần bí. Ông trời này là một thứ “Trời mà chỉ có trái tim mới cảm thấy được” (Dieu sensible au Coeur) theo câu nói của Pascal. Khoa tâm bệnh học hiện đại (psychiatrie) đã khám phá ra rằng những người thần bí chỉ là một hạng con bệnh thần kinh có căn tạng tính khí bất nhất (constitution cyclothymique). Con bệnh này thường có những phút xuất thần (extase) linh hồn như bay bổng lên cõi hư vô; trong những phút đó, họ có cảm tưởng đã gặp “Thần Linh” và tin ngay là có thực. Nhà tâm lí học Mĩ Zames H. Leuba đã dụng công giải thích hiện tượng hư ảo ấy: “Sự thần bí là sự khải thị (réveslation) của NGƯỜI chứ không phải của TRỜI. Người dã man tưởng nghe thấy trời trong tiếng sấm ù với người văn minh cảm thấy trời trong phút tâm thần xuyên động thình lình đều là bị cái ảo tưởng trực kiến làm cho mê hoặc đi cả”.
3. Trời của các nhà siêu hình. Quan niệm về trời của các nhà siêu hình học là một sản vật hoàn toàn trừu tượng có tính cách tuyệt đối và hư ảo. Ngày nay, theo phương pháp khoa học thì bất cứ một định nghĩa hư danh (delinition nominale) nào mà không có một thực thể làm công chuẩn (postulat de’existence), nghĩa là không được sự chứng nghiệm khoa học quyết định là phù hợp với một thực tế thì không có quyền nhận là một khái niệm (concept). Nó chỉ được phép tự mệnh là giả thuyết hoặc ước lệ mà thôi. Ông trời của các nhà siêu hình cũng là một định nghĩa không có thực thể làm công chuẩn, nên chỉ được coi là một ước lệ mà thôi (une convention) chứ không phải là một khái niệm hay một ý tưởng.
Ước lệ ấy hoàn toàn vô giá trị, vì nó không thuộc vào phạm vi nhận thức của con người: nó không chịu được sự kiểm soát khoa học.
Luận về những quan niệm thiên ý, thiên mệnh, một nhà tâm lí học trứ danh hiện đại người Thụy Sĩ, Paul Oltramere (mất năm 1930) đã viết: “Thượng đế hoặc Thần linh của các tôn giáo và các siêu hình học đặt ra đều chỉ là sản vật của óc người. Cái giả thuyết nói có sự can thiệp của một thiên lực nào đó vào công việc diễn triển của sự vật không thể nào kiểm soát được... Nói rằng: trong bản năng con người, có sự khao khát về vô tận, về bất diệt, về tuyệt đối, về siêu việt... là không đúng sự thực. Chính cần phải trút bỏ các thứ tín ngưỡng không kiểm sát được ấy, con người mới tạo nổi sự điều hòa cho tâm hồn mình, dù có vì thế mà phải hi sinh một ít yên tĩnh tinh thần và rất nhiều những tin tưởng có từ hồi thơ ấu cũng nên hi sinh”[31].
* *
*
Quan niệm thiên mệnh không còn đất mà đứng nữa. Khoa học hiện đại đã chứng rằng sự tiến hóa của loài người cũng như của sự vật không bị lệ thuộc vào một đấng Thần linh nào cả. Hơn nữa, sự tiến hóa này không bao giờ theo một cứu cánh tiền định nào. Nó có tính cách du hí. Nó là một trò động tác, biến sinh, dịch chuyển trong đó cái hậu đề là kết quả bắt buộc của cái tiền đề và cũng lại là nguyên nhân trực tiếp của một tiền đề khác. Nó diễn triển hoàn toàn theo những động lực nằm trong nội bộ của thực tế vật chất. Ta phải tìm ra những động lực ấy.
Và muốn tìm được những động lực này, trước hết, phải gạt ra ngoài óc tất cả những di tích của quan niệm sai lầm về thiên mệnh.
CHƯƠNG X
ĐỘNG LỰC CỦA SỰ TIẾN HÓA (Tiếp theo)
Không tin có Trời, không tin sự ngẫu nhiên mù quáng mà chỉ tin có luật nhân quả và sức hành động vạn năng của loài người: đó là nền tảng thiết cốt của tư tưởng hiện đại. Với tư tưởng này, quan niệm về động lực của sự tiến hóa mất hẳn tính cách thần bí. Nó trở nên thực nghiệm. Tuy cùng đứng ở quan niệm thực nghiệm mà các nhà triết học luận về động lực của sự tiến hóa cũng vẫn tùy theo cách nhận xét và hiểu biết riêng của mình để lập thuyết, nên ý kiến cũng thường không đồng nhất. Người thì cho rằng sự tiến hóa của loài người lấy sức mạnh tinh thần làm nguyên động lực. Người lại cho rằng chính những bậc vĩ nhân xuất chúng mới là động cơ tiến hóa của xã hội. Cả hai phái đều cố dẫn chứng trong lịch sử quá khứ và hiện tại của loài người, để củng cố lí thuyết của mình.
2)Thuyết sức mạnh tinh thần[32]. Chủ trương của thuyết này là môn đệ xa xôi của nhà hiền triết Platon, ông thủy tổ của chủ nghĩa duy tâm (idéalisme). Họ tin rằng động lực duy nhất của sự tiến hóa xã hội là tinh thần. Trong danh từ mơ hồ này họ chỉ gồm cả ý tưởng, tình cảm và tính khí. Nhưng đối với họ thì ý tưởng mới chính là nguyên tố chủ yếu của sự tiến hóa. Họ gán cho ý tưởng một thần lực phi thường đủ sức lôi cuốn cả một xã hội và biến đổi cả một chế độ. Chép lịch sử, họ chỉ thường chú tâm tìm và giảng những ý tưởng trong các hiện tượng lớn lao. Theo họ thì ý tưởng dân quyền đã làm ra cuộc đại cách mạng Pháp 1789, ý tưởng tự do đã làm ra cuộc độc lập của Hiệp chủng quốc Mĩ châu (1775 - 1782), ý tưởng “làm thắng Cơ đốc giáo” đã gây ra cuộc Đông chinh thập tự quân (Croisades) ở thế kỉ XI, XII, XIII, ý tưởng tam dân đã làm ra cuộc cách mạng (1911) ở Trung Quốc, ý tưởng pháp quyền (chống với vũ lực) đã làm ra cuộc đại chiến 1914 - 1918,...
Quan niệm lịch sử này cũng có ít phần đúng, nhưng rất nhiều phần sai. Trong then máy tiến hóa của xã hội loài người, ý tưởng đóng một vai trò không phải nhỏ. Nhưng cố ghép cho ý tưởng vai chủ động thì trái với sự thực. Ý tưởng đâu có phải từ trên trời rớt xuống đầu óc người đời. Nó là kết quả của một trạng thái xã hội.
Trạng thái và xã hội là một bộ máy lớn, vận động theo sức điều khiển nội tại của nó; cá nhân, muốn sinh tồn, phải chịu cuốn theo đà vận động của cả guồng máy, hầu như bị sát nhập với nhịp điệu của nó. Tuy vậy, trong lúc quay theo như vậy, cá nhân vừa chịu ảnh hưởng, vừa tác động mà cũng vừa phản động lại – nghĩa là vừa nhận vừa cho. Do đó, nảy nở ra, ở cá nhân, những trạng thái ý thức (états de conscience), phản ảnh của sự hiệp đồng tác dụng kia (synergie)[33]…
Vì con người là một động vật xã hội trên những trạng thái ý thức đó có xu hướng giao thông với những trạng thái ý thức khác. Sự giao thông này tạo nên kết quả bất ngờ làm nảy nở những trạng thái ý thức tổng hợp, nghĩa là có tính cách khác hẳn những trạng thái ý thức của từng cá nhân[34]. Lúc nó mới đột sinh một trạng thái ý thức công cộng (états de conscience collectif)bàng bạc, mơ hồ. Tất cả mọi người trong xã hội đều cảm mơ hồ chung một cái gì, nghĩ mơ hồ chung một cái gì, chờ đón mơ hồ chung một cái gì. Đến phút này, sự kết tinh mới bắt đầu và thường thường, nó tựu thành ở một cá nhân có những năng khiếu tinh thần thích ứng với nó hơn mọi người. Nó tạo thành ý tưởng (idée). Cá nhân có đủ năng lực biến được trạng thái mơ hồ kia thành một ý tưởng, ta gọi là một thiên tài.
Ý tưởng ấy vừa được nói ra thì tất cả mọi người đều nhận là phải, là đúng ngay. Người nào cũng thấy mình nghĩ đại khái như thế mà không nghĩ rõ rệt được như thế. Như một luồng điện, ý tưởng đó làm rung động các khối óc, khua động các tình cảm. Ý tưởng ấy được đoàn thể khuếch xung, sửa chữa cho hợp với triển vọng của xã hội và lòng ao ước chung, dần dần biến ra một tri thức hệ (idéologie), còn gọi là ý tưởng hệ. Ý tưởng hệ này lan rộng mãi ra, ăn sâu mãi xuống, gây thành một trào lưu tư tưởng (courant d’idée). Nếu từ trào lưu này phản chiếu đúng cái xu thế đang đi tới của trạng thái xã hội trong đó nó phát khởi thì chỉ một cơ hội nhỏ thuận tiện xảy đến là nó lôi cuốn các cá nhân, lật đổ các chế độ, biến cả các hình thức sinh hoạt – làm ra một hiện tượng lịch sử.
