Đọc toàn bộ thơchữHán của Nguyễn Du, ta nhưcùng nhàthơtham gia vào một cuộc đi, một hành trình dài. Hành trình đó, bắt đầu từnhững ngày đang tuổi thanh xuân thìgia đình đãphải ly tán, anh em lưu lạc. Bài thơđược đánh số1 trong Thanh Hiên thi tập (Nguyễn Du toàn tập) 1 là bàiQuỳnh Hải nguyên tiêu, có câu: “Hồng Lĩnh vôgia huynh đệtán”(Chốn quêHồng Lĩnh không còn nhà, anh em tan tác). Nguyễn Du lúc này đang “tỵcư”ởnhàanh vợtại Quỳnh Côi (Thái Bình). Bài thơsố2 sau đó(Xuân nhật ngẫu hứng) lại cócâu: “Tha hương nhân dữkhứniên biệt”(Chốn tha hương, người từbiệt năm cũ). Trong bài thứ3, nhàthơnhưtiên nghiệm được cái gian truân lưu lạc ấy làdo bản mệnh, do tướng mạo của mình: “Thiên địa dữnhân truân cốt tướng”. Nên nhàthơđãhỏi: Cớsao “càn khôn”lại đốkỵvới kẻlàm văn chương, trong khi đáng lẽphải giúp người làm văn thay đổi sốphận (Bản vôvăn tựnăng tăng mệnh/Hàsựcàn khôn thác đốnhân? Tựthán)
Cái mặc cảm tha hương, lưu lạc đócứđeo đẳng nhàthơsuốt cảcuộc hành trình, xuyên thấm qua mọi bài thơtừ Thanh Hiên thi tập, qua Nam trung tạp ngâm đến Bắc hành tạp lục. Có thểnói sựxuất hiện của các câu thơnói vềcảm giác lưu lạc, tha hương làkháđậm đặc: Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ(Một tấm lòng nhớquêdưới ánh trăng/ (Sơn cưmạn hứng); Lưu lạc bạch đầu thành đểsự(Bạc đầu chìm nổi vôtích sự, (U cư I), Thập tải phong trần khứquốc xa (Mười năm gióbụi rời thành đi xa, (U cư II), Dao ức gia hương thiên lýngoại (Xa nhớquêhương ngoài ngàn dặm, (Mạn hứng); Gia hương thiên lýnguyệt trung tâm (Ngàn dặm nhớquêlòng theo trăng, (Xuân dạ). Với tấm lòng da diết nhớquênhưvậy, khi tiễn một người bạn cótên làNguyễn SĩHữu vềnam, cũng làvềquêlàm việc, nhàthơđãmừng cho bạn vàbuồn cho mình. Buồn cho mình làbạc đầu rồi vẫn chưa vềđược quê, mừng cho bạn sớm được vềquêHồng Lĩnh, nơi trăng trong giómát, không còn canh cánh nhớmong, nhìn vềchân trời: “Bạch đầu vôlại bất hoàn gia,…Qui khứcốhương hảo phong nguyệt /Ngọsong vômộng đáo thiên nha”(Tống Nguyễn SĩHữu Nam qui).
Nỗi buồn nhân thếlàmột cảm hứng chủđạo trong thơchữHán Nguyễn Du. Hầu hết các công trình nghiên cứu vềthơchữHán đãkhẳng định điều này. Nguyễn Lộc cho rằng tâm sựcủa Nguyễn Du “lúc nào cũng buồn, cũng day dứt”, ngay cảkhi ra làm quan với nhàNguyễn cũng “chẳng vui vẻgìhơn”(Nguyễn Lộc)2; Mai Quốc Liên giải thích nguyên nhân nỗi buồn trong tâm trạng Nguyễn Du làdo thời cuộc: “Nhưng cái buồn của Nguyễn Du, sựthất vọng, tuyệt vọng của Nguyễn Du …không phải chỉlàcái buồn của thân thế, nócòn làcái buồn trước đất nước vàthời cuộc” 3. Nguyễn Hữu Sơn cho rằng Thanh Hiên thi tập là “tập thơbộc lộnỗi niềm Nguyễn Du trong những tháng năm sống long đong, mất phương hướng, mất lòng tin, thậm chícảtâm trạng hoang mang, vôvọng với rất nhiều những xót xa vềthân phận "chân trời góc bể "… 4.
