Những góc nhìn Văn hoá

Nguyễn Thiếp có phải là tác giả bài Tráng Sĩ Ngâm

Giới nghiên cứu văn học sử Việt Nam đều biết, Nguyễn Thiếp (14.09.1723-06.02.1804), còn được gọi là La Sơn Phu Tử, quê làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, trấn Nghệ An, là một học giả có tiếng, một cố vấn chính trị-văn hóa của triều đại Tây Sơn. Trong di sản thuộc ngòi bút Nguyễn Thiếp có một phần trứ tác là thơ, đã được một số học giả thế kỷ XX, trước hết là Hoàng Xuân Hãn (1908-96) sưu tầm tập hợp trong sách La Sơn Phu Tử (1952).

Đọc lại báo cũ, tôi bắt gặp một bài thơ chữ Hán nhan đề Tráng Sĩ Ngâm, được đề cập như một tác phẩm của Nguyễn Thiếp, và được đưa ra phẩm bình như một câu chuyện có ý nghĩa cổ vũ ý chí lập thân của người trai trẻ trong thời loạn.  

Tôi không có điều kiện để xem bài thơ này có hay không có trong tuyển thơ La Sơn do Hoàng Xuân Hãn thực hiện. Tôi cũng chưa có căn cứ nào để xác nhận (hay không xác nhận) tính chính đáng của việc gắn bài này với tác gia Nguyễn Thiếp. Bởi vậy, xin đưa ra đây để giới nghiên cứu tìm thêm tài liệu xác minh.

Tờ báo đăng bài bình (có toàn văn chữ Hán và bản dịch thơ) là tờ Gươm Thần, xuất bản tại Hà Nội, số 3, ngày 20.10.1949. Người viết bài bình có bút danh là Lạc Quang, tên bài viết là “Tráng Sĩ Ngâm hay là: Tiếng gọi thanh niên”.  

Tác giả Lạc Quang cho rằng, những người trai trẻ có lòng với non sông, gặp thời loạn, không thể chỉ ngồi khóc suông với những thành tích oanh liệt thời đã qua, cũng không nên mù quáng a dua liều lĩnh, mà phải định thần trước cảnh thuyền nan nước ngược để nhận đúng phương hướng cần đi, rồi cùng nhau hành động để đưa con thuyền quốc gia tới bến, đem lại sự an ninh cho nước, sự hòa lạc cho dân. Những văn thơ kết tinh trên hướng ấy, theo tác giả, là thuộc về những tên tuổi như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi… Nối vào văn mạch ấy, tác giả này (Lạc Quang) nêu ra bài Tráng Sĩ Ngâm của La Sơn Phu Tử.  

Toàn văn bài thơ như sau:

TRÁNG SĨ NGÂM

          Nghi Xuân tráng sĩ sinh Nghi Xuân

         Thanh niên cung kiếm phấn tòng quân

         Như kim quý hưởng đa tư tước

           Tại tích tằng kinh bách chiến thân

 

                               Dã thị quần hùng khởi phong đích

    Triều đình mộ binh phi vũ hịch

           Nhất từ khuê khổn lực cần vương

           Sác tựu sa trường cung phó địch

 

                Gian quan hàng trận lịch sơn xuyên

            Lâm nguy lý hiểm chinh thân tiền

           Huy đao trì mã tần phi hậu

           Đoạt sáo kiển kỳ độc đắc tiên

 

                    Cổ thanh thôi cấp quân cam chiến

          Chiến bãi thanh nguyên hồng sắc biến

   西                   Nhiệm tha đông đảo hựu tây hoành

                  Tráng sĩ nhất thân lâm xứ miễn

 

          Khuê trung thiếu phụ trướng đình xoa

                          Niệm thiết chinh phu biệt nhật đa

                      Ký thư lũ khuyến quy lai tảo

           Tráng sĩ toàn nhiên vị cố tha

 