Xem vậy, ý tưởng không phải là nguyên nhân động lực của sự tiến hóa. Nó chỉ là một trong những động lực phụ thuộc. Giá trị của nó tương đương với những giá trị công cộng. Nó bị lệ thuộc vào cả một kiến trúc vật chất (tức là xã hội) mà nó chỉ là phản ảnh. Cũng có khi nó lại là phản chiếu tình trạng xã hội một cách sai lầm hoặc thiếu sót. Ở trường hợp này, nó không có lực lượng xã hội nữa và bị tiêu trầm trong guồng máy biến chuyển của nhân sinh. Ta có thể lấy rất nhiều thí dụ trong lịch sử để chứng minh sự thực này. Ta hẵng tạm cử ra đây hai thí dụ lớn, một ở lịch sử Trung Hoa, một ở lịch sử Pháp.
Như chúng ta đã biết, trong khoảng thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở Trung Hoa, tự nhiên bột phát cả một mùa màng tư tưởng triết lí và xã hội. Ba phái triết học đương thời được lưu ý nhất là Khổng Tử, Lão Tử, Mặc Tử. Những tư trào này xảy ra trong thời kì ấy là bởi chế độ phong kiến đang bị vỡ lở. Các chư hầu, nhờ sự phát đạt của nông nghiệp và sự bóc lột nông nô, đã xúc tích được nhiều tài sản, dần dần trở nên cường thịnh. Họ không tùng phục nhà Chu nữa, xưng hùng xưng bá ở từng địa phương, nước nào cũng toan mưu đồ đế nghiệp. Đồng thời, nông nghiệp phát đạt đã giúp cho thương nghiệp hưng khởi. Thương nghiệp càng thịnh thì sự giao dịch giữa các địa phương càng cần thiết để tiêu thụ hàng hóa. Sự giao dịch càng cần thiết thì mọi người càng thấy cần có ngay tiện lợi về đường sá giao thông, sự thống nhất về phép đo lường, về tiền tệ, sự thống nhất về chính trị và sự hòa bình thiết thực để đảm bảo cho cuộc sống.
Tóm lại, thời Xuân Thu Chiến Quốc là một thời quá độ có xu hướng mãnh liệt tiến đến trạng thái thống nhất chính trị và kinh tế trạng thái đế quốc. Nhưng bởi chưa có nước nào đủ lực lượng để triệt hạ các địch thủ, qui trăm họ vào một mối, gồm khắp cõi vào một đế quốc, ban bố trật tự và hòa bình, bảo vệ nông nghiệp và thương nghiệp, nên sự chiến tranh cứ liên miên kéo dài mãi, làm cho dân Trung Hoa thời đó lao đao khốn khổ. Cương thường luân lí đồi bại cùng cực: bầy tôi giết vua, con giết cha, vợ giết chồng, lường gạt phản bội, tàn ác... Bao nhiêu cảnh trái ngược, vô nhân đạo hàng ngày diễn ra trước mắt.
Đứng trong tình trạng xã hội loạn lạc như thế, các nhà hiền triết vội lo cứu vớt đồng bào. Họ xướng minh các đạo lí, bày ra các phương pháp hành chính để cải tạo thời cuộc. Đó là nguyên nhân sự phồn tạp của triết học thời Xuân Thu, Chiến Quốc.
Nhưng cùng sống giữa hoàn cảnh lịch sử ấy, nhưng tại sao Khổng Tử, Mặc Tử, Lão Tử lại tạo ra mỗi nhà một triết học khác nhau? Trước hết ta phải hiểu rằng triết học của mỗi nhà tri thức ấy chỉ là một phương pháp cải tạo thời cuộc, một lối giải quyết bài toán xã hội đang đi tìm số trả lời. Giải quyết một thời cuộc tức là đi tìm một lối sống. Kẻ thường nhân thì chỉ tìm lối sống cho mình, cho gia đình mình. Người hiền triết thì tìm lối sống cho trăm họ. Nhưng ta nên nhớ rằng danh từ “trăm họ” chỉ là một danh từ trừu tượng. Nói rằng “trăm họ” nhưng kỳ thực trong tiếng nói đó không phải chỉ có một hạng người đồng nhất. Trái lại, trong danh hiệu đó, có rất nhiều hạng người sống khác nhau, nghĩ khác nhau, muốn khác nhau. Quan niệm “con người duy nhất và tuyệt đối” là một quan niệm trái với thực tế. Một ông đại điền chủ không thể và không hề sống, nghĩ, cảm, nói, ao ước giống một kẻ nông nô, cũng như một vị quí tộc (công, hầu, bá, tử, nam) không thể và không hề sống, nghĩ, cảm, nói, ao ước giống như bác thợ rèn. Vậy là trong cái danh từ “trăm họ” kia, có rất nhiều hạng người khác hẳn nhau, mỗi hạng có một trạng thái ý thức công cộng riêng. Mỗi trạng thái ý thức công cộng này tất nhiên phải kết tinh vào một ý tưởng hệ và phải có một “triết nhân” đại biểu đem phát huy ra.
Các triết học thời Xuân Thu, Chiến Quốc không vượt khỏi được công lệ ấy. Mỗi triết nhân, bởi cũng là người nên không thể vừa ở hạng quí tộc vừa ở hạng bần dân, vừa ở hạng địa chủ, vừa ở hạng nông nô được. Mỗi ông cũng phải thuộc vào một gia tộc nào, một đẳng cấp nào nhất định. Và tất nhiên, mỗi ông cũng phải chịu nhận dù muốn hay không muốn, một giáo dục nhất định, bảo vệ những quyền lợi nhất định. Đã vậy thì thế mỗi ông phải đại diện cho một đẳng cấp xã hội riêng. Và cũng thế, mỗi ông phải triết lí hóa một trạng thái ý thức công cộng riêng không thể nào tránh được.
Đó là nguồn gốc sự trái nhau giữa Khổng giáo, Mặc giáo và Lão giáo, mặc dầu cả ba ông Khổng, Mặc, Lão đều sống chung một hoàn cảnh xã hội.
“Lão Tử là người ở lớp quí tộc phong kiến cũ nên cực lực phản đối những điều kiện đã khiến cho chế độ phong kiến phải suy đồi như công nghiệp, thương nghiệp và mộng tưởng trở lại cái cảnh hoàng kim thời đại, tức là trạng thái kinh tế tự cấp tự túc của chế độ phong kiến buổi đầu. Mặc Tử thì là ở lớp nông dân, tuy thấy trình độ nông nghiệp có lên cao mà tình cảnh nông dân khốn khổ thì không thấy bớt (tình cảnh bọn thủ công nghệ cũng vậy) cho nên cực lực phản đối chế độ tôn tộc và chính trị quí tộc, chủ trương kiêm ái... (Ngoài ra) lại còn một giai cấp nữa là lớp tân địa chủ và thương nhân nhờ kinh tế biến động mà mới nổi lên... Theo tư tưởng của người tân địa chủ đòi giữ chính quyền thì muốn cho nhân dân khỏi khổ sở, xã hội được hòa bình, quyền chính trị phải thống nhất... xã hội phải có trật tự tôn nghiêm... kinh tế phải chú trọng về nông nghiệp là gốc của muôn nghề... Khổng Tử chính là triết học đại biểu cho giai cấp tân địa chủ và sĩ phiệt (vua, quan) mà Khổng Tử là học thuyết đại biểu cho tư tưởng thống trị và trọng nông của giai cấp ấy”[35].
Xem thế, chỉ có Khổng giáo là kết tinh được đúng và trọn vẹn cái ý thức công cộng của toàn thể trạng thái kinh tế và xã hội thời Xuân Thu. Chỉ có nó là đạt được thành công hệ chặt chẽ cái xu hướng đi tới của trạng thái kinh tế và xã hội ấy. Bởi thế nó được độc tôn và sống mãi trong xã hội Trung Hoa. Còn những thuyết vô vi của Lão Tử, kiêm ái của Mặc Tử thì bị bỏ quên ngay trong bóng tối của lịch sử. Không phải vô vi hay kiếm ái mai một gì đạo Nhân của Khổng Khâu. Chỉ bởi vô vi và kiêm ái không phản chiếu đúng trạng thái ý thức công cộng của cái sức mạnh xã hội đang đóng vai trò lịch sử cấp tiến trong thời đại Xuân Thu (lớp người tân địa chủ).
Xem vậy, ý tưởng đâu là nguyên động lực của sự tiến hóa xã hội. Ý tưởng chỉ có sức mạnh và giá trị tiến bộ khi mà nó kết tinh đúng cái đà phát triển thực của xã hội. Một khi nó không kết tinh đúng cái đà phát triển ấy thì dù tốt đẹp đến đâu nó cũng không thể thúc dục được người đời hưởng ứng và hành động.
Ở trường hợp này, nó phải sống vật vờ như một không tưởng, đợi khi nào may mắn gặp được một hoàn cảnh xã hội cho phép nảy nở, nó mới có thể bùng ra và tác động đến cuộc biến chuyển của nhân sinh được.
