Dư luận quốc tế đã quen coi giải Nobel khoa học là giải thưởng thành tựu nghiên cứu khoa học tự nhiên sáng giá nhất hiện nay.
Dư luận quốc tế đã quen coi giải Nobel khoa học là giải thưởng thành tựu nghiên cứu khoa học tự nhiên sáng giá nhất hiện nay.
Nhiềunăm qua, mỗi khi đến mùa giải Nobel, hầu như toàn bộ giới trí thức và đông đảo người Trung Quốc (TQ) đều khấp khởi hy vọng sẽ có đồng bào của họ trở thành chủ nhân giải thưởng cao quý này. Họ ngày càng sốt ruột và lo lắng bởi lẽ trong khi không ít quốc gia nhỏ bé ít dân giành được hàng chục giải Nobel, thí dụ Ireland 4 triệu dân giành 10 giải, Israel 7 triệu dân – 12 giải, Thụy Điển 9 triệu dân – 30 giải ... thì hơn 1300 triệu dân nước CHND Trung Hoa theo chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản TQ lãnh đạo, chỉ mới giành được 1 giải Nobel Hòa bình, 1 giải Nobel Văn, chưa giành được giải Nobel khoa học nào, – mặc dù ngày nay TQ đã là cường quốc kinh tế số hai, cường quốc khoa học kỹ thuật hàng đầu thế giới. Người TQ thật khó có thể chịu đựng được nỗi xấu hổ này. Thực ra đã có mộtsố người sinh ra ở TQ được trao giải Nobel khoa học, chỉ có điều khi nhận giải, họ đều mang quốc tịch nước ngoài, như Lý Chính Đạo và Cao Côn sinh ở Thượng Hải, Dương Chấn Ninh sinh ở An Huy, Thôi Kỳ sinh ở Hà Nam, v.v...
Nếu trước kia từng có người TQ nói họ chẳng cần giải Nobel, cho rằng Ủy ban xét giải không công bằng, có sự phân biệt ý thức hệ, chỉ ưu tiên phương Tây v.v... thì giờ đây chẳng người Trung Quốc nào không quan tâm đến giải thưởng cao quý này. Năm 2012, khi Mạc Ngôn giành giải Nobel Văn, cả nước TQ vui mừng hỉ hả.
Trước mùa giải Nobel năm nay, dư luận quốc tế đã dự đoán một số nhà khoa học TQ có khả năng trúng giải, như bà Tu Youyou (Đồ U U) do khám phá chất Thanh hao mà được trao giải Y học lâm sàng Lasker 2011 (được coi là chỉ sau giải Nobel Y học, trị giá 250.000 USD). Dự đoán đó đã làm dân TQ vô cùng háo hức chờ đợi ngày công bố giải Nobel 2014. Nhưng thời gian qua đi, rốt cuộc người TQ lại thấy giải Nobel vẫn chưa đến với đất nước chủ nhân nền văn minh 5000 năm này, trong khicó tới 3 người Nhật soán giải Nobel Vật lý. Một nước Nhật đồng văn đồng chủng có số dân chỉ bằng 1/10 Trung Quốc, thời xưa từng tôn nền văn minh người Hán làm thày học, nay đã có 19 người được trao giải Nobel Khoa học, còn TQ chưa có lấy một.
Tại sao vậy ? – Từ lâu giới trí thức TQ đã suy nghĩ và bàn thảo về vấn đề làm họ đau đầu và xấu hổ này. Trong bài « Vì sao Nhật có lắm người đoạt giải Nobel thế ? » mạng Tân Hoa ngày 8/10 viết : Trước kia người TQ không mấy quan tâm đến vấn đề này, vì giải Nobel cách họ còn xa lắm ; họ hâm mộ thành tựu nghiên cứu khoa học của người Nhật, nhưng không ghen ghét, bởi lẽ hồi ấy trình độ kinh tế TQ kém xa Nhật. Giờ đây khi quy mô kinh tế TQ đã vượt Nhật, trở thành số 2 thế giới, người TQ không chỉ hâm mộ mà còn đi sâu tìm hiểu đâu là độnglực khiến Nhật có thểgiành được nhiềugiải Nobel. Họ quan tâm hơn đến giải Nobel vì một lẽ rất đơn giản : chưa bao giờ người TQ thấy mình gần giải Nobel như hiện nay. Sau hơn 30 năm liên tục phát triển kinh tế, TQ ngày nay đã không còn thiếu kinh phí và thiết bị nghiên cứu khoa học để giành giải Nobel.
