Giáo dục di sản – đưa các loại hình di sản văn hóa phi vật thể vào giới thiệu, giảng dạy trong nhà trường – là một trong những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể thường được các nhà quản lý văn hóa đề cập đến.
Giáo dục di sản – đưa các loại hình di sản văn hóa phi vật thể vào giới thiệu, giảng dạy trong nhà trường – là một trong những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể thường được các nhà quản lý văn hóa đề cập đến.
Trong những năm vừa qua, Bộ Văn hoá, Thế thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO), cùng các tổ chức phi Chính phủ và các cá nhân trong và ngoài nước đã hỗ trợ và thúc đẩy các chương trình khác nhau nhằm đưa di sản vào nhà trường, giáo dục thế hệ trẻ những tri thức lịch sử, văn hoá, khoa học kỹ thuật và tăng cường kỹ năng sống. Nhiều mô hình giáo dục di sản trong nhà trường đã được xây dựng với sự phối hợp liên ngành, sự hỗ trợ cả về chuyên môn và vật chất. Dù đã đạt được những kết quả khác nhau, song đa số các mô hình giáo dục di sản đều chưa được ngành giáo dục ghi nhận và sử dụng như một chương trình có tính bền vững, lâu dài. Theo ý kiến của PGS. TS. Nguyễn Văn Huy, thành viên dự án “Giáo dục di sản trong nhà trường tại Việt Nam” do Văn phòng UNESCO Hà Nội hỗ trợ kinh phí và phối hợp chuyên môn với Trung tâm Nghiên cứu và Phát huy giá trị Di sản văn hóa (CCH), thuộc Hội Di sản Văn hóa Việt Nam thực hiện từ năm 2009, thì nhược điểm của đa số dự án là những người thực hiện chỉ hiểu về di sản văn hóa và truyền thống văn hóa ở mức chung chung, theo lối mòn. Chưa kể đến hàng loạt thách thức mà chính những người thực hiện vấp phải: thiếu và không có sự tham gia, giám sát của các cơ quan quản lý giáo dục. Bản thân ngành văn hóa chưa thực sự cung cấp đủ thông tin chuyên môn về các loại hình di sản[1].
Trong số các loại hình văn hóa phi vật thể, dân ca (Quan họ Bắc Ninh, Ví, Giặm xứ Nghệ, ca Huế….) đã sớm được đưa vào giới thiệu trong nhà trường. Ngay từ năm 2004, GS. Trần Văn Khê và các cộng sự của mình lần đầu tiên thử 12 mô hình giảng dạy âm nhạc truyền thống tại Trường THCS Trần Hưng Đạo, TP. Hồ Chí Minh. GS. Trần Văn Khê trực tiếp đứng lớp. Những ưu điểm của phương pháp này là luyện tai nghe cho chính xác, vận dụng trí nhớ ghi lại trong đầu những gì thầy dạy trước khi luyện con mắt đọc đúng, đọc mau những tín hiệu của bản ký âm theo cổ truyền hay theo phương Tây. Bên cạnh đó, GS. Trần Văn Khê cũng dạy nhiều bài hát ru, hát đồng dao, bài vè, câu đố, bài thơ cho học sinh, sau tiết tấu đi dần đến các chữ nhạc hò, xự, xang, xê, cống, phát âm và hát bằng tên chữ nhạc[2]... Từ đó đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chú ý, hướng dẫn để các trường học triển khai đưa dạy và học dân ca vào nhà trường, góp phần vào việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của dân ca, Tuy nhiên, cho đến nay, hiệu quả của việc đưa dân ca đến với thế hệ trẻ, phát huy sức sống lâu bền của dân ca trong đời sống đương đại chưa thực sự đạt hiệu quả như mong đợi. Sở dĩ có nguyên nhân này là vì, trong nhà trường, việc dạy và học dân ca chỉ mới dừng ở mức như một môn học ngoại khóa, mang tính chất giới thiệu, chứ chưa được đánh giá đúng vai trò, giá trị và từ đó chưa được đầu tư, chú trọng trong hệ thống các môn học của nhà trường phổ thông. Nhiều giáo viên dạy nhạc cũng phải thừa nhận: Học nhạc trong nhà trường không đi đôi với việc thực hành; hoặc thực hành ở mức độ quá đơn giản, hạn chế, khiến giờ học trôi qua một cách nặng nề. Chưa kể, chương trình sách giáo khoa quá đơn điệu, không được hệ thống, phân loại một cách chặt chẽ, khoa học khiến cho học sinh (HS) cảm thấy không hứng thú. Trong số hơn 80 bài hát trong chương trình tiểu học, chỉ có một số bài hát dân ca được đưa vào giảng dạy. Nhưng nội dung chương trình quá đơn điệu không đủ cung cấp cho các em hiểu biết đơn giản và hệ thống về kho tàng âm nhạc dân tộc phong phú của nước ta. Chính vì những lỗi sơ đẳng này, môn âm nhạc đã không đủ sức vun trồng đầu tiên là sự thích thú, kế tiếp là tình yêu với âm nhạc nói chung và đặc biệt là âm nhạc dân tộc nói riêng. Ở bậc Trung học cơ sở, các em học sinh đã biết nhiều, việc học âm nhạc đối với các em không chỉ là tiếp thu một cách thụ động, do đó vai trò của người dạy càng được đề cao hơn và nội dung chương trình càng phải phong phú hơn để thu hút nhưng chương trình học vốn đã ít (một tuần một tiết) lại bị phân nhỏ, thêm vào đó do không có phòng học chuyên dụng, giáo viên không thể tổ chức lớp học theo ý mình, thiếu các thiết bị và dụng cụ giảng dạy minh họa...