Ta thường thấy những ca như vậy trong lịch sử - ca Gracchus Babeuf (1769 - 1797) chẳng hạn. Giữa lúc giai cấp tư sản Pháp lật đổ chế độ quý tộc để bảo vệ và khuếch trương quyền lợi của nó (1789) thì Babeuf lại cao xướng một lí thuyết bảo vệ quyền lợi của bần dân. Ông trước thư lập ngôn rất nhiều, rất hăng hái để gỡ mặt nạ những đạo luật dân chủ thời ấy mà ông cho là có hại cho thợ thuyền. Ông hô hào lập một nước cộng hòa của những người bình đẳng (Réspublique des ésgaux), xã hội hóa các tài sản, thủ tiêu tư kỉ. Lí thuyết của Babeuf rất hay, rất hợp lí. Nhưng nó phát sinh (1795 - 1799) vào thời kì đốc chính (directoire), giai cấp tư sản đang mạnh, đang giữ vai trò lịch sử cần thiết cho nên tư tưởng cực đoan của Babeuf bị bài trừ kịch liệt. Ông liền âm mưu đảo chính nhưng thất bại và bị hành hình (tháng năm 1797)[36]. Tuy vậy, tư tưởng của ông không mất tích. Năm mươi năm sau, đại công nghệ phát triển khiến thợ thuyền càng đông và mạnh. Tư tưởng Babeuf, ý thức của giai cấp này, gặp đất sống, liền đâm bông nảy trái dồi dào. Được sửa chữa, thêm thắt cho hợp với những điều kiện xã hội mới, nó thành một ý tưởng hệ kiên cố, đủ sức kích động nhân tâm làm nên cuộc cách mạng tháng sáu 1848. Cuộc cách mạng này lại thất bại. Nhưng chính nó mở đầu cho các cuộc cách mạng ở xã hội sau này: 1870 ở Pháp, 1905, 1917 ở Nga, 1928 ở Đức...
Căn cứ vào những thí dụ ấy, ta có thể kết luận rằng ý tưởng không làm ra lịch sử. Sức mạnh tinh thần không phải là nguyên động lực của mọi sự biến chuyển trong lịch trình tiến hóa xã hội của loài người. Nó chỉ là một trong những động lực cần thiết nhưng phụ thuộc.
3) Thuyết anh hùng tạo thời thế[37]. Cũng như thuyết sức mạnh tinh thần, thuyết anh hùng tạo thời thế thường được nhiều nhà triết học và nhà sử học dùng đến, khi luận về sự tiến hóa của loài người. Người nổi tiếng nhất trong phái này là nhà sử học Thomas Carlyle (1795 - 1881) người xứ Ecosse. Carlyle có trước tác một cuốn sách nhan đề Người anh hùng và lòng sùng bái anh hùng (Le Héros et le culte des héros)(1841).
“Carlyle chép sử một cách rất mới lạ khác hẳn các sử gia, ông đem thu tóm cả lịch sử vào một xấp truyện kí cá nhân (mono graphie) kế tiếp nhau. Tất cả quan niệm về lịch sử của ông dựng trên một quan niệm về người anh hùng xuất thế. Mỗi thời đại chứa đựng một tinh anh riêng, những nhu cầu riêng, cả đến những thói xấu riêng; tất cả những cái này đều kết tinh vào một vị anh hùng. Chỉ có những bậc anh hùng mới xứng đáng trị vì thiên hạ... Xã hội nào mà có những kẻ tầm thường cai trị thế nào cũng đi tới sự tan rã”[38].
Thực ra thuyết của Carlyle cũng chẳng hoàn toàn mới lạ gì. Quan niệm về sự sùng bái anh hùng đã có từ lâu rồi, từ thời cổ Hy Lạp, thời Khổng Tử, Mặc Tử. Chỉ có điều, mỗi thời kì tiến hóa của loài người, sự tượng hình bậc anh hùng lại khoác một màu sắc riêng.
Đầu tiên, trong khi xã hội loài người còn ở chế độ phong kiến, lớp người thống trị là hạng quí tộc kiếm sĩ, thì người anh hùng là một vị võ tướng siêu quần, sức khỏe tuyệt luân, mưu cơ bài binh bố trận hơn đời – kiểu Gengis Khan, Alexandre. Triết học Hy Lạp đã tạo ra được một tượng trưng hoàn thiện của người anh hùng đó: Hercule. Trong óc người Hy Lạp, Hercule là nhập thân của một sức khỏe điền kinh phi thường và một chiến ải cái thế.
Đến khi xã hội nông nghiệp cực thịnh, trong đoàn thể sự phân công đã tạo ra một hạng trí thức chuyên môn (nho sĩ Trung Hoa, thầy tu Ấn Độ, triết nhân Hy Lạp) thì hạng này liền thay vào hình tượng anh hùng võ sĩ một hình tượng hiền triết (le sage). Kẻ thống trị lí tưởng không còn là kẻ đeo kiếm mặc giáp nữa mà phải là một bậc trí thức siêu phàm thông hiểu đạo trời, quán thông đạo người – một bậc hiền triết (quân tử).
Trong cuốn luận République, nhà triết học Platon đã có câu: “Khi mà bậc hiền giả chưa được làm vua, khi mà các ông vua chưa phải là triết nhân thì loại người còn khổ, không thể có cách gì cứu chữa được”. Platon tin rằng chỉ có các nhà hiền triết mới cứu được xã hội khỏi cảnh loạn li tân khổ.
Đó cũng là tin tưởng của Khổng Tử, Mặc Tử. Chính Khổng Tử, vốn có thái độ và lời nói rất nhún nhường ở mọi trường hợp, cũng đã tự phụ thốt ra: “Cẩu hữu dụng ngã giả, kì nguyệt nhi dĩ khả dã, tam niên hữu thành: Nếu ai dùng ta thì trong một năm đã khá, ba năm ắt thành” (Luận ngữ: Tử Lộ, XIII). Sử chép rằng khi vua nước Lỗ dùng ngài làm Đại tư khấu (tức như Hình bộ thượng thư ngày nay) “Ngài đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc, định rõ việc tống táng người chết. Lớn nhỏ phân biệt trai gái không lẫn lộn, người đi ngoài đường thấy của rơi không nhặt. Kẻ gian phi không có, hình pháp đặt ra không hề dùng đến”[39]. Sau vua nước Lỗ lại cất ngài lên làm Nhiếp tướng sự nghĩa là cho ngài quyền nhiếp chính. “Được ba tháng thì chính trị rất hoàn toàn; trật tự phân minh, con trai thì chuộng trung tín, con gái thì chuộng trinh thuận. Trong nước thành ra có cái cảnh tượng rất thịnh trị”[40].
Sử chép như vậy không biết thực hư thế nào, nhưng cũng đủ tố cáo cái quan niệm về lịch sử của nhà sử học Trung Hoa: tin ở sức biến cải vạn năng của bậc hiền triết.
Mặc Tử cũng cùng một sức tự tin như Khổng Tử. Ông cũng nói một cách quả quyết và thành thực: “Địch muốn mặc giáp bền, cầm mũi nhọn, để cứu cái lo cho nước hầu, giỏi ra mới bằng sức chiến đấu của một người lính, không thể chống nổi ba quân... Địch cho rằng không bằng học đạo tiên vương... mà tìm thấy thuyết, thông nhời nói của thánh nhân mà xét lấy lời; trên thì bảo các đấng vương công đại nhân rồi đến những kẻ sất phu đi đất.
Các đấng vương công dùng lời nói của ta, nước nhà ắt thịnh trị; những kẻ sất phu đi đất dùng lời nói của ta, nết na ắt tu tỉnh...” (Thiên Lỗ vấn)[41].
Về sau, ở những xã hội quân chủ của các quốc gia, triết lí và vũ bị đồng thời được dùng làm lợi khí thống trị thì hình ảnh người anh hùng lại biến thành hình ảnh vị cứu quốc (Jeanne d’arc, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi). Thẳng hoặc có đôi ba người nhân tình trạng đau khổ bất công của xã hội, xướng ra những chủ nghĩa tôn giáo có tính cách phổ biến, thích hợp cho khắp nhân loại thì hình ảnh người anh hùng lại núp trong hình ảnh thánh nhân (le saint): Thích Ca, Jésus, Mahomet...
Đến cận đại, hình ảnh người “anh hùng” có xu hướng biến ra nhà bác học người phát minh ra được một điều gì giúp ích tư tưởng và đời sống của nhân loại (Pasteur, Einstein...).
Bậc võ sĩ, bậc hiền triết, bậc thánh nhân, bậc cứu quốc, bậc bác học... đó là những hình ảnh mẫu mà loài người gọi là “anh hùng” tùy trình độ sinh hoạt và tư tưởng của từng thời đại lịch sử. Danh từ anh hùng đã mất dần nguyên nghĩa của nó. Hiện giờ người ta đã dùng danh từ vĩ nhân (grand home) để thế chân nó. Tuy vậy, danh từ có đổi mà lòng sùng bái vẫn là một. Và tin tưởng anh hùng tạo thời thế vẫn còn luẩn quẩn trong đầu óc nhiều người.
