Đọc lại báo cũ, tôi bắt gặp một bài thơ chữ Hán nhan đề Tráng Sĩ Ngâm, được đề cập như một tác phẩm của Nguyễn Thiếp, và được đưa ra phẩm bình như một câu chuyện có ý nghĩa cổ vũ ý chí lập thân của người trai trẻ trong thời loạn.
Tôi không có điều kiện để xem bài thơ này có hay không có trong tuyển thơ La Sơn do Hoàng Xuân Hãn thực hiện. Tôi cũng chưa có căn cứ nào để xác nhận (hay không xác nhận) tính chính đáng của việc gắn bài này với tác gia Nguyễn Thiếp. Bởi vậy, xin đưa ra đây để giới nghiên cứu tìm thêm tài liệu xác minh.
Tờ báo đăng bài bình (có toàn văn chữ Hán và bản dịch thơ) là tờ Gươm Thần, xuất bản tại Hà Nội, số 3, ngày 20.10.1949. Người viết bài bình có bút danh là Lạc Quang, tên bài viết là “Tráng Sĩ Ngâm hay là: Tiếng gọi thanh niên”.
Tác giả Lạc Quang cho rằng, những người trai trẻ có lòng với non sông, gặp thời loạn, không thể chỉ ngồi khóc suông với những thành tích oanh liệt thời đã qua, cũng không nên mù quáng a dua liều lĩnh, mà phải định thần trước cảnh thuyền nan nước ngược để nhận đúng phương hướng cần đi, rồi cùng nhau hành động để đưa con thuyền quốc gia tới bến, đem lại sự an ninh cho nước, sự hòa lạc cho dân. Những văn thơ kết tinh trên hướng ấy, theo tác giả, là thuộc về những tên tuổi như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi… Nối vào văn mạch ấy, tác giả này (Lạc Quang) nêu ra bài Tráng Sĩ Ngâm của La Sơn Phu Tử.
Toàn văn bài thơ như sau:
TRÁNG SĨ NGÂM
壯士吟
宜春壯士生 宜春 Nghi Xuân tráng sĩ sinh Nghi Xuân
青年弓劍 奮從軍 Thanh niên cung kiếm phấn tòng quân
如今貴 享多資爵 Như kim quý hưởng đa tư tước
在 昔 曾 經百戰身 Tại tích tằng kinh bách chiến thân
也是群雄起 鋒 鏑 Dã thị quần hùng khởi phong đích
朝 廷募兵 飛羽檄 Triều đình mộ binh phi vũ hịch
一 辭閨閫力勤 王 Nhất từ khuê khổn lực cần vương
数就 沙場 躬 赴敵 Sác tựu sa trường cung phó địch
間 關 行陣 歴 山 川 Gian quan hàng trận lịch sơn xuyên
臨危履 險征身 前 Lâm nguy lý hiểm chinh thân tiền
揮刀 驰 馬 頻非後 Huy đao trì mã tần phi hậu
奪 槊搴旗 獨得 先 Đoạt sáo kiển kỳ độc đắc tiên
鼓聲催急軍柑 戰 Cổ thanh thôi cấp quân cam chiến
戰罷青原紅色變 Chiến bãi thanh nguyên hồng sắc biến
任 他東 倒 又西橫 Nhiệm tha đông đảo hựu tây hoành
壯士一身臨處免 Tráng sĩ nhất thân lâm xứ miễn
閨中少婦悵停 梭 Khuê trung thiếu phụ trướng đình xoa
念切 征夫 別 日多 Niệm thiết chinh phu biệt nhật đa
寄書 屢勸 歸 來早 Ký thư lũ khuyến quy lai tảo
壯士全然 未 顧他 Tráng sĩ toàn nhiên vị cố tha
到 得功成受上賞 Đáo đắc công thành thụ thượng thưởng
十載光 隂流一晌 Thập tải quang âm lưu nhất hướng