Để khắc phục tình trạng trên, tôi nghĩ rằng, chúng ta cần nghiên cứu việc đưa dân ca vào trường học từ tiếp cận quản lý giáo dục. Theo đó, nhà trường cần xác định đầy đủ mục tiêu, nội dung của môn học, các đối tượng tham gia và hiệu quả thu được từ môn học để đạt hiệu quả tốt nhất cho hoạt động giáo dục quan trọng này.
1. Mục tiêu giáo dục
“Lịch sử có giá trị giáo dục chừng nào nó giới thiệu những giai đoạn của đời sống xã hội và sự tăng trưởng. Lịch sử phải được kiểm soát bằng sự quy chiếu tới đời sống xã hội. Nếu chỉ đơn thuần được coi như là môn lịch sử, môn lịch sử sẽ bị ném vào quá khứ xa xưa và trở thành vô dụng và vô hồn. Nếu được coi như là sự ghi lại đời sống xã hội và sự tiến bộ của con người, môn lịch sử sẽ trở nên tràn đầy ý nghĩa” [1, tr. 553].
Nhìn từ quan điểm này của John Dewey, chúng ta nhận thấy rằng, lâu nay, việc đưa dân ca vào giảng dạy trong trường học, ở một khía cạnh nhất định, cũng tương tự như giáo dục di sản hay giảng dạy lịch sử, thường được thực hiện với mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể trong xã hội đương đại. Mục tiêu trên là đúng đắn, tuy nhiên chưa thực sự đầy đủ. Theo tôi, điều quan trọng ở đây là, những người làm giáo dục cần xác định, việc đưa dân ca vào trường học nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục nghệ thuật và giáo dục thông qua nghệ thuật. Dân ca, trước khi là một di sản văn hóa của dân tộc, đã là một loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc.
Mác nói “Muốn thưởng thức về nghệ thuật thì trước tiên phải được giáo dục về nghệ thuật” [dẫn lại theo 2, tr.2]. Con người muốn phát triển toàn diện, muốn có đủ năng lực cảm thụ và sáng tạo nghệ thuật thì phải được giáo dục về mặt nghệ thuật. Có đủ năng lực tinh tế trong cảm thụ mới có thể phát hiện và khẳng định cái mới, cái đẹp trong cuộc sống, giúp con người có đủ năng lực tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội và các ngành khoa học khác. Xu thế giáo dục nghệ thuật và giáo dục thông qua nghệ thuật đang là xu thế phát triển trong giáo dục hiện đại ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Giáo dục nghệ thuật trong nhà trường được xem là con đường cơ bản, có giá trị lâu dài có tác dụng định hướng thẩm mỹ đúng đắn cho thế hệ trẻ, phát hiện, ươm mầm, bồi dưỡng tài năng nghệ thuật.
Trong nhà trường, các loại hình nghệ thuật thường được giáo dục ở mức độ phổ thông, thường thức nhằm nâng cao dân trí, kiến thức về nghệ thuât, có thể kể đến như: vẽ, hát, múa, chơi nhạc cụ (piano, organ, guitar…)…
Ở trong trường phổ thông, môn học nghệ thuật được giảng dạy chính khóa chủ yếu là: hát, múa và vẽ. Với thời lượng 1 tiết/tuần, kiến thức được đưa ra chủ yếu là những kiến thức cơ bản như: hình khối, bố cục, màu sắc…(trong môn mỹ thuật), hát đồng ca các bài hát về nhà trường, thiếu nhi…và các điệu múa tập thể (trong môn âm nhạc).