Vậy đâu là căn nguyên sâu xa khiến công tác nghiên cứu khoa học cơ bản của TQ chưa đạt được trình độ xứng đáng giảnh giải Nobel ? Không ít người TQ ở trong nước và ở nước ngoài đã phát biểu về vấn đề này.
Một nhà khoa học người Mỹ gốc Hoa cho rằng nguyên nhân căn bản là Nho giáo. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với bao thế hệ đã tạo dựng người TQ thành những người bình thường [nguyên vănphàm nhân] chỉ biết tuân theo quy củ. Hai hạt nhân lớn của Nho giáo là quan niệm đẳng cấp xã hội và hiếu thảo trên hết đã làm cho chúng ta chỉ biết phục tùng lãnh đạo, hiếu với bố mẹ, sợ quyền lực, không dám đấu tranh với quyền lực, không dám mạnh dạn làm theo ý mình, chỉ cảm thấy mình được an toàn khi ngoan ngoãn làm theo ý của lãnh đạo. Tâm trạng ấy đã hạn chế trí tưởng tượng và sự tự tin củangười TQ, mà thiếu hai thứ đó thì không thể làm việc một cách sáng tạo. Các vĩ nhân TQ như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Mao Trạch Đông đều dùng tư tưởng Nho giáo để nghĩ và nói. TQ hiện đang đề cao Quốc học – mộtđại danh từ của Nho giáo. Tôi e rằng càng đề cao Quốc học thì người TQ càng ngoan ngoãn, nhất là trẻ em TQ, chúng sẽ ngày càng thận trọng, thậm chí ngày càng ngu dốt, thế thì sao mà nói tới giải Nobel ? Thực tế là người TQ dù không cần học Nho giáo thì tư tưởng Nho giáo đã hòa tan vào trong máu họ; mọi hành động, lời nói của chúng ta đều phản ánh tư tưởng Nho giáo ; tư tưởng này đã trở thành đặc trưng di truyền của người TQ. Muốn giành được giải Nobel, người TQ cần phảithoát dần ra khỏi ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo.
Dương Chấn Ninh, nhà khoa học người Mỹ gốc Hoa giành giải Nobel Vật lý nói học thuật phảicó truyền thống, mà điều quan trọng nhất của truyền thống này là làm cho lớp trẻ biết được vấn đề nào đáng được bắt tay nghiên cứu, vấn đề nào có triển vọng phát triển tốt nhất ; hiện nay giới khoa học TQ tạm thời chưa có được truyền thống này.
Một học giả TQ nêu thêm 4 vấn đề : 1. Điều quan trọng nhất là người TQ chưa chân thành hợp tác với nhau, thường bằng miệng không bằng lòng ; 2. Quá ít người thực sự muốn nghiên cứu khoa học, phần lớn chỉ chạy theo danh lợi ; 3. Nhà nước chưa đầu tư nhiềuvào nghiên cứu khoa học, tầng lớp giáo sư còn phảilo kiếm kế sinh nhai ; 4. Nhà nước chưa nghiêm khắc trong giáo dục bậc cao, học tiến sĩ chỉ 4 năm là tốt nghiệp, vì thế có người trình độ rất kém.