Cho đến những năm gần đây, nhiều nhànghiên cứu vẫn tiếp tục khẳng định âm hưởng buồn đau trong thơchữHán Nguyễn Du. Trần Nho Thìn trong Văn học Việt Nam thếkỷX đến thếkỷXIX(2012) đã nhận xét vềmảng thơmang cảm hứng chính trị- xãhội là“Nguyễn Du không quan tâm tổng kết nguyên nhân thành/bại, hưng/vong màông gửi gắm nỗi u hoài vềcuộc đời trăm năm ngắn ngủi, vềnhững cuộc bểdâu, rồi tất cảsẽrơi vào hưvô” 5 . Nguyễn ThịNguyệt khẳng định: “Bước đường quan san, gióbụi, tha hương, chân trời góc biển, ốm đau bệnh tật, trăng thu, đêm thu, gióthu lạnh, mùa xuân lạnh, mái tóc bạc, nỗi nhớquêhương ngoài nghìn dặm, nỗi sầu thếcuộc...tất cảtrởđi trởlại, thành nỗi niềm man mác trong suốt cảtập thơ” 6. Phạm Quang Ái còn bổsung thêm nỗi đau “thất cước”: “Nỗi đau thất cước, nỗi xót xa thân phận, niềm bi phẫn vìcuộc đời bếtắc, tấm lòng ưu thời mẫn thế, điếu cổthương kim,..Tất cả, nhưmột dàn hợp xướng nhiều bècùng tấu lên trong suốt 249 bài thơcủa ba tập thơ…” 7. Và còn rất nhiều bài viết khác nữa đãnói đến nỗi buồn đau trong thơchữHán của Nguyễn Du màởđây chúng tôi không cóđiều kiện kểhết.
Căn nguyên của nỗi “đau đớn lòng”ấy cũng đãđược nhiều người giải thích. Nguyên nhân từhai phía, phía khách quan, làhoàn cảnh xãhội, làlịch sửđất nước thời bấy giờ. Đây làhướng giải thích chủyếu, khi muốn nhấn mạnh ýnghĩa tốcáo xãhội phong kiến của thơNguyễn Du. Hướng giải thích thứhai làtừphía chủquan của nhàthơ. Nào làhoàn cảnh gia đình, nào làbản thân bệnh tật, nào làthái độchính trịkhông mặn màđối với triều Nguyễn, luyến tiếc thời Lêvàkinh đôcũThăng Long…Cũng cónhiều ýkiến đãkết hợp cảhai loại nguyên nhân làvừa chủquan vừa khách quan. Nhưvậy, qua các ýkiến trên, ta thấy cómột sựnhất tríkhácao trong việc khẳng định âm hưởng chung của trong thơchữHán Nguyễn Du lànỗi buồn, nỗi đau. Đólàmột cảm xúc mạnh mẽ, bao trùm. Cóthểcoi những bài thơchữHán của Nguyễn Du đãthểhiện một nỗi buồn đau cótính tập hợp, tính cộng hưởng của nhiều nguyên nhân, trong đó, cónỗi buồn do cảm giác lưu lạc, ly tán đem lại.Ởđây, chúng tôi hoàn toàn thống nhất vềcách nhìn đa chiều, phối hợp các yếu tốchủquan vàkhách quan, vànhấn mạnh thêm vềthủpháp nghệthuật hay là phương pháp tưduy vàthi pháp của thơtrung đại, thơtruyền thống.