                   Đáo đắc công thành thụ thượng thưởng

                   Thập tải quang âm lưu nhất hướng

                  Hồi gia thích lý cộng hoan ngô

                    Hạ cơ chủ phụ do trù trường

 

                   Trù trường nhân sinh hữu kỷ thìn

             Vân hà thiểu lạc khước đa bi

女兒           Mạc bả nữ nhi thường thái luận

                    Hảo tương nam tử tráng hoài suy

 

                          Suy lai nhất sinh tá thời tiết

                    Kỷ độ thiều quang kỷ sương tuyết

                   Nhân năng bất hủ giả tài danh

            Thiên hữu vô cùng chi tuế nguyệt

 

        Xuẩn xuẩn si si hạt túc bình

丈夫                        Trượng phu hà khả một thanh danh

                    Dục vi thiên hạ kỳ nam tử

                         Tu lịch nhân gian vạn lý trình 

 

Nhà giáo Trần Nho Thìn (ĐH KHXH-NV Hà Nội) thực hiện giúp bản dịch nghĩa như sau:

 

Tráng sĩ Nghi Xuân sinh ở huyện Nghi Xuân

Tuổi thanh niên cung kiếm tòng quân

Nay được hưởng nhiều phú quý chức tước

Do từng trải qua trăm trận đánh.

 

Quần hùng đua nhau loạn cung kiếm

Chính lúc triều đình ban hịch khẩn

Giã vợ con hết sức cần vương

Nhiều bận sa trường xông đánh địch

 

Gian nan hành quân trải núi sông

Lâm nguy hiểm nghèo thân tiến trước

Vung đao phi ngựa lên hàng đầu

Đoạt giáo cướp cờ riêng tiên phong

 

Trống giục liên hồi quân hăng đánh

Trận dứt đồng xanh đổi sắc hồng

Mặc bọn chúng đông tây ngang dọc

Tráng sĩ một thân gắng lâm trận.

 

Người chốn khuê phòng biếng dệt cửi

Nhớ người đi xa đã bao ngày

Gửi thư khuyên chàng trở về sớm

Mà sao tráng sĩ chẳng ngoái đầu.

 

Đến lúc công thành trên ban thưởng

Mười năm thấm thoắt trôi như bay.

Hồi gia thân thích thảy vui sướng

Dừng thoi chinh phụ vẫn đượm buồn.

 

− Buồn nỗi kiếp người có mấy lần

Vì sao nhiều khổ ít niềm vui?

− Đừng chê nữ nhi với thói thường

Nam nhi tráng chí đừng so sánh.

 

Gẫm ra cuộc đời chuyển thời tiết

Mấy độ xuân quang mấy độ tuyết

Chỉ nên bất hủ nhờ tài danh

Giữa trời đất năm tháng vô cùng.

 

Bọn ngu si chẳng đáng để bàn

Trượng phu sao để mất thanh danh

Muốn làm nam tử trong thiên hạ

Hãy trải nhân gian đường vạn dặm. 

 

Như ta thấy, qua bản dịch nghĩa, bài thơ này kể chuyện một tráng sĩ thành công trong thời loạn. Nếu gắn thơ này với tác gia Nguyễn Thiếp thì thời đại của bài thơ này cũng là thời đại mà Đặng Trần Côn soạn Chinh Phụ Ngâm Khúc.

Khổ thơ đầu (1) là khái quát: tráng sĩ quê huyện Nghi Xuân, hồi trẻ đã tòng quân, chiến đấu hàng trăm trận, được ban thưởng và trở nên phú quý.  

Ba khổ thơ tiếp theo (2-3-4) kể lướt lại không khí thời loạn và hành động của tráng sĩ này: mặc ai thế này thế khác, chàng quyết tòng quân, ra trận quyết xông lên hàng đầu đánh địch.