Carlyle chỉ là nhà sử học có công, có can đảm đem tín ngưỡng cũ và thông thường ấy đặt thành một triết lí về lịch sử.
Ngày nay, thuyết Carlyle không còn đứng vững được nữa. Khoa sử học và khoa xã hội học hiện đại không thể công nhận được lối giải thích lịch sử giản lược như vậy.
Ngày nay ai nấy đều hiểu rằng một cá nhân, dù là bậc anh hùng xuất chúng, cũng chỉ là một trong những yếu tố làm ra lịch sử một điều kiện cần thiết nhưng chưa đầy đủ của sự tiến hóa xã hội.
Không gặp hoàn cảnh thuận tiện, không có sức ủng hộ của dân chúng, không có nhu cầu biến đổi của một đoàn thể sẵn sàng chiến đấu để sinh tồn thì cá nhân tài giỏi đến đâu cũng đành thúc thủ, hoặc thất bại. Sáng suốt và kiên gan đến như Khổng Tử mà còn bị đuổi từ nước này sang nước khác trong mấy chục năm trời. Biện thuyết linh hoạt, tâm huyết chan chứa như Mặc Tử mà cũng đến “mòn trán lỏng gót” hết Lỗ sang Tề, hết Tống sang Sở, tới đâu đề xướng kiêm ái cũng bị công kích và xua đuổi. Thánh nhân đến như Jésus mà cũng bị kẻ đương thời đóng đinh câu rút. Hăng hái và kiên nghị đến như Thích Ca mà đạo Phật cũng bị phái Bà-la-môn đánh cho phiêu bạt ra ngoại quốc. Không phải những bậc thánh hiền ấy tài trí thua kém kẻ đương thời, hoặc thiếu nghị lực để thắng thế. Trái lại, đó là những tấm gương chiến đấu chói lọi trong lịch sử loài người. Chẳng qua chỉ bởi cái trạng thái xã hội đương thời với các bậc ấy chưa đủ điều kiện độ chín để cho lí thuyết của họ đâm bông nảy trái, nên dù họ có minh triết đến đâu, tận tâm đến mực nào cũng uổng công phí sức. Bao nhiêu lí thuyết rất đẹp của họ đã phải cùng với thời gian, cùng với từng trình độ xã hội mà thay hình đổi dạng cho thích hợp. Khổng giáo, Mặc giáo, Gia-tô giáo, Phật giáo... lí thuyết nào cũng đã mất dần tính cách nguyên thủy của nó, đến nay thì hầu như đã biến thành ngụy thuyết.
Mới biết thiên tài cá nhân chưa đủ. Lí tưởng tốt đẹp chưa đủ. Phải cần có miếng đất xã hội thích hợp nữa.
Sự thành bại của các bậc anh hùng võ sĩ cũng phải tuân theo những điều kiện căn bản ấy. Ta thường tin rằng nếu không có một Napoléon, một Gengis Khan, một Attila, một Alexandre... thì lịch sử sẽ đi theo một con đường khác hẳn như nó đã đi. Tin thế là nhầm. Nói riêng về Napoléon, ta phải tin trái lại rằng nếu ông không sinh nhầm thời kì mạt diệp của cuộc cách mạng 1789 mà lại sinh vào một thời đại quân chủ thịnh trị thái bình thì tất nhiên ông sẽ chỉ thành một viên tướng xuất sắc trong binh đội, dùng tài năng và đời sống của mình vào những việc tầm thường thuộc về nghề nghiệp. May mắn cho ông được gặp một thời cuộc rối ren, nó cho phép tài năng ông có đất mà thi thố đến tận độ, nên ông đã trở nên một tay kiệt hiệt phi thường. Tuy vậy, ta cũng đừng tưởng rằng những việc làm sáo loạn Âu châu gây cuộc đảo chính để lên ngôi hoàng đế toàn thị là nhờ cái thiên tài vạn năng của Napoléon đâu.
“... Không phải Napoléon là người đã tạo ra những cuộc chiến tranh và những biến cố xảy ra từ 1797 đến 1815 (ở Âu châu và ở nước Pháp). Cũng như các người đương thời, mà cũng vì thế nên họ mới theo ông, ông bị chi phối trong cuộc hành động bởi những điều kiện vật chất do sự tàn tạ của chế độ quân chủ đến ngày cáo chung gây nên, và ông cũng chỉ biến cải được thời cuộc tuỳ những điều kiện kia cho phép... Có thể rằng nếu không có Napoléon thì các nơi như Aboukir, Saint Jean d’Arc, Bérésina không đến nỗi thành những bãi chiến của quân lính. Nhưng có điều chắc chắn rằng không có ông thì những kết quả của chiến tranh và của tình trạng kinh tế thời ấy, như sự quay về chế độ quân chủ, sự tan rã của tư tưởng, cách mạng, sự nghèo đói của các dân tộc, sự tàn sát sinh linh, cũng đến xảy ra như vậy, không thể nào khác được”[42].
Napoléon chỉ là người có tài dùng hoàn cảnh, dùng thời thế để phát triển những năng lực cá nhân của mình, trên một sân khấu mông mênh. Thế thôi! Còn tấn trò lịch sử diễn ra trong thời gian 1797 - 1815 thì từ cội nguồn đến kết cấu đã do trình độ kinh tế và tình trạng xã hội hồi đó quyết định trước cả rồi.
Khoa xã hội học hiện đại đã dần tìm ra được phép tắc và then máy thần diệu của hiện tượng “kinh tế quyết định” ấy. Người đầu tiên xướng ra một sử quan căn cứ vào hiện tượng này là nhà xã hội học kiêm kinh tế học Đức Karl Marx (1818 - 1883). Với kinh tế sử quan, sự nghiên cứu động lực tiến hóa của xã hội bước hẳn sang một giai đoạn mới: giai đoạn khoa học.
CHƯƠNG XI
ĐỘNG LỰC CỦA TIẾN HÓA (Tiếp theo và hết)
4)Thuyết “Kinh tế quyết định”[43]. Ba thuyết trên kia (Thiên mệnh, Sức mạnh tinh thần, Thời thế tạo anh hùng) đều không cắt nghĩa nổi sự tiến hóa thường trực và vô cùng phiền phức của loài người. Những nhà học giả chủ trương các thuyết ấy đều phạm chung một lỗi lớn, là bỏ sót mất một điều kiện căn bản của sự tiến hóa xã hội: hoàn cảnh. Con người sống, chiến đấu, tiến bộ, tồn tại được là nhờ có hoàn cảnh vật chất (thiên nhiên) và hoàn cảnh xã hội. Không có hai hoàn cảnh này thì sự sinh hoạt của con người bị tiêu hủy tức thời. Xét đến sự tiến hóa của nhân loại mà không tính đến hai hoàn cảnh ấy, có khác nào giải quyết một bài toán mà quên mất những số cho trọng yếu. Vì lẽ đó mà các nhà học giả kia bị thất bại trong công việc giải thích lịch sử loài người.
Để bổ lấp cái khuyết điểm ấy, một số học giả khác đứng ra lập thuyết, thể theo sự ảnh hưởng quan hệ của hoàn cảnh đối với cuộc sống của con người. Số học giả này chia ra làm ba phái với ba thuyết khác nhau:
1- Phái địa lí.
2- Phái xã hội vạn năng.
3- Phái kinh tế quyết định.
1. Phái địa lí. Phái này có tham vọng giải thích sự sinh hoạt và sự tiến hóa của loài người bằng ảnh hưởng của cảnh thổ (hoàn cảnh địa dư). Nhà triết học Pháp Victor Cousin và nhà địa dư học Đức Ratzel có thể coi như đại biểu táo bạo nhất của phái ấy. Victor Cousin (1792 - 1867) có nói một câu tóm tắt được tất cả ý kiến của phái địa lí: “Cứ cho tôi biết những thổ sản, những cỏ cây, súc vật của một xứ, tôi có thể tiên đoán được con người ở xứ đó phải có những tính khí gì, những năng khiếu gì. Tôi lại còn biết trước cả vai trò của người xứ ấy trong lịch sử, không phải vai trò ngẫu nhiên mà là vai trò tất nhiên, không phải vai trò trong một thời mà là vai trò trong tất cả mọi thời đại”[44].
Ratzel trong sách Địa dư nhân sinh học cũng chủ trương rằng: “Cảnh thổ là gốc tích những tính khí và nguyện vọng phiền phức của con người. Cảnh thổ định đoạn vận mệnh các dân tộc một cách khắc nghiệt mù quáng”[45].