Nỗi buồn vìly tán vàcảm xúc lưu lạc được thểhiện trong một biểu tượng đặc sắc mà nhà thơgọi là“đoạn bồng nhất phiến”: Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp/Tất cánh phiêu linh hàxứquy (Cỏbồng một nhánh bay trong gió, Cuối cùng rồi sẽdạt vềđâu, (Tựthán I). Giống nhưmột nhánh cỏbịđứt rễ, lálìa khỏi cội, gióbão sẽcuốn nóbay đi lang thang vôđịnh, chưa biết đến chân trời nào. Hình ảnh ngọn cỏkhôấy làbiểu trưng cho một con người tha hương. Đến bài Mạn hứng II, ta thấy rõhơn cái ngụýbiểu trưng của nhánh cỏbồng: “Hành cước vôcăn nhiệm chuyển bồng …Lục xích phùsinh thiên địa trung”(Nhưngọn cỏbồng không rễchuyển dời bất định …Tấm thân sáu thước sống nổi trôi giữa đất trời). Xuyên suốt cảba tập thơ, màrõrệt nhất làtrong Thanh Hiên thi tập, là hình ảnh một con người không an cư, sống gần nhưvôđịnh, “nay đây mai đó”, trong gióbụi, trong trời đất, lấy trăng sao, sông núi làm bạn. Độc thoại với chính mình, với các côhồn, các vong linh, các nhân vật quákhứ, chia tay với bạn bè, anh em rồi mỗi người lại đi vềphía chân trời góc bể(Hải giác thiên nhai), đểlại một nỗi sầu thương…lànhững dạng thức chủyếu của chủthểtrữtình.
Cảhai biểu tượng, ánh trăng quê và nhất phiến đoạn bồng trên đây đều mang tính ẩn dụ. Ẩn dụnày ta đãgặp trong thơđời Đường (Trung Quốc).Trước Nguyễn Du một ngàn năm, nhàthơlớn của Trung Quốc, LýBạch (701 –762) cũng đãsửdụng ánh trăng vàcỏbồng đểnói lên những năm tháng lưu lạc của mình: “Cửđầu vọng minh nguyệt/Đêđầu tưcốhương”(Tĩnh dạtư) 8, “Cô bồng vạn lýchinh”(Tống hữu nhân) 9.
Chúng ta không nhấn mạnh tính đặc thùcủa cái cảm giác không gian vôtận trong thơNguyễn Du, bởi nónhưlàđặc trưng chung của thi pháp thơcổ, của tưduy nghệthuật trong thơchữHán nói chung. Chỉtrong một bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu (704 –754) cũng đãcóđủba yếu tốmàchúng ta đang nói tới: thiên tải, hương quan, sầu: “Bạch vân thiên tải không du du…Nhật mộhương quan hàxứthị,Yên ba giang thượng sửnhân sầu” 10. Nhưvậy, cái cách cảm nhận không gian vàthời gian trong thơchữHán của Nguyễn Du làsựkếthừa cách cảm nhận của thơca cổphương Đông. Trước ông hàng ngàn năm, thơca đời Đường cũng đãnói vềcái thiên lý, thiên niên ấy rồi. Đóchính là sựphản ánh điều kiện lịch sửxãhội của thời trung đại, khi các phương tiện giao thông vàliên lạc còn rất hạn chế, rất lạc hậu. Trong thơchữHán của Nguyễn Trãi, ta cũng đãbắt gặp cái cảm xúc tha hương tương tự: Cùng là khách ngàn dặm - Đồng vi thiên lý khách (Tặng hữu nhân); Thu vềđất lạlòng nhiều cảm xúc - Thu việt tha hương cảm khách đa (Loạn hậu cảm tác); Mười năm xiêu dạt ngán bồng bình – Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình (Quy Côn Sơn chu trung tác); …Nguyễn Trãi còn nói rõlà Giang hồlưu lạc mấy mươi niên (Nhất biệt giang hồsổthập niên – Hải khẩu dạbạc hữu cảm)11. Tuy vậy, trong thơNguyễn Trãi nhiều bài nói đến biên thùy vô sự, nói đến văn trị, (Văn trịchung tu tríthái bình), nói đến quốc thù (Quốc thùtẩy tận thiên niên sỉ- Rửa nhục quốc thùngàn năm sạch), chỉnh đốn càn khôn (Chỉnh đốn càn khôn tòng thửliễu)…vàtâm thếcủa Nguyễn Trãi làtâm thếcủa một bậc khai quốc công thần, một vịquân sư, nên âm hưởng thơcóphần hào sảng hơn. Nghĩa làtrong thơchữHán của Nguyễn Trãi có thêm cái nhìn của một kẻkinh bang (trịnước) màtrong thơNguyễn Du không có.