囘家戚里共歡娛 Hồi gia thích lý cộng hoan ngô
下機主婦猶惆悵 Hạ cơ chủ phụ do trù trường
惆悵人生有 幾辰 Trù trường nhân sinh hữu kỷ thìn
云何少 樂 却多 悲 Vân hà thiểu lạc khước đa bi
莫把女兒常態論 Mạc bả nữ nhi thường thái luận
好骧男子壯懷推 Hảo tương nam tử tráng hoài suy
推來一生些 辰 節 Suy lai nhất sinh tá thời tiết
幾度韶光幾霜雪 Kỷ độ thiều quang kỷ sương tuyết
人能不腐者才名 Nhân năng bất hủ giả tài danh
天有無窮之歲 月 Thiên hữu vô cùng chi tuế nguyệt
蠢蠢蚩 蚩 曷足評 Xuẩn xuẩn si si hạt túc bình
丈夫 何可沒 聲名 Trượng phu hà khả một thanh danh
欲 爲 天下奇男子 Dục vi thiên hạ kỳ nam tử
須歷人間 萬里程 Tu lịch nhân gian vạn lý trình
Nhà giáo Trần Nho Thìn (ĐH KHXH-NV Hà Nội) thực hiện giúp bản dịch nghĩa như sau:
Tráng sĩ Nghi Xuân sinh ở huyện Nghi Xuân
Tuổi thanh niên cung kiếm tòng quân
Nay được hưởng nhiều phú quý chức tước
Do từng trải qua trăm trận đánh.
Quần hùng đua nhau loạn cung kiếm
Chính lúc triều đình ban hịch khẩn
Giã vợ con hết sức cần vương
Nhiều bận sa trường xông đánh địch
Gian nan hành quân trải núi sông
Lâm nguy hiểm nghèo thân tiến trước
Vung đao phi ngựa lên hàng đầu
Đoạt giáo cướp cờ riêng tiên phong
Trống giục liên hồi quân hăng đánh
Trận dứt đồng xanh đổi sắc hồng
Mặc bọn chúng đông tây ngang dọc
Tráng sĩ một thân gắng lâm trận.
Người chốn khuê phòng biếng dệt cửi
Nhớ người đi xa đã bao ngày
Gửi thư khuyên chàng trở về sớm
Mà sao tráng sĩ chẳng ngoái đầu.
Đến lúc công thành trên ban thưởng
Mười năm thấm thoắt trôi như bay.
Hồi gia thân thích thảy vui sướng
Dừng thoi chinh phụ vẫn đượm buồn.
− Buồn nỗi kiếp người có mấy lần
Vì sao nhiều khổ ít niềm vui?
− Đừng chê nữ nhi với thói thường
Nam nhi tráng chí đừng so sánh.
Gẫm ra cuộc đời chuyển thời tiết
Mấy độ xuân quang mấy độ tuyết
Chỉ nên bất hủ nhờ tài danh
Giữa trời đất năm tháng vô cùng.
Bọn ngu si chẳng đáng để bàn
Trượng phu sao để mất thanh danh
Muốn làm nam tử trong thiên hạ
Hãy trải nhân gian đường vạn dặm.
Như ta thấy, qua bản dịch nghĩa, bài thơ này kể chuyện một tráng sĩ thành công trong thời loạn. Nếu gắn thơ này với tác gia Nguyễn Thiếp thì thời đại của bài thơ này cũng là thời đại mà Đặng Trần Côn soạn Chinh Phụ Ngâm Khúc.
Khổ thơ đầu (1) là khái quát: tráng sĩ quê huyện Nghi Xuân, hồi trẻ đã tòng quân, chiến đấu hàng trăm trận, được ban thưởng và trở nên phú quý.
Ba khổ thơ tiếp theo (2-3-4) kể lướt lại không khí thời loạn và hành động của tráng sĩ này: mặc ai thế này thế khác, chàng quyết tòng quân, ra trận quyết xông lên hàng đầu đánh địch.