Khổ thơ thứ 5 nói đến người vợ tráng sĩ nhớ chồng, nhắn gửi lời thăm, nhưng chàng ở ngoài trận tiền không phút nào nhớ vợ nhớ nhà.   

4 khổ thơ cuối bài (6-7-8-9): sau những năm chiến trận, chàng lập được nhiều công tích, được ban thưởng, trở về mới thấy thời gian đã 10 năm trôi qua. Vợ ra đón, hỏi chồng: sao kiếp người ít vui nhiều buồn? Chàng bảo: không thể đem thói thường của nữ nhi ra so sánh với chí khí hùng tráng cuả nam nhi được; trong cuộc đời nhiều biến đổi này, cái sống mãi với thời gian là tài danh; không tài danh không thể gọi là trượng phu được; muốn trở nên một con người khác thường, phải đi qua vạn dặm đường ở cõi người chứ không thể ru rú mãi trong xó nhà.

Ở bài bình thơ trên báo Gươm Thần đã dẫn, tác giả Lạc Quang đưa ra một bản dịch thành thơ lục bát gián thất, xem ra có phần thoát hơi xa so với ý của nguyên bản, cũng xin dẫn lại sau đây.     

Bản dịch của Nguyễn Chí Viễn:

Đất Nghi Xuân có chàng tráng sĩ

Đương tuổi xanh phấn chí cung đao

Ngày nay chức trọng quyền cao

Sa trường trước đã xông vào trăm phen

 

Thuở đó giặc rối ren bốn cõi

Hịch chiêu binh phơi phới như bay

Giã nhà vì nước đi ngay

Quân thù thề quyết ra tay dẹp bình

 

Qua rừng núi một mình mở lối

Khinh hiểm nghèo lặn lội vượt qua

Múa gươm ruổi ngựa xông pha

Giật cờ cướp giáo riêng ta đi đầu

 

Quân rầm rộ tiến mau trống giục

Nội cỏ xanh bỗng chốc đỏ ngầu

Đông tây nghiêng ngả lao đao

Mà riêng tráng sĩ cứ vào lại ra

 

Khách buồng hương xót xa ngừng dệt

Nhớ ai đi, cách biệt ủ ê

Thư hồng giục giã ngày về

Mà sao tráng sĩ mơ gì vẫn quên!

 

Lúc thành công ơn trên thưởng lộc

Mười năm trôi, phút chốc lanh sao

Về nhà thân thích vui chào

Xuống khung, chinh phụ nghẹn ngào tiếng oanh:

 

Chàng chàng hỡi, nhân sinh một kiếp

Sao ít vui, bi thiết lại nhiều?

Thói thường, nàng hỡi, đâu theo

So gan tráng sĩ khác nhiều, phải suy

 

Suy cuộc đời biến di thời tiết

Trải bao xuân bao tuyết sương pha

Còn chi sống mãi ở ta?

Chính tài danh sống như là tháng năm

 

Bọn ngu xuẩn tối tăm chẳng nói

Mất thanh danh, sao gọi trượng phu?

Muốn nên bậc khác thường ru,

Con đường muôn dặm tráng du tung hoành.

Trên đây là dẫn giả về bài thơ vốn được một tờ báo hồi 1949 ở Hà Nội đưa ra và xem là thuộc trứ tác Nguyễn Thiếp.

Xin không lạm bàn về các phương diện ý nghĩa hay giá trị, cũng xin không lạm bàn thơ này hay hay không hay; vì sẽ đi quá khả năng người viết, sẽ làm sa đà và kéo dài bài viết. Chỉ xin lưu ý bạn đọc: những ai có quan tâm có thể tìm giúp những sở cứ để khẳng định đây là (hoặc không là) một sáng tác thơ của Nguyễn Thiếp?

 

Hà Nội, 10/8/2014

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577538

Hôm nay

269

Hôm qua

2333

Tuần này

2737

Tháng này

224595

Tháng qua

130677

Tất cả

114577538