Giáo dục thông qua nghệ thuật là hoạt động sử dụng nghệ thuật như một công cụ hay phương pháp để thực hiện các nội dung giáo dục khác. Ví dụ giáo dục lịch sử, văn học, giáo dục công dân thông qua nghệ thuật sân khấu, giáo dục tự nhiên, môi trường thông qua mỹ thuật, tạo hình,… Phương pháp giáo dục phối hợp này mang tính sáng tạo, linh hoạt, thu hút sự chú ý, chủ động của người học, từ đó đem lại hiệu quả học tập cao hơn. Nghệ thuật ngoài chức năng giải trí, còn gắn liền với hoạt động thực tiễn trong học tập, sinh hoạt và sáng tạo. Vì vậy, nghệ thuật có 3 chức năng quan trọng là: chức năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức năng thẩm mỹ.
Chức năng nhận thức của nghệ thuật giúp con người biết ngắm nhìn, biết lắng nghe và hưởng thụ cái đẹp trong cuộc sống. Từ đó năng khiếu thẩm mỹ của con người ngày càng được tăng lên. Đặc biệt, tâm hồn, trí tuệ con người cũng được bồi đắp ngày càng giàu hơn, đẹp hơn. Thông qua nghệ thuật, con người có thể tiếp cận kho tàng tri thức của nhân loại để làm giàu vốn hiểu biết của cá nhân. Từ đó, nền tảng văn hóa nghệ thuật lại trở thành tiềm năng, tiềm lực phát triển của mỗi con người và dân tộc.
Chức năng giáo dục là đặc tính cơ bản của nghệ thuật. Văn hóa nghệ thuật tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, làm cho con người có những phẩm chất và năng lực mong muốn. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều chứa đựng những bài học, những ý nghĩa về triết lý nhân sinh, về lối sống, suy nghĩ, đạo đức, truyền thống, lịch sử… Đặc biệt những bài học, hay triết lý giáo dục được thể hiện thông qua nghệ thuật không khô khan, cứng nhắc, áp đặt mà gần gũi, cảm hóa con người bằng những hình tượng nghệ thuật đẹp, sinh động, hấp dẫn và gần gũi với đời sống, dễ tác động trực tiếp vào tâm lý, tình cảm, trí tuệ của mỗi người.
Chức năng thẩm mỹ của nghệ thuật thể hiện ở việc hướng con người tới cái đẹp. M. Gorki nhận định và được nhiều người trích dẫn khi bàn về vấn đề này là: con người bẩm sinh là nghệ sĩ, dù ở đâu, bất cứ lúc nào, dù bằng cách này hay cách khác, họ cũng luôn mong muốn đưa cái đẹp vào cuộc sống. Chính vì vậy, nghệ thuật giúp con người hướng tới cái đẹp, hoàn thiện năng lực thẩm mỹ, đồng thời hoàn thiện nhân cách, lối sống của bản thân.
Nhà trường có thể sử dụng dân ca như một loại hình nghệ thuật để thực hiện mục tiêu giáo dục nghệ thuật theo quan điểm trên.