Điều đáng chúýlàNguyễn Du cócái nhìn của một kẻbịđộng, một thân phận bịxôđẩy. Ông đãsửdụng những biểu tượng “đoạn bồng nhất phiến”đi đôi với Tây phong, Thu phong, Đông phong …Rất nhiều gióvàbụi (phong trần) trong cảba tập thơchữHán. Cái thân phận bénhỏcủa con người trước vũtrụ, càn khôn càng trởnên ám ảnh khi khoảng cách thời gian vàkhông gian được nâng lên vôhạn. Cảm xúc tha hương, nỗi niềm lưu lạc ấy nhưđược nhân lên nhiều lần khi nhàthơsửdụng các khái niệm “thiên lý”, “thiên niên”…đểnói vềtâm trạng nhớquê“Thiên lýxích thân vi khách cửu”(Ngàn dặm xa quêlàm khách mãi, (Thu chí); “Đạp biến thiên nha hựu hải nha”, (Tạp ngâm), “Vạn lý thu thanh thôi lạc diệp”, (Thu dạ I); “Thiên lý giang sơn tần trướng vọng”, (Thu dạ II); “Tang tửbinh tiền thiên lý lệ”, (Bát muộn); “Mang mang hải thủy tiếp thiên khu”, (Dao vọng Càn Hải từ ); “Tứhải phong trần gia quốc lệ”, (My trung mạn hứng); “Hương tứtại thiên nhai” (Ký Giang Bắc Huyền HưTử): “Thiên lý bất tương kiến”“Thiên lý bất tương văn”(Biệt Nguyễn đại lang)…Cái tâm trạng một đi không biết bao giờvề, không biết sẽdừng chân nơi đâu làkháphổbiến trong các bài thơchữHán của Nguyễn Du: “Nhất biệt bất tri hà xứtrú…Hải thiên mang điểu thiên dưlý” (Ức gia huynh); “Hải giác thiên nhai hà xứtầm” (Lưu biệt Nguyễn đại lang). Cái tôi trữtình trong thơchữHán của Nguyễn Du làmột cái tôi đi nhiều, một cái tôi lữhành. Cái cảm giác “dừng lại đâu trong vòng trời đất thìđólànhà”làcảm giác thường trực: “Càn khôn tùy tại tức vi gia”(Tạp ngâm). Con người lữhành ấy không cóđích đến, hay nói đúng hơn, đólàmột cuộc lữhành vôđịnh, màkhát vọng ởđây làtrởvềcội nguồn. Hồng Lĩnh làmột nỗi ám ảnh lớn nhất của nhàthơtrong suốt cuộc hành trình.