Hai câu nói quả quyết ấy đủ tỏ rằng phái địa lí tin ở ảnh hưởng của cảnh thổ đến nhân sinh một cách say mê là ngần nào. Nhưng lòng tin ấy không thể đứng vững được trước sự kiểm soát khoa học. Chỉ một vài nhận xét thông thường là đủ lật đổ nó ngay. Các nhà địa dư nhân sinh học theo Vidal de la Blache (phản đối Ratzel) thường lấy xứ Anh Cát Lợi ra làm chứng cứ để phá hủy cái quan niệm “cảnh thổ vạn năng” của phái địa lí. Họ xét ra xứ Anh đã ba lần thay đổi hình thái trong lịch sử. Đời Trung cổ, xứ Anh là một xứ nông nghiệp thuần túy. Không có đời sống chài lưới: dân gian không chú ý đến sự đánh cá ở ven biển, chỉ lưu tâm đến sự chăn nuôi gia súc. Tới triều đại Tudors (1558 - 1603) cảnh tượng xứ Anh biến đổi hẳn đi. Nhất là dưới triều đại hoàng hậu Elizabeth. Hoàng hậu là một nhà chính trị sáng suốt hiểu rõ điều kiện sống còn của xứ sở là ở trên mặt biển, nên nhiệt liệt thực hành sự khuếch trương nghề hàng hải. Những nhà hàng hải can đảm Đrake, Chancellor, Willoughby, Hawkins, Baffin... hăng hái dự mật thiết vào cuộc khám phá trái đất bằng đường biển. Nhờ chính trị thông minh và khôn ngoan của các nhà cầm quyền, xứ Anh trong hai thế kỉ XVI, XVII, trở nên một nước rất cường thịnh trên mặt biển và đứng đầu châu Âu về thương nghiệp. Đến năm 1789, kĩ nghệ dệt bông ở Mancherter bắt đầu dùng máy hơi nước (machine à vapeur). Xứ Anh bắt đầu bước vào thời kì đại công nghệ. Nhà máy mọc lên như nấm. Thương nghiệp cũng theo đó mà phát đạt, bắt buộc Anh phải xông vào con đường thực dân để kiếm nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa chế tạo ra. Từ thế kỉ XVIII đến nay, Anh ngày càng bành trướng phạm vi đế quốc, càng tăng gia thế lực công nghệ, thương mại và hàng hải.
Cũng vẫn đất đai ấy, cảnh thổ ấy,... tại sao xứ Anh ở thời Trung cổ lại là một xứ nông nghiệp, đến thế kỉ XVI, XVII lại biến thành một xứ hàng hải và thương nghiệp, và từ thế kỉ XVIII đến nay lại chuyển ra một xứ đại công nghiệp, theo chính sách đế quốc? Phái địa lí theo Ratzel, Cousin giải thích cách nào sự biến đổi ấy? Đứng trước hiện tượng này, “sự tiến đoán” của Cousin và “sự quyết định khắc nghiệt mù quáng” của Ratzel mất hết giá trị. Thuyết địa lí bị phá sản.
Nhà địa dư nhân sinh học Pháp, Vidal de la Blache, cũng nhận thấy chỗ hỏng ấy của phái Ratzel, nên đã lập ra một thuyết khác, khiêm tốn hơn, hợp lí hơn. Vidal de la Blache (1848-1918), tác giả cuốn Những nguyên lí của khoa học địa dư nhân sinh học (Principes de gesographie humaine) đã viết: “Phải khởi thủy từ cái ý tưởng rằng mỗi xứ là một kho tàng trữ nhiều năng lực thiên nhiên ở trạng thái tiềm phục và mầm mống. Còn sự dùng các năng lực ấy thì hoàn toàn tùy thuộc vào sức hành động của con người”. Câu này, học phái Vidal de la Blache đã nhận làm nguyên tắc thiết cốt cho sự nghiên cứu của họ về địa dư nhân sinh.
Cũng căn cứ vào nguyên tắc ấy, trường xã hội học Pháp (Ecole sociologique francaise) do Durkheim sáng lập và các ông Simiand, Halbwachs, Mauss nối chí đã đi tới một kết luận rất cực đoan: họ lập ra thuyết xã hội vạn năng để giải thích sự sinh hóa của loài người.
2.Phái xã hội vạn năng. Durkheim công kích chủ trương của phái Ratzel, cho rằng phái này đã dụng ý khuếch xung thái quá (hypertrophier) sự quan hệ của “yếu tố địa dư” mà “quên rằng còn nhiều yếu tố khác cũng dự phần vào sự cấu tạo ra các hiện tượng nhân sinh”. Yếu tố khác đó, Vidal de la Blache cho là nhân lực, Durkheim cho là xã hội lực. Theo thuyết Durkheim thì xã hội không phải là tổng số các năng lực cá nhân rời rạc. Nó là một hóa phẩm, nghĩa là một thực thể có tính chất khác hẳn cá nhân. Tuy nó chỉ là kết quả của sự tác động tương hỗ giữa những cá nhân sống đoàn tụ với nhau, nhưng một khi nó đã thành hình thì nó biến ra thành một vật thể tự lập, một sức mạnh tự lập, đứng trên các cá nhân, chi phối các cá nhân, bắt buộc các cá nhân phải tòng phục[46]. Cái sức mạnh huyền diệu ấy là xã hội lực. Sức mạnh này khuôn đúc cá nhân, bằng những cơ quan xã hội biểu tượng nó: chế độ chính trị, luân lí, phong tục, triết lí. Nó là nguồn động lực của tiến hóa. Nó là một sức vạn năng; cá nhân không thể nào tác động đến nó hoặc phản động lại nó được. Nó khai trừ sáng kiến cá nhân.
Thuyết xã hội vạn năng của học phái Durkheim đưa đến một kết luận bi quan phản khoa học. Các nhà khoa học ngày nay đã phải công nhận năng lực cá nhân là một trong những động lực căn bản của sự tiến hóa. Ông Félix Sartiaux, trong thiên sách Văn minh luận đã nhận xét rất đúng: “Hoàn cảnh xã hội, nói rộng ra là các chế độ nhân trị, tự chúng chỉ có một năng lực bảo thủ, xác định, chúng chỉ là một nọa lực (force d’inerlie). Tự chúng không có khả năng biến cải, không có sinh lực: đó là những thực thể quệ liệt, tĩnh. Sự hoạt động, sự canh cải là những đức tính của cá nhân... Gán cho hoàn cảnh xã hội, cho các chế độ nhân trị, cho những luật lệ đạo đức – là những yếu tố của sự lưu truyền tồn tại – cái năng lực canh tân là cái tác dụng toàn thuộc về cá nhân, tức là tự bịt mắt mình không cho hiểu gì về cuộc sống xã hội, về sự sinh trưởng của văn minh nhân loại cả” (Evolution humaine, Tome 2, Quillet).
Phản đối thuyết xã hội vạn năng của Durkheim, nhà văn Jean Pain, trong thiên sách Le sens inventif et les inventions đã dùng đến những luận chứng rất đanh thép, rất khoa học. Ông viết:
“ Lí thuyết ấy (của Durkheim) đặt bản năng vào địa vị chủ động trong cuộc hoạt động xã hội, có hợp với óc khoa học hiện đại không? Ở một thời đại mà các nhà bác học đã có thể cách mệnh hẳn mặt địa cầu chỉ bởi đã hiểu rõ những định luật chi phối vật giới, sao lại có người dám chủ trương rằng cá nhân không thể cải tạo được những điều kiện sinh tồn của các chế độ này? Chủ trương như vậy thì tức là coi như một định lí (axiome) cái tin tưởng rằng những định luật trong xã hội giới khác hẳn bản chất những định luật trong vật giới. Nghĩa là phải cho rằng chỉ có thế giới vật chất là bị những định luật gang thép chi phối theo một trật tự điều hòa hơn nên các nhà bác học mới căn cứ vào những định luật ấy mà chế ngự được các sức mạnh thiên nhiên còn xã hội giới thì chỉ là một thế giới hư huyền bị sự vô luân lí thống trị.
Xét cho kỹ thì phái Durkheim đâu có tin như vậy. Trái lại, chính cái chủ trương trước nhất rằng xã hội là một sự kiện thiên nhiên, một vật (une chose) giống như các vật cụ thể trong giới vật chất. Đã tin thế, sao lại không tin được rằng cá nhân có thể biến cải xã hội được, cũng như nhà kĩ sư không bằng lòng cảnh tượng hiện tại của hoàn cầu, luôn luôn biến đổi nó cho thích hợp với những nhu cầu của loài người?” (Evolution humaine, Quillet).
Cũng như phái Ratzel bỏ sót mất sức can thiệp của con người, phái Durkheim bỏ sót mất năng lực hành động của cá nhân. Một đằng quá thiên về yếu tố địa dư, một đằng quá thiên về yếu tố xã hội, cả hai phái đều không nhìn vấn đề tiến hóa một cách thống quát, một cách động, nên cả hai phái đều lập luận thiên vị.
3.Phái kinh tế quyết định. Một số trí thức gia nghiên cứu kinh tế học và xã hội học, theo quan điểm kinh tế quyết định đã bổ khuyết được những chỗ thiên vị của hai phái trên kia. Nghiên cứu vấn đề tiến hóa xã hội một cách khoa học, các nhà trí thức ấy đã khám phá ra được nhiều định luật, nhiều nguyên tắc làm chấn động cả thế giới bác học. Họ lập thuyết theo chủ nghĩa duy vật biện chứng. Họ cho rằng nguyên động lực của sự tiến hóa là nền tảng kinh tế. Nền tảng này gồm có những lực lượng sinh sản, và những tương quan sinh sản. Lực lượng sinh sản (forces productives) đẻ ra những tương quan sinh sản (rapports de production) phù hợp với nó. Những tương quan sinh sản này hợp thành cái kiến trúc kinh tế (structure économique) của xã hội. Trên cái kiến trúc kinh tế ấy mọc ra những chế độ chính trị và xã hội thích ứng với nó. Tâm lí con người, phần thì bị nhào nặn theo sức khuôn đúc trực tiếp của nền kiến trúc kinh tế, phần thì bị chi phối bởi chế độ chính trị và xã hội dựng trên đó, phản chiếu vào ý tưởng giới của đoàn thể, tạo ra những thống hệ trí thức đồng màu sắc với nó. Tất cả hòa hợp với nhau làm ra cái ý thức xã hội (conscience sociale) của thời đại.