2. Nội dung giáo dục
Trên thực tế, giáo dục nghệ thuật luôn được coi trọng trong lịch sử phát triển xã hội loài người. Các triết gia từ thời kỳ cổ đại đã coi giáo dục nghệ thuật là một trong những phương thức hiệu quả nhất cho việc giáo dục con người trở thành người tốt. Ở bối cảnh Việt Nam, nhằm mục đích xây dựng con người mới phát triển toàn diện về mọi mặt, ngành giáo dục đã rất coi trọng vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Ở tất cả các cấp học, chúng ta đều có nội dung giáo dục nghệ thuật, cụ thể là giáo dục âm nhạc trong giờ học chính khoá cũng như ngoại khoá. Đối với dân ca, căn cứ mục tiêu giáo dục được xác định ở trên, nội dung giảng dạy dân ca trong nhà trường cần chú ý vào 2 nội dung chính sau:
- Kiến thức âm nhạc:
Kiến thức âm nhạc sẽ trở nên gần gũi, dễ nghe, dễ học hơn nếu nó xuất phát từ một bối cảnh văn hóa quen thuộc. Chương trình học sẽ được cấu trúc cho phù hợp với nội dung phổ biến kiến thức của môn âm nhạc ở các cấp học, bên cạnh đó lồng ghép các ví dụ minh họa bằng các làn điệu dân ca quen thuộc với học sinh để các em dễ tiếp thu. Trong trường hợp dân ca Ví giặm, học sinh Nghệ An, Hà Tĩnh sinh ra và lớn lên đã quen với những làn điệu này, với những câu lạc bộ, hay những câu chuyện có liên quan đến dân ca ví giặm nên việc đưa dân ca Ví Giặm vào học kiến thức âm nhạc sẽ khiến cho việc học trở nên sinh động và dễ dàng hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, việc chuyển tải các làn điệu dân ca qua cách đọc xướng âm kiểu phương Tây sẽ giúp các làn điệu này được giữ gìn lâu hơn, thay vì cách truyền khẩu truyền thống xưa nay. Học sinh khi học hát nắm vững kiến thức âm nhạc thì việc cảm thụ bài hát cũng đầy đủ, sâu sắc hơn.
- Kiến thức xã hội, lịch sử:
Dân ca là loại hình nghệ thuật truyền thống, gắn bó lâu đời với đời sống văn hóa tinh thần của người dân lao động qua nhiều thế hệ. Dân ca phản ánh tình cảm, tâm tư, nguyện vọng của người dân với gia đình, quê hương, đất nước. Vì thế, sử dụng dân ca để giáo dục các giá trị thẩm mỹ, đạo đức, định hướng nhân cách cho học sinh là một việc làm đúng đắn, thu được hiệu quả cao. Thông qua lời ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, quê hương, đất nước, ca ngợi tinh thần yêu lao động, cần cù, siêng năng, ca ngợi tình yêu gia đình, tình yêu lứa đôi, các em học sinh được giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống, giáo dục tinh thần yêu quê hương, đất nước, tình cảm gia đình, bạn bè.… Điều này rất quan trọng khi giảng dạy lịch sử địa phương.
Vấn đề đặt ra là, cần xây dựng chương trình học tập như thế nào để đáp ứng cả hai nội dung trên, đồng thời đảm bảo các nội dung được truyền tải đến học sinh một cách rõ ràng, hiệu quả. Việc giảng dạy dân ca không đơn thuần chỉ là những kiến thức âm nhạc mà còn có kiến thức lịch sử, văn học, địa lý, giáo dục công dân…. Vì vậy cần nghiên cứu kết hợp hài hòa các nội dung giáo dục. Ví dụ: với mỗi bài dân ca được đưa vào chương trình cần có cấu trúc giảng dạy như sau:
- Giới thiệu sơ qua về thể loại của bài (hò, vè, ví, hay quan họ…), lịch sử và xuất xứ của làn điệu.
- Đặc trưng nghệ thuật của thể loại, làn điệu, cách thức lấy hơi nhả chữ, ký xướng âm…
- Ý nghĩa của ca từ, giá trị thẩm mỹ, giá trị giáo dục của ca từ.
Có như vậy, học sinh mới thật sự hiểu, thật sự yêu dân ca, biến dân ca trở thành sở thích âm nhạc của bản thân.