Cảm xúc xa nhà, xa quêtrong thơchữHán của Nguyễn Du càng vềcuối tập thơcàng trởnên nhức nhối, mãnh liệt. Mới đầu làtấm lòng theo ánh trăng vời vợi màvềvới quêhương, “Gia hương thiên lýnguyệt trung tâm (Xuân dạ), vềsau, khi đãxa quêhàng vạn trùng sơn - Cốhương dĩcách vạn trùng san (Thái Bình thành hạvăn xuy địch), thì gan ruột nhàthơnhưbịcồn cào hơn, day dứt hơn. Đáng chúýlàtrong bài thơ Ký Giang Bắc Huyền HưTử, Nguyễn Du sửdụng hai chữ“hương tứ”:Hương tứ tại thiên nhai (Lòng quêtrời một phương –NgôLinh Ngọc dịch), Thuần lô hương tứ tại thu tiên (Dạtọa) 12. Trong bài Sơn cưmạn hứng thì Nguyễn Du sửdụng hai chữ“hương tâm”(Nhất phiến hương tâm). Hương tâm cóthểdịch là tấm lòng yêu quê, nhưng hương tứthìvừa cóthểdịch làlòng quê, vừa cóthểdịch làtríquêhay quêhương trong tâm tưởng. Trong “hương tứ”của thi nhân, Hồng Lam làmột vùng quêtuyệt đẹp, ởđóanh cóthểthu lượm được nhiều cảnh tình, nhiều cảm xúc đểlàm thơ, đểngâm ngợi thanh cao: “Lam thủy Hồng Sơn vô hạn thắng/ Bằng quân thu thập trợthanh ngâm”(Phúc Thực Đình). Có thểnói, núi Hồng sông Lam làmột vùng quêđủcho bạn ngâm vịnh: “Lam thủy Hồng Sơn túc vịnh ngâm”(Tặng Thực Đình). Người ta cóthểngủyên trong mây trời Hồng Lĩnh: “Lão nạp an miên Hồng Lĩnh vân”(Dạhành). Những vần thơcóđược cảm xúc trong sáng vàxanh tươi ấy của cảnh đẹp thôn quêhầu hết đãđược nhàthơsáng tác trong thời gian sống ởquêhương. Giấc hương quan cũng là một biểu tượng được nhắc đến mỗi khi xa quê. “Giấc hương quan luống lần mơcanh dài”(dòng 1266 trong Truyện Kiểu) là nói đến nỗi nhớnhà, nhớquêcủa nhân vật Thúy Kiều. Còn khi Nguyễn Du đi xa quê, thì« giấc hương quan”ấy cũng nặng trĩu tâm hồn, màmàu sắc trong giấc hương quan đóthường ảm đạm, tình cảm trong đóthường làsầu bi, vàrất nhiều nước mắt. “Bồi hồi chính ức Hồng Sơn dạ”(Sơnguyệt); “Nhất lệthiên nhai sái đoạn bồng”(Ngẫu hứng II), Mộng trung tùng cúc ức quy dư(Lạng Sơn đạo trung). Mặc dùlàso với ngày nay, khoảng cách địa lýmàcác bài thơnói đến so với quêHồng Lam không phải làvôhạn: Gia Viễn Ninh Bình (Sông Quyết) hay phủLạng Sơn thìngày nay chỉmất nửa ngày làcóthểvềtới đất Hồng Lam. Nhưng thời Nguyễn Du cóthểphải đi cảtháng trời.
Cảm xúc vềquênội Hồng Lam đãxuyên suốt cảba tập thơchữHán của Nguyễn Du. Mong ước lớn nhất của ông làđược trởvềsống giữa quêhương, màkhông cần cái “tiểu công danh”. Một người tựcho mình mang tướng mạo truân chuyên (truân cốt tướng), không mang cốt cách vương hầu (Hữu sinh bất đái công hầu cốt – Ký hữu), nên Nguyễn Du ước được nằm khểnh bên song cửa sổ, làm bạn với núi rừng, hươu lợn (Vôtửchung tầm thỉlộc minh) sống “bình cưvôsự”. Nhưng ước muốn ấy vềtận cuối đời vẫn không thực hiện được.