Một nhà khoa học khác nhận xét : người TQ chưa giành được giải Nobel chủ yếu do bối cảnh khoa học-văn hóa của TQ khác với phương Tây. Về giáo dục, học sinh TQ phảinghe thày, cấp dưới phảinghe cấp trên ; lối giáo dục ấy qua bao đời đã khiến cho các thế hệ sau không có tư tưởng biến đổi, sáng tạo cái mới, vượt thế hệ trước. Bản thân nền khoa học TQ dù là học thuyết Kinh Dịch, lý luận Trung Y hay khoa học hệ thống Kinh Lạc v.v... đều không chặt chẽ như khoa học phương Tây. Người phương Tây nói hạt cơ bản, nói phân tử, nguyên tử ; người TQ nói học thuyết kim mộc thủy hỏa thổ, xét về góc độ này thì khoa học của TQ chỉ chung chung đại khái. Giải Nobel xét theo tiêu chuẩn khoa học phương Tây, cho nên không hợp với tiêu chuẩn khoa học TQ. Ngoài ra giới truyền thông TQ có trách nhiệm lớn trong việc đưa tin tức hàng ngày ; họ rất ít đưa tin về hoạt độngkhoa học kỹ thuật mà chủ yếu đưa tin về hoạt độngcủa các cán bộ lãnh đạo chính quyền, khiến trẻ em từ nhỏ đã chỉ thấy lãnh đạo mớilà quan trọng, chỉ muốn lớn lên sẽ làm lãnh đạo, chẳng ai muốnlàm nghiên cứu khoa học. Ngành truyền thông cũng bỏ ra rất nhiềucông sức đề cao giới showbiz, đề cao các « ngôi sao » trong làng giải trí, khiến trẻ em có tâm lý chỉ muốnlàm ngôi sao ngành giải trí, điều này hoàn toàn đi ngược với nguyện vọng của ngành giáo dục muốn các em học tập tốt các kiến thức KHKT, lớn lên phục vụ đất nước.
Tháng 9/2011, TQ có mời mộtsố chủ nhân giải Nobel tới Bắc Kinh tham dự cuộc đối thoại với lãnh đạo cấp cao nước này về đề tài « Bao giờ người TQ giành được giải Nobel ».
Tại cuộc đối thoại, Ferid Murad (Nobel Y 1998) nói : TQ có rất nhiềunhà khoa học xuất sắc, nhưng như thế chưa đủ, phảikhông ngừng tăng đầu tư đào tạo lớp trẻ khiến họ say mê nghiên cứu khoa học, trở thành những tấm gương mớisau đây 10-20 năm.
George Smoot (Nobel Vật lý 2006) cho rằng sáng tạo cái mớikhông chỉ là phát minh hoặc khám phá mà còn bao gồm cả việc chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành sản phẩm phục vụ sản xuất. Ông nói TQ còn chưa hoàn toàn xây dựng được bầu không khí và văn hóa sáng tạo mới.
Carlo Rubbia (Nobel Vật lý 1984) cũng cho rằng TQ nên sáng tạo đổi mới và qua đó thực hiện các kết quả sáng tạo, nên dùng những tư tưởng viển vông hầu như không thể thực hiện để thúc đẩy phát triển sáng tạo –điều này rất quan trọng đối với tầng lớp trẻ.
Martinus Veltman (Nobel Vật lý 1999) là người Hà Lan ; ông nói hiện nay Hà Lan (hơn 16 triệu dân) đã có 20 giải Nobel, tỷ lệ giải Nobel trên đầu người rất cao. Sở dĩ như vậy là nhờ công lao của ngành giáo dục : giáo viên phổ thông trung học Hà lan đều không tốt nghiệp đại học sư phạm mà đều tốt nghiệp đại học bách khoa hoặc khoa học tự nhiên, cũng là cán bộ nghiên cứu. Vì thế TQ nên tăng cường chất lượng giáo viên trung học.
David Gross (Nobel Vật lý 2004) từng đào tạo được mấy chủ nhân giải Nobel, ông nói : trước khi có phát minh sáng tạo, các nhà khoa học trẻ đều là « vô danh tiểu tốt » , Nhà nước không biết nên tài trợ cho nhà nghiên cứu nào. Bởi vậy người lãnh đạo phải biết tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng văn hóa sáng tạo.
Danh sách công dân nước CHND Trung Hoa từng được trao giải Nobel:
Danh sách những người gốc Hoa có quốc tịch nước ngoài (quốc tịch khi nhận giải) từng được trao giải Nobel,gồm 6 giải vật lý, 2 giải Hóa học và 1 giải văn học:
Ngoài ra còn ông Dalai Lama, người Tây Tạng (lãnh thổ thuộc TQ ngày nay) được trao giải Nobel Hòa bình năm 1989, không rõ có quốc tịch nước nào.
2122
2333
2790
224648
130677
114577591