Khi những lực lượng sinh sản biến thể thì tương quan sinh sản cũng biến thể theo. Những tương quan sinh sản này mà chưa chịu biến thể theo thì những lực lượng sinh sản kia xung đột ngay với chúng. Sự xung đột ấy, phản chiếu lên phần ý thức của xã hội, đẻ ra những ý tưởng hệ cấp tiến, phá hoại – những xu hướng biến cải. Rút cục, những tương quan sinh sản kia. chiếu tỏa sáng địa hạt pháp luật thì đó là những tương quan tào sản (rapports de propriété), phải biến hóa theo cho phù hợp với sự đòi hỏi của những lực lượng sinh sản mới. Và tức thời, bao nhiêu chế độ chính trị, pháp luật cùng bao nhiêu tín ngưỡng, triết lí, văn nghệ đều biến đổi cho thích ứng với những điều kiện kinh tế mới đó. Tâm lí con người trong xã hội cũng do đó mà biến đổi hẳn đi.
Có người chê rằng thuyết kinh tế quyết định là một thuyết định mệnh (fatalisme) thủ tiêu sức can thiệp của con người. Chê như vậy là tỏ ra không hiểu gì về thuyết ấy hết. Nếu con người bị trạng thái kinh tế và xã hội chi phối thì trái lại, trạng thái này cũng bị sức hành động của con người ảnh hưởng đến lịch trình tiến hóa của xã hội, con người phải hiểu rõ những phép tắc tiến hóa như nhà bác học hiểu những định luật trong vật giới. Những phép tắc của sự tiến hóa tuy phức tạp nhưng có thể quy cả vào một nguyên tắc là luật biện chứng (la dialectique).
Theo luật này thì mỗi tình trạng xã hội đều chứa hai sức mâu thuẫn nhau do hai hạng người quyền lợi mâu thuẫn nhau đại diện. Sự mâu thuẫn ấy thể nào cũng được giải quyết: một sức mạnh trong hai sức mạnh mâu thuẫn ấy bị tiêu hủy. Một sức đã bị tiêu hủy thì sức thắng thế được thành hình. Nhưng cái sức thành hình này cũng lại bị tiêu hủy đi, để trạng thái xã hội được thăng bằng. Trạng thái thăng bằng mới này lại chứa hai sức mâu thuẫn khác[47]. Và cái then máy biện chứng lại diễn ra theo quá trình vừa giảng ở trên... Cứ thế, xã hội phải tiến hóa mãi mãi không ngừng.
Nếu ta biết phân tích trạng thái xã hội ra thành mâu thuẫn; nếu ta biết trong hai mâu thuẫn ấy, cái nào cần phải phá để đạt tới một tân thể tổng hợp thì ta có thể dùng tay vào công việc phụng sự lẽ tiến hóa của xã hội một cách rất thiết thực. Như vậy tức là ta đã thể theo luật biện chứng để hành động, cũng như nhà bác học thể theo phép tắc thiên nhiên để chế ngự vật chất. Và như vậy, thể nào ta cũng thành công. Nghĩa là ta đã rút ngắn cái thời gian của quá trình biện chứng bằng cách hành động theo then máy nội tại của sự biện chứng.
Sức người can hệ là thế. Điều kiện thành lập của sự ảnh hưởng trở lại là thế. Còn điều nữa ta nên nhớ là sức người ở đây gồm cả cá nhân lẫn đám đông, tất cả đều phải hiệp lực mở đường cho quá trình biện chứng. Hành động mà sai luật biện chứng là đi nghịch với sự tiến hóa – là thất bại.
* *
*
Xét kĩ thì chỉ có thuyết kinh tế quyết định này là giải thích được đúng nhất sự tiến hóa của loài người. Bởi nó căn cứ vào chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, là hai yếu tố nền tảng của sự sinh hóa trong thiên nhiên cũng như trong xã hội.
CHƯƠNG XII
THEN MÁY CỦA SỰ TIẾN HÓA
Hiện thời, ai cũng phải công nhận rằng luật tiến hóa là nguyên lí vận chuyển của sự vật, trong thiên nhiên cũng như trong lịch sử loài người. Ai cũng đã quan niệm sự sinh tồn của vạn vật theo lẽ tiến hóa. Ai cũng tin rằng chỉ có thuyết duy vật biện chứng (kinh tế quyết định) là phương pháp khoa học nhất, hiệu lực nhất để giải thích cuộc tiến hóa nhân loại này. Ngày nay các nhà bác học, sử gia, triết học, chính khách, chỉ còn xung đột nhau về một điểm quan trọng này: then máy của sự tiến hóa. Họ chia ra làm hai phái:
1) Phái chủ trương thuyết tiệm tiến.
2) Phái chủ trương thuyết sậu tiến.
Phái theo thuyết tiệm tiến thường lấy câu: “Thiên nhiên không có bước nhảy bao giờ”[48]của Leibniz làm nguyên tắc nền móng, để tranh luận về then máy của sự tiến hóa. Họ cho rằng trong vật giới cũng như trong nhân sinh, cái gì cũng tiến từ từ, chậm chạp, tuần tự, ôn hòa. Không bao giờ một vật lại biến ra thành một vật khác hẳn nó một cách đột ngột được.
Nghiên cứu về sự tiến hóa của các sinh vật, Darwin cũng kết luận rằng sinh vật nọ sở dĩ biến ra được sinh vật loại khác là nhờ có những biến thái nhỏ tích lũy (petites variations accumulatives) trong cơ thể của sinh vật ấy. Những biến thái nhỏ này đã giúp sinh vật thích ứng hoàn cảnh để tồn tại. Sinh vật nào không có những biến thái nhỏ của cơ thể như vậy tất bị đào thải. Dần dần, những biến thái nhỏ kia làm cho sinh vật khác hẳn hình thể gốc thành ra một sinh vật dị loại.
Các ngành khoa học (sinh lí học, thảo mộc học, tâm lí học, vật lí học, xã hội học) hiện đại đã lật nhào thuyết tiệm tiến ấy. Ở các địa hạt sống, khoa học đều chứng nhận có sự vượt bậc nhảy bước.
Về sinh lí ta có thể quan sát được bước nhảy bậc ấy ở sự biến đổi thình lình và triệt để của cơ thể con người trong hai thời kì: dậy thì và lão nhược. Đến tuổi dậy thì cơ thể con người (nhất là con gái) biến đổi khác hẳn. Những nội hạch vụt nở to ra, những cơ quan trong người vụt phát dục mãnh liệt, thần kinh hệ vụt biến thái làm cho con người tiến vượt đến một trạng thái sinh lí và tâm lí mới lạ không giống trạng thái trước ngày dậy thì. Tuổi lão nhược cũng bày ra cảnh đột biến ấy. Con người đang cường tráng bỗng suy sút hẳn đi, ta thường gọi là: già trông thấy. Các khớp xương yếu hẳn đi, thần kinh mệt hẳn, mặt mũi hình vóc hom hem hẳn đi và tính khí cũng biến đổi hẳn đi.
Nhất là ở người đàn bà, hiện tượng lao nhược ấy lại càng xảy ra một cách đột ngột nữa. Khoa sinh lí học gọi đó là thời kì tắt kinh (mesnopause). Trong thời kì này, xuân sắc, hình dung, vóc dáng của người đàn bà tàn tạ rất mau chóng. Tính nết đâm ra cáu kỉnh, hay giận dỗi, dễ bị xúc động.
Từ tuổi thơ ấu bước sang tuổi dậy thì, từ tuổi thành nhân bước sang tuổi lão nhược, cơ thể con người thay đổi một cách nhanh chóng vượt bậc và mãnh liệt. Cho nên ở hai thời kì vượt bậc ấy, con người hay bị ốm nặng, có khi còn chết nữa (ta gọi là ốm vỡ da ở tuổi dậy thì; còn trận ốm lão nhược thì sự kinh nghiệm của dân gian thường gán cho tuổi 49 và tuổi 53; vì thế mới có câu 49 chưa qua 53 đã đến: đó là hai tuổi con người dễ ốm nặng và dễ chết).
Về thảo mộc học, hiện tượng đột biến ấy đã được chứng nghiệm rõ rệt. Người có công lập ra thuyết đột biến là nhà thảo mộc học Hà Lan Hugo de Vries. Ông này lấy giống đãi tiêu thảo (oenothere) để thí nghiệm. Ông theo dõi sự biến hóa của giống cỏ này trong vòng 14 năm trời. Cùng thứ cỏ ấy đem trồng mà 14 năm ông nhận thấy nó sinh ra được 54.500 thứ cỏ khác nhau. Trong số cỏ này có được 15 thứ khác hẳn thứ cỏ gốc và cũng khác hẳn nhau. 15 thứ đó lại sinh ra những giống cỏ khác không giống cỏ gốc một li nào. Chúng đã biến thành những vật thể mới hẳn. Ông liền đem những điều nhận xét của ông viết thành sách Thuyết đột biến (Théorie des mutations), xuất bản năm 1903. Sách của ông được khoa học giới chú ý đặc biệt và tán dương nhiệt liệt. Thuyết đột biến được hai ông Blaringhem và Cuenot ở Pháp, ông Th. H. Morgan ở Mĩ tiếp tục nghiên cứu rất kĩ lưỡng, Ngày nay thì thuyết ấy đã thành một chân lí khoa học.