Cảm xúc vềquênội do đóđãtrởthành một mong mỏi, một sựthôi thúc, thu hút tâm tưcủa nhàthơmạnh mẽđến nỗi trởthành một định hướng trong tưduy nghệthuật. Trong Nam trung tạp ngâm, khi vào Kinh sưnhậm chức, vừa nhìn thấy sông Hương thìnhàthơđãliên hệngay tới sông Lam: “Hồi thủ Lam Giang phố”(Quay đầu vềbến Lam Giang, Thu chí), dạo trên thành sông Nhật Lệ(Quảng Bình), nhàthơngoảnh nhìn Hoành Sơn, tưởng tượng quênội bên kia Đèo Ngang màcứthấy xa vời: “Hồi thủcốhương thu sắc viễn, Hoành Sơn vân thụchính thương thương”(Ngoảnh đầu nhìn quênhà, màu thu xa/Chỉthấy một màu xanh xanh của khói mây cây cối trên dãy Hoành Sơn Giang đầu tản bộ) thường xuyên “Bắc vọng gia hương”mà“thán luân lạc”(Ngóng vềphương Bắc màthan vềsựluân lạc, trong Tân thưngẫu hứng). Từkhi làm Cai bạởQuảng Bình, Nguyễn Du đãthấy nhớquênội rồi, vàđãquay đầu vềphương Bắc, trông qua dãy Đèo Ngang đểvọng cốhương.
Ngược lại, trong thời kỳđi sứphương Bắc, (Bắc hành tạp lục) cái nhìn của nhà thơlại hướng vềphương Nam nhiều hơn (nơi quênội Hồng Lam) đểmàthương mànhớ: “Vạn lýhương tâm hồi thủxứ, Bạch vân Nam hạbất thăng đa”. (Mai Quốc Liên dịch là: Cốhương muôn dặm quay nhìn lại/Bạt ngàn mây trắng chốn trời Nam - Ngẫu hứng). Điều quan trọng làởđây hình nhưhành trình càng dài, càng lâu thìcàng xa quêhương, càng xa anh em bèbạn: “Hồng Lĩnh thân bằng nhật tiệm dao”(Lạng thành đạo trung). Cho đến khi gặp những người dân địa phương của “Thượng quốc”(Trung Quốc), thấy họcười người Nam di: “Hồtêvi lộtiếu Nam di (Thương Ngôtrúc chi ca V), thì Nguyễn Du mới giật mình thời gian xa nhàđãquálâu, hồdễđãquên đường về. Ông mong sao cho luôn luôn nhìn thấy quênhà, dùchỉlàtrong mộng: “Thập niên dĩthất hoàn hương lộ, Nã đắc gia hương nhập mộng tần”(Tam Giang khẩu đường dạbạc). Đến Tam Giang (Quảng Tây) thìcảm thấy nhưđãquên đường vềquê(Thất hoàn hương bộ), nhưng khi đến HồBắc thìdùcó“hồi thủ”, “dao vọng”cũng không còn nhận thấy dấu vết gìcủa quêhương, nhưđã mất quê: “Dao không thất cốhương” (Tương Giang dạbạc). Từđây, quêhương trong tầm ngóng vọng chỉcòn làmột chân trời trống không: “Cốhương không nhất nhai”(Đăng Nhạc Dương lâu).
Nỗi nhớquêcủa Nguyễn Du không phải chỉxuất hiện khi ông là“đoạn bồng nhất phiến”, lưu lạc xa quê, màngay cảkhi ông vềvới quêmình thìhình ảnh của quêcũnhưđãbiến mất, chỉcòn lại cái khung cảnh côliêu, hoang phế. Nguyễn Du nhớlại thời thơấu, trong đócónhững kỷniệm đẹp vềmột thời phong lưu, hoàng kim của gia đình khi ông còn nhỏ. Đólàthời điểm thân phụcáo lão vềnghỉ, một cảnh tượng thật uy nghi, hoành tráng: “Rồng thần rẽsóng: thuyền tiên lướt/Hạc núi vờn mây: lọng gấm che”(Tiên chu kích thủy, thần tiên đấu/Bảo cái phùkhông, thụy hạc phi - Giang Đình hữu cảm). Nhưng giờđây những thứấy đãbiến đi nhưmột giấc mộng. Một tổấm gia đình lớn nay đãtan tác, những đứa con ông mặt xanh nhưlárau, những trận lụt kinh hoàng ởLam Giang: Bờsông ầm ầm lở, sóng lớn nhưquỷma, nhàthơđãmuốn đẩy núi Thiên Nhận đểlấp đầy hàng trăm dặm sông hung dữ(Nghĩkhu Thiên Nhận sơn, Điền bình ngũbách lý– Lam Giang).