3. Đối tượng tham gia:
Trong môi trường giáo dục, vai trò của người thầy và học trò phải luôn được xem xét trong các bối cảnh cụ thể để hướng tới chất lượng giảng dạy cao nhất. Đưa các loại hình dân ca như ví giặm cũng phải được xét trong bối cảnh này. Để đảm bảo truyền tải được nội dung chương trình giảng dạy dân ca đòi hỏi phải có đội ngũ giáo viên có đầy đủ kiến thức về âm nhạc, văn hóa, xã hội… Hiện nay, đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy dân ca trong trường học chủ yếu là giáo viên dạy âm nhạc trong trường phổ thông. Đối tượng này có kiến thức âm nhạc căn bản, có nghiệp vụ sư phạm tốt, tuy nhiên thiếu kinh nghiệm thực tiễn và sự cảm thụ sâu sắc đối với từng thể loại dân ca cụ thể. Qua nghiên cứu chương trình đào tạo giáo viên âm nhạc ở các trường ĐH Sư phạm Hà Nội, ĐH Sư phạm Nghệ thuật Trung ương, có thể thấy, thời lượng kiến thức dành cho âm nhạc truyền thống chiếm rất ít, ngoài ra, các kiến thức bổ trợ về lịch sử văn hóa Việt Nam cũng chưa được chú trọng. Với những kiến thức được trang bị trong nhà trường như vậy, giáo viên âm nhạc khó có thể là người truyền đạt đầy đủ âm nhạc truyền thống nói chung, dân ca nói riêng, đến với học sinh. GS. TS Phạm Minh Khang, Giám đốc Trung tâm phát triển nghệ thuật âm nhạc Việt Nam, kiên quyết: "Không phải cứ học nhạc ra đi dạy dân ca là được. Đã có trường hợp học sinh hỏi, cô giáo chịu" [6]. Theo TS Phạm Ngọc Định, Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục tiểu học, đội ngũ giáo viên giảng dạy âm nhạc tại các trường tiểu học hiện nay có thực tế: “bên cạnh số giáo viên tốt nghiệp các ngành chuyên đào tạo sư phạm âm nhạc, số còn lại là những thầy cô giáo vốn dạy môn cơ bản thừa ra, có năng khiếu được cử đi học rồi về dạy. Ngay những giáo viên học chuyên ngành ra, không phải ai cũng có khả năng hát dân ca hay, dạy dân ca hấp dẫn, huống hồ là những giáo viên chuyển ngạch!” [6]. Trên thực tế, đa phần các giáo viên này được đào tạo tại các trường cao đẳng sư phạm âm nhạc, một số dạy bậc tiểu học còn chỉ được đào tạo ở trung học sư phạm âm nhạc. Với 3 năm hệ cao đẳng và 2 năm hệ trung học, lượng kiến thức về âm nhạc cổ truyền mà họ tiếp thu được không đáng kể.
Vì vậy, trong quá trình dạy học, nhà trường có thể nghiên cứu mời thêm các nghệ nhân dân ca. Nghệ nhân là những người có thể không được đào tạo bài bản, chính quy, song lại nắm giữ cái hồn của âm nhạc dân gian, có khả năng truyền lửa, truyền cảm xúc đến với người học. Sự kết hợp giảng dạy giữa giáo viên âm nhạc và nghệ nhân dân ca sẽ làm nội dung môn học sống động hơn, tăng sức hút đối với học sinh.
Có thể thấy, vai trò của người giảng dạy, người đưa dân ca đến với học sinh, giúp các em hiểu và yêu dân ca, là vô cùng quan trọng, góp phần to lớn vào việc bảo tồn và phát huy giá trị của dân ca. Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học ngành sư phạm âm nhạc có thể nghiên cứu, xem xét để tăng thời lượng cho các môn âm nhạc truyền thống, các môn lịch sử, cơ sở văn hóa… trong đào tạo giáo viên âm nhạc, nhằm đáp ứng nhiệm vụ trên.
Đối tượng đóng vai trò trung tâm trong quá trình đào tạo, đó là học sinh. Dân ca có thể đưa vào trường học ở tất cả các cấp học từ mẫu giáo đến đại học, song cần chú ý đến đặc điểm lứa tuổi, hệ thống chương trình môn học của từng cấp học để bố trí hợp lý. Ngoài ra, bên cạnh một số làn điệu dân ca phổ biến, cũng cần chú ý đặc thù của từng địa phương để lựa chọn loại hình dân ca phù hợp với sự hiểu biết và hứng thú của học sinh. Ví dụ: học sinh Bắc Ninh học dân ca quan họ, học sinh Nghệ An, Hà Tĩnh học Ví, Giặm, học sinh Phú Thọ học hát Xoan….
Kết quả khảo sát tại một số trường THCS cho thấy: có khoảng 21% học sinh biết được trên 10 bài dân ca Việt Nam, 73,4% học sinh biết chưa đến 10 bài dân ca Việt Nam và khoảng 5% học sinh không biết một bài dân ca nào. Nhưng theo Thạc sỹ Nguyễn Thị Tố Mai, Trưởng khoa Sư phạm Âm nhạc trường Đại học sư phạm nghệ thuật Trung ương, không phải học sinh thờ ơ hoàn toàn với dân ca. Mà cái chính là làm sao để cho giờ dạy dân ca hấp dẫn được các em. Thực tế hiện nay, trong chương trình giảng dạy âm nhạc của tiểu học và trung học cơ sở, dân ca còn ở mức độ khiêm tốn: ở cấp trung học cơ sở, có 7