Khổ thơ thứ 5 nói đến người vợ tráng sĩ nhớ chồng, nhắn gửi lời thăm, nhưng chàng ở ngoài trận tiền không phút nào nhớ vợ nhớ nhà.
4 khổ thơ cuối bài (6-7-8-9): sau những năm chiến trận, chàng lập được nhiều công tích, được ban thưởng, trở về mới thấy thời gian đã 10 năm trôi qua. Vợ ra đón, hỏi chồng: sao kiếp người ít vui nhiều buồn? Chàng bảo: không thể đem thói thường của nữ nhi ra so sánh với chí khí hùng tráng cuả nam nhi được; trong cuộc đời nhiều biến đổi này, cái sống mãi với thời gian là tài danh; không tài danh không thể gọi là trượng phu được; muốn trở nên một con người khác thường, phải đi qua vạn dặm đường ở cõi người chứ không thể ru rú mãi trong xó nhà.
Ở bài bình thơ trên báo Gươm Thần đã dẫn, tác giả Lạc Quang đưa ra một bản dịch thành thơ lục bát gián thất, xem ra có phần thoát hơi xa so với ý của nguyên bản, cũng xin dẫn lại sau đây.
Bản dịch của Nguyễn Chí Viễn:
Đất Nghi Xuân có chàng tráng sĩ
Đương tuổi xanh phấn chí cung đao
Ngày nay chức trọng quyền cao
Sa trường trước đã xông vào trăm phen
Thuở đó giặc rối ren bốn cõi
Hịch chiêu binh phơi phới như bay
Giã nhà vì nước đi ngay
Quân thù thề quyết ra tay dẹp bình
Qua rừng núi một mình mở lối
Khinh hiểm nghèo lặn lội vượt qua
Múa gươm ruổi ngựa xông pha
Giật cờ cướp giáo riêng ta đi đầu
Quân rầm rộ tiến mau trống giục
Nội cỏ xanh bỗng chốc đỏ ngầu
Đông tây nghiêng ngả lao đao
Mà riêng tráng sĩ cứ vào lại ra
Khách buồng hương xót xa ngừng dệt
Nhớ ai đi, cách biệt ủ ê
Thư hồng giục giã ngày về
Mà sao tráng sĩ mơ gì vẫn quên!
Lúc thành công ơn trên thưởng lộc
Mười năm trôi, phút chốc lanh sao
Về nhà thân thích vui chào
Xuống khung, chinh phụ nghẹn ngào tiếng oanh:
−Chàng chàng hỡi, nhân sinh một kiếp
Sao ít vui, bi thiết lại nhiều?
−Thói thường, nàng hỡi, đâu theo
So gan tráng sĩ khác nhiều, phải suy
Suy cuộc đời biến di thời tiết
Trải bao xuân bao tuyết sương pha
Còn chi sống mãi ở ta?
Chính tài danh sống như là tháng năm
Bọn ngu xuẩn tối tăm chẳng nói
Mất thanh danh, sao gọi trượng phu?
Muốn nên bậc khác thường ru,
Con đường muôn dặm tráng du tung hoành.
Trên đây là dẫn giả về bài thơ vốn được một tờ báo hồi 1949 ở Hà Nội đưa ra và xem là thuộc trứ tác Nguyễn Thiếp.
Xin không lạm bàn về các phương diện ý nghĩa hay giá trị, cũng xin không lạm bàn thơ này hay hay không hay; vì sẽ đi quá khả năng người viết, sẽ làm sa đà và kéo dài bài viết. Chỉ xin lưu ý bạn đọc: những ai có quan tâm có thể tìm giúp những sở cứ để khẳng định đây là (hoặc không là) một sáng tác thơ của Nguyễn Thiếp?
Hà Nội, 10/8/2014