Tuy vậy, trên hết vàtrước hết, Hồng Lam trong tâm tưởng Nguyễn Du làmột vùng quêthắng cảnh, thiên nhiên hung vĩ, sông núi hữu tình, lànơi du ngoạn thưởng lãm, vui thúcủa những bậc BáDi, Thúc Tềmuốn xa lánh cuộc đời gióbụi, muốn rũbỏáo mũcông danh. Với ýnghĩa đó, Hồng Lĩnh lànơi Nguyễn Du tha thiết nhớthương vàmong muốn trởvề. Trởvềvới nơi cội nguồn phát tích, vứt bỏmọi danh lợi phùhoa, chấm dứt cái hành trình lưu lạc, “thất cước”mấy chục năm. Bởi vậy, cóthểnói, nếu nhưtrong thơchữHán của Nguyễn Du cómột giấc mộng, thìđólàgiấc mộng lớn Hồng Lam, vàgiấc mộng đócàng cháy bỏng vìngày tháng lưu lạc càng dài, tóc càng bạc thêm. Tóc bạc thường đi đôi với giấc “hương quan”nhà: “Hồng Lĩnh cách niên hưtúc mộng, Bạch đầu thiên lý tẩu thu phong”(Nhiếp Khẩu đạo trung); Hồng Lĩnh mộng trung hoang xạliệp/Bạch đầu túc tích biến sơn xuyên (Hàm Đan tức sự), Thiên lý ly gia lữ mộng trì (Đại tác cửu thútưquy). “Tha hương bạch phát lão bất tử”(Tạp ngâm). “Ngũ canh tàn mộng tục hương quan”(Thủy Liên đạo trung tảo hành). Khi đã xa quê tới tám ngàn dặm, sống làm kẻ“dịhương”nơi “thượng quốc”thìdường nhưkhông ai cóthểđón xuân: “Du du hương quốc bát thiên lý/…Xuân hàtằng đáo dịhương nhân”(An Huy đạo trung). Biểu tượng hương quốc được Nguyễn Du sửdụng khi ra ngoài lãnh thổquốc gia, qua khỏi biên ải.
Mặc cảm lưu lạc không phải chỉcótrong thơchữHán, màthểhiện cảtrong Truyện Kiều. Cảhai nhànghiên cứu Trần Nho Thìn vàTrần Đình Sửđều nhất trícho rằng: “Truyện Kiều của Nguyễn Du làmột tiểu thuyết lưu lạc”, “Hoa trôi bèo dạt”làmột mẫu gốc được kết đọng trong tâm hồn người phương Đông, bởi lặp đi lặp lại vôvàn trường hợp con người bịbứt khỏi gia đình, quêhương, nguồn cội”(Trần Nho Thìn)13. Nhưng nhưtrên đãnói, thơchữHán được sáng tác gần nhưtrọn đời, mànhững bài thơđầu đời của Nguyễn Du (lúc mới trên dưới ba mươi tuổi) đãnói vềnỗi buồn tha hương vàcảm giác lưu lạc. Do vậy, cóthểnói, sốphận lưu lạc của nhân vật Thúy Kiều chính làphản ánh thân phận lưu lạc của chính nhàthơ. Thếlà, con người tài hoa nhưNguyễn Du đãphải chịu đựng một sốphận khánghiệt ngã. Tài mệnh tương đốdo đókhông chỉcótrong triết lý Truyện Kiềumà còn biểu hiện cảtrong thơchữHán, qua hình ảnh cái tôi trữtình long đong lận đận bịdứt khỏi cốhương, nhưmột nhánh cỏbồng bịtây phong thổi gấp, trôi dạt khắp chân trời góc bể.