Về tâm lí học, thuyết đột biến ứng nghiệm rõ nhất ở hiện tượng di truyền. Nhân muốn áp dụng luật nhân quả chứng nghiệm (déterminisme scientifique) vào việc nghiên cứu của vấn đề di truyền tâm lí, nhà bác học Claude Bernard, trong sách Introduction à la Medecine experimentale đã nêu ra một quan điểm nhận xét mới. Ông đã viết: “Những yếu tố đơn thuần và tự lập khi phối hợp với nhau không phải chỉ giữ có vai trò hợp tác viên giản dị. Sự phối hợp của chúng có thể sáng tạo ra một vật thể mới, có những tính chất khác hẳn với những tính chất của từng đơn tố chứ không chỉ là tổng số
(addition) của những tính chất đơn tố rời rạc ấy. Tôi tin rằng sự khó khăn ta thường gặp khi nghiên cứu những hiện tượng tâm lí đều do hiện tượng phối hợp kia bày ra. Dù những hiện tượng tâm lí có một bản cách cực kì huyền diệu, tôi cũng không thể nào công nhận được rằng chúng không lệ thuộc luật nhân quả chứng nghiệm vì chúng cũng chỉ là những hiện tượng của sinh vật giới”.
Căn cứ vào quan điểm nhận xét đó, các nhà sinh vật học và tâm lí học mới để ý đến sự đột hiện của nhân tính mới trong lịch trình hình thành tựu của luật di truyền. Nếu hai đơn tố vật chất phối hợp với nhau còn sinh ra được một hóa phẩm khác hẳn hai đơn tố cấu tạo ra nó thì một khi các yếu tố sinh vật và tâm lí phối hợp với nhau trong sự di truyền, tất nhiên cũng phải nảy ra một hóa phẩm mới lạ, nghĩa là một linh khí mới. Điều đó không lấy gì làm lạ. Hiện tượng hóa hợp này trong vật lí học cũng như trong tâm lí học, đều là biểu chứng của luật tiến hóa vượt bậc cả.
Về xã hội học cũng vậy. Luật tiến hóa vượt bậc (evolution par bonds) đã được các ông Marx, Enghels, Hegel, Plekhanof chứng giải rất sáng suốt và quyết định. Các ông này đã cắt nghĩa luật ấy bằng một điều nhận xét tài tình: các ông đã khám phá ra được luật lượng đổi, chất đổi và ngược lại. Luật này nhà triết học biện chứng Hegel đã diễn ra như sau đây: “Khi muốn quan niệm về sự thành lập hay sự tiêu vong của một vật, người ta thường tưởng tượng rằng sự thành lập hay sự tiêu vong ấy xảy ra từ từ, tuần tự. Nhưng có xét kĩ mới thấy rằng sự biến hóa của một vật không phải chỉ là biến hóa từ lượng (quantité) này sang lượng khác mà chính là sự biến hóa về lượng chuyển sang sự biến hóa về chất (qualité), và ngược lại, sự biến hóa này cắt đứt sự tiệm tiến và làm cho vật chuyển di từ phẩm chất này sang phẩm chất khác. Và mỗi lần sự tiệm tiến bị cắt đứt như vậy thì trong quá trình tiến hóa lại có một bước nhảy nó đem theo một hiện tượng mới thế vào hiện tượng đang có”[49].
Không hiểu hiện tượng vượt bậc này (hiện tượng sậu tiến) thì không sao hiểu được các cuộc biến thiên lớn lao trong lịch sử nhân loại.
* *
*
Thường thường con người tỏ lộ thái độ hành động tùy theo sự quan niệm về then máy tiến hóa của mình. Phái tin ở thuyết tiệm tiến thì chủ trương thay đổi xã hội một cách ôn hòa, thay đổi trong trật tự. Phái tin ở thuyết sậu tiến thì chủ trương thay đổi xã hội một cách mãnh liệt, phá vỡ trật tự đang có, để tạo ra một trật tự mới. Những bài học lịch sử đã đem lữ phải đến cho phái sau này nhiều hơn phái trước.
KẾT LUẬN
Chúng ta đã nói gần hết những cái gì đáng nói về vấn đề tiến hóa. Tuy cuốn sách nhỏ này không có tham vọng bàn cặn kẽ vấn đề to lớn ấy, nhưng nó cũng đã trình bày hầu đủ những tài liệu, những lí thuyết cần thiết cho sự tìm hiểu lẽ tiến hóa trong thiên nhiên và trong lịch sử nhân loại. Bao ý kiến mâu thuẫn, dị đồng của các nhà bác học cổ kim Đông Tây nói đến sự tiến hóa đều được ghi chép, tác giả còn cố gắng xếp đặt các tài liệu và các luận chứng cho sách có một tính cách phê bình ngoài cái tính cách phổ thông của nó.
Chúng ta đã thấy quan niệm tiến hóa thành tựu cách nào chung quanh vấn đề do lai của vũ trụ và loài người. Chúng ta đã được biết: quan niệm ấy đem áp dụng vào giải thích lịch sử nhân loại, đã gặp những trở lực gì (tôn giáo, chính trị, triết học, hoài nghi và bi quan) và sau cùng cũng đã thắng thế ra sao. Chúng ta lại đã theo dõi các phái tư tưởng trái nghịch nhau về vấn đề động lực của sự tiến hóa. Từ thuyết thiên mệnh, qua thuyết sức mạnh tinh thần, thuyết anh hùng tạo thời thế đến thuyết kinh tế quyết định, chúng ta đã kiểm điểm ý kiến phiền tạp của rất nhiều học phái trứ danh trong tư tưởng giới. Đoạn cuối, chúng ta đã xét đến then máy của sự tiến hóa, phân tích đại cương của chủ nghĩa tiệm tiến và chủ nghĩa sậu tiến hiện đang xung đột nhau ở hai địa hạt: Triết học và chính trị.
Bao nhiêu tài liệu sử học, triết học, khoa học, xã hội học mà tác giả đã dẫn ra trong sách này, hoặc để phê phán một học thuyết, hoặc để giải thích một tin tưởng, hoặc để chứng minh một chân lí, đều được lựa chọn cân nhắc kĩ lưỡng, theo một phương pháp khoa học rất khách quan. Những tài liệu ấy tự chúng cũng toát ra một kết luận, tác giả không dám đem ý kiến riêng thêm thắt vào nữa.
Kết luận này là một lòng tin không bờ bến ở năng lực sinh tồn của nhân loại, ở cuộc tiến hóa và ở tương lai của xã hội. Nó là sự chiến thắng chậm chạp nhưng càng ngày càng quyết định và rực rỡ của phương pháp duy vật biện chứng trong công việc nhận thức: hiểu biết, suy nghĩ, phán đoán. Nó là sự lạc quan vô điều kiện trong giai đoạn hiện tại của lịch sử loài người. Nó cũng là sự nhu cầu biến cải hiện trạng xã hội để đi tới một hình thức sống tốt đẹp hơn, hợp lí hơn, nhân đạo hơn.
Những điều kết luận xác đáng ấy, tác giả sẽ luôn luôn gặp gỡ trong những cuốn sách sau của bộ Nhân loại tiến hóa sử này.
Tạp chí Văn mới, tập mới,
số 7 và 8, ra ngày 25-3-1943.
In lại trong Trương Tửu –
Tuyển tập nghiên cứu văn hóa.
NXB Văn học, H., 2013, tr.37-132.
[1]Ký bút danh NGUYỄN BÁCH KHOA. Tác giả xác định thể loại tác phẩm là Biên khảo (NBS chú).
- Nhân loại tiến hóa sử là tên bộ sách gồm ba quyển đã lần lượt được in trên Tạp chí Văn mới trong hai năm 1943-1944: Nhân loại tiến hóa sử, Nguồn gốc văn minh, Văn minh sử yếu lược, thậm chí sẽ mở rộng đến 32 quyển “sẽ xuất bản lần lần”. Theo dự định ban đầu của tác giả, Quyển I có tên Tiến hóa luận và giới thiệu Quyển II với nhan đề Các nền văn minh.Trên thực tế, nhan đề các quyển đều có thay đổi và thời gian in cũng khác so với dự định (NBS chú theo Tạp chí Văn mới, tập mới,số 7 và 8, ra ngày 25-3-1943).
- Dưới nhan đề Nhân loại tiến hóa sử, tác giả ghi rõ: Quyển I: Tiến hóa luận (NBS chú).
[2] Về công việc này đã có bộ Lịch sử thế giới của Nguyễn Đức Quỳnh giải thích kĩ lưỡng hơn (cùng ra với bộ Nhân loại tiến hóa sử).
[3]Chúng tôi lược phần Mục lục, tr.7-8 (NBS chú).