Nhân vật Thúy Kiều thìcóđoạn đoàn viên, sau mười lăm năm lưu lạc, đãcó hồi sum họp, tái hợp. Nhưng chủthểtrữtình trong thơchữHán Nguyễn Du thìkhông, vàkhông phải 15 năm màđến ba mươi năm, vẫn chưa cóhồi đoàn tụ. Ta vẫn thấy ởcuối cuộc hành trình, một con người đầu bạc, “Đi khắp núi nước Ngô/Qua nhiều non nước Sở, Đã tận cùng núi xanh màtính theo “kếtrình”thìcòn phải đi hàng tháng nữa mới đến Yên Kinh: “Ngôsơn hành dĩbiến/Sởsơn lai cánh đa/Đáo đắc thanh sơn tận...Kếtrình tại tam nguyệt…”(Hoàng Mai đạo trung). Nghĩa là cuộc đi công cán “Bắc hành”còn chưa đến nơi thìnói gìđến cuộc trởvềđoàn tụ. Vàrồi sau đó, một cuộc Bắc hành lần thứhai lại vẫn chờông. Nhưng sau đóông đãvềgiời màkhông kịp “tái Bắc hành”. Một con người tài hoa, thông kim bác cổvềvăn, đãkhuyên người ta “Nhân sinh vôbách tải…/Hàsựthiên niên kế”(Đời người không tăm tuổi/Tính ngàn năm làm gì- Hành lạc từ I); “Cổkim hiền ngu nhất khâu thổ/…Khuyến quân ẩm tửu thảvi hoan”(Cổkim hiền ngu đều hóa đất/Mời anh chén rượu thảhồn vui - Hành lạc từ II). Nhưng rồi bản thân ông không sao vui được. Bởi vìcho đến lúc mất, giấc mộng Hồng Lam vẫn chưa thực hiện được.
Nhưng cũng vìvậy màtấm lòng của ông đối với quêhương hình nhưcàng sâu nặng lên gấp bội, còn đối với sựthăng trầm của thời cuộc thìthật đáng thương: “Thếsựphùvân chân khảai”, (Đối tửu).
Hà Nội ngày 25/4/2013
1. Nguyễn Du Toàn tập (T. 1, T 2), Mai Quốc Liên và các dịch giả khác, Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, H. 1996.
2. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX), XB GD 2001, 308)
3. Nguyễn Du Toàn tập, Sđd .T1 tr.9
4.http://se.ctu.edu.vn/bmnv/index.php?option=com_content&;view=article&id=168:th-ch-han-nguyn-du-t-coi-h-vo-nhin-li-kip-ngi...
5. Trần Nho Thìn, Văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, H. 2013, tr. 514.
6. Nguyễn Thị Nguyệt, Hội VHNT Hà Tĩnh, Thơ chữ Hán Nguyễn Du - Nhật ký tâm trạng,http://baohatinh.vn/home/truyen-ngan-tho-am-nhac/tho-chu-han-nguyen-du-nhat-ky-tam-trang/
7. Phạm Quang Ái, Thăng Long và Hà Tĩnh trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du
http://vanhocnghethuathatinh.org.vn/tac-gia-tac-pham/Ly-luan-Phe-Binh/Thang-Long-va-Ha-Tinh-trong-tho-chu-Han-cua-Nguyen-Du-67/
8. Thơ Đường, T.II, Nam Trân tuyển chọn, Trương Chính giới thiệu, Nxb Văn học, in lần thứ 2, H.1987, tr. 46.
9. Thơ Đường, T. II Sđd, tr. 53.
10. Thơ Đường, T. I Nam Trân tuyển chọn, giới thiệu, Nxb Văn học, in lần thứ 2, H.1987, tr. 122.
11. Nguyễn Trãi toàn tập, in lần thứ 2, Nxb KHXH, H.1976, (tr.266 – 346).
12. Nguyễn Du Toàn tập, T1, tr. 223: Tứ (思) hay tư ở đây vừa là tâm, vừa là nghĩ suy (tư lự), vừa là hoài niệm (nhớ). 13. Trần Nho Thìn, Sđd, tr. 525.