[4]Nhà Alcan xuất bản năm 1922 (Paris).
[5]Renne là một giống nai nhà, sống trên vùng Bắc Cực.
[6]Trong cuốn Les Fonetions menlales dais les sociétés inférieuress, nhà xã hội học Levy Brotri có thuật lại, theo lời nhà nhân loại học Catli một nghi lễ ma thuật của giống Da đen ở Bắc Mỹ: khiếu vũ bỏ rừng (la danse du bison) mà giống người ấy thi hành trước khi đi săn bò rừng. Họ khiêu vũ, theo lời Catlin, là “cốt để làm cho bò rừng phải tìm đến. Hoặc năm hoặc mười lần người dự cuộc khiêu vũ, mỗi người đội trên đầu cái da đầu bò rừng (hoặc cái mặt nạ giống đầu bò rừng), với cả sừng của nó. Mỗi người cầm ở tay hoặc một cái cung tên, hoặc cái lao (cái khí cụ mà thường nhật hẳn cùng để săn bắn). Họ cứ khiêu vũ như thế mãi cho đến bao giờ bò rừng đến mới thôi, có khi khiêu vũ đến tới 2, 3 tuần lễ không lúc nào nghỉ… Khi một người nào mệt thì ra hiệu đoàn thể biết bằng cách lảo đảo người về phía trước và giả vờ sắp ngã gục xuống; tức thì một người khác trong bọn giương cung bắn người nọ bằng một cây tên đã cùn. Người bị bắn trúng cũng ngã sỉu xuống như con bò rừng vậy. Những người ngồi xem vội vào chộp lấy hắn, nắm gót chân hắn lôi ra, giơ dao lên mình hắn giả vờ như làm những điều giống y lột da và chặt hắn ra thành từng mảnh. Xong họ để cho hắn đi. Một người khác lại thay chân hắn vào nhập bọn khiêu vũ … Cứ như thế cho đến khi bò rừng thực hiện ra mới thôi”.
Người thái cổ họ tin rằng làm như thế tức là giết được bò rừng thật, nghĩa là cuộc săn của họ sẽ có kết quả mỹ mãn. Đó là một biểu thị theo lối hiểu biết theo luật “tham dự” và theo cách “ma thuật” vậy.
[7]Những truyện này rút trong sách của nhà nhân loại học Anh G.A. Dorsey, dẫn trong thiên “Tôn giáo” của giáo sư Lahy Hollebecque in trong bộ Evolution humaine Quillet (1934).
[8]Muốn hiểu tường tận triết học Hy La và Trung Hoa, xin đón coi Văn minh khảo luận, sẽ ra tiếp với quyển này.
[9]Đây tức là giống Nhật nhĩ Man (Germains) vì bị giống Hung Nô ở Mông Cổ tràn tới mà phải chạy sang xâm chiếm đế quốc La Mã.
[10]Các nhà thiên văn học hiện tại đã khám phá ra rằng những tinh văn ấy toàn là chất Hydrogène và một ít chất Hélium.
[11]Théorie des Cataelysmes.
[12],2 Muốn hiểu rõ hơn về sự tiến hóa của trái đất, xin đón coi cuốn Gốc tích loài người của Nguyễn Đức Quỳnh, sắp xuất bản.
[13]Buffon (1907-1788) viết 2 cuốn: Histoire naturelle và Epoquesn de la nature, tin có sự tiến hóa trong vật giới Epoquesn de la nature, ông đã phác họa ra bằng trực giác những cuộc biến hóa tiếp tục của trái đất, sự sinh hoạt gay go của loài người thái cổ. Có nhiều điều tưởng tượng của ông phù hợp với những khám phá sau này của các khoa địa chất học và cổ sinh vật học.
[14]Quillet xuất bản - 1934.
[15]Lão Bành là quan đại phu giỏi đời nhà Thương, hay thuật lại những việc đời xưa mà không làm ra cái gì mới lạ.
[16]Nho giáo, Trần Trọng Kim.
[17]Chép trong Sử ký của Tư Mã Thiên, Trần Trọng Kim dịch (Nho giáo).
[19]Thấy dẫn trong thiên sách L’Esprit humain en fonction de l’avenir của giáo sư Lahy Holle beque, trong bộ bách khoa Evolution humaine - Quillet, 1934 .
[20]Ngô Tất Tố và Nguyễn Đức Tịnh dịch, Lão Tử, trang 91, 111 - Mai Lĩnh xuất bản.
[21]J.M. Lahy dẫn trong thiên Le Travail et les Techniques - Bộ Evolution humaine -Quillet,1934. Emili Hovelaque dẫn trong sách La Chine, trang 273, Flammarion xuất bản, 1923.
[22]Romain Rolland: MahatmaGandhi. Stock, 1924.
[23]Hovelaque dẫn trong sách La Chine, trang 276–277, Flammarion xuất bản (1923).
[24]Félix Sartiaux, Les Civilisations (Evolution humaine, Tome, Page 5), Quillet, 1934.
[25]Tiếng nói là biểu hiện của tư tưởng. Và trình độ tư tưởng của một người thường được biểu lộ ra ở trình độ ngôn ngữ của người ấy.
[26]Lược đồ: hình tượng sơ lược, giản dị tột bậc, chỉ dùng vào việc chứng giải. Nó không biểu tượng cái hình dáng thực của các sự vật mà chỉ biểu thị có mốitương quan và sự vận chuyển của các vật ấy.
[27]Trong sách của Bossuet chép từ ngày Sáng thế đến thời đại Hoàng đế Chanrlemagne.
[28]Nho giáo – Trần Trọng Kim.
[29]Trần Trọng Kim, Nho giáo.
[30]Trần Trọng Kim, Nho giáo.
[31]Cả đoạn văn luận về Trời này, tác giả khảo dịch ở thiên Affranchissement de le pensée của nhà bác học Marcel Boll, trong bộ Evolution humaine,Tome IV, trang 10-102.
[32]Nguyên văn ghi số thứ tự đề mục là 1. Nay sửa lại căn cứ theo cách phân loại động lực của tiến hóa ở Chương IX (NBS chú).
[33]Sự hiệp đồng tác dụng là sự chung sức của nhiều cơ quan để cùng làm một việc, cùng thực hiện một phận vụ. Ở đây, các cơ quan xã hội hiệp lực với cá nhân để mưu cuộc sinh tồn công cộng.
[34]Điều này không có gì là lạ cả. Trong vật giới cũng thường xảy ra hiện tượng hóa hợp như thế. Tỷ dụ như giao phối 2phần khinh khí (H2) vàmột phần dưỡng khí (0) ta sẽ có một chất hóa hợp khác hẳn khinh khí và dưỡng khí: đó là nước (H20). Bao giờ hóa hợp phẩm cũng khác tính chất những đơn đố tạo ra nó .
[35]Đào Duy Anh, Khổng giáo phê bình tiểu luận, trang 41, 42.
[36]Nhưng trước khi lên đoạn đầu đài thì ông rút dao đâm cổ tự tử.
[37]Nguyên văn ghi số thứ tự đề mục là II. Nay sửa lại căn cứ theo cách phân loại động lực của tiến hóa ở Chương IX (NBS chú).
[38]Hector France: La Grande Eneyclopédie. Article: Carlyle.
[39]Trần Trọng Kim: Nho giáo.
[40]Trần Trọng Kim: Nho giáo.
[41]Ngô Tất Tố: Mặc Tử, trang 26.
[42]La Hy- Hollebeque - Evolution humaine, Tome IV, Page 4, Quillet, 1934.
[43]Nguyên văn đề mục này không ghi số thứ tự. Nay sửa lại căn cứ theo cách phân loại động lực của tiến hóa ở Chương IX (NBS chú).
[44]Thấy dẫn trong sách La Terre et Y’Evolution humaine của L. Febvre và L. Bataillon.
[45]Thấy dẫn trong sách La Terre et Y’Evolution humaine của L. Febvre và L. Bataillon.
[46]Đây cũng là một ca của luật “phối hóa”, có thể diễn ra như thế này: “Một hóa hợp phẩm bao giờ cũng có những tính chất khác hẳn tính chất của từng đơn tố tạo ra nó”.
[47]Theo danh từ trong triết học duy vật thì quá trình biện chứng được phô diễn như sau đây: một trạng thái xã hội đang có gọi là quyết thể. Quyết thể chứa mâu thuẫn. Một sức mạnh thắng thế, giải quyết mâu thuẫn tức là hủy thể. Hủy thể làm mất thăng bằng của trạng thái xã hội nên lại bị phá đi, gọi là hủy thể của hủy thể. Sau sự hủy thể thứ hai này trạng thái xã hội lại biến ra một hình thức mới, gọi là tân thể. Tân thể trong quá trình biện chứng tiếp tục, lại là một quyết thể. Quyết thể lại chứa mâu thuẫn... và cứ thế…
[48]La nature ne fail pas de sants.
[49]Người ta thường lấy thí dụ về bó đũa để chứng giải luật này cho dễ hiểu. Một chiếc đũa thì dễ bẻ gãy. Nhưng nhiều chiếc đũa chụm lại (lượng đổi) thì đũa trở nên khó bẻ hơn (chất đổi).
226
2333
2694
224552
130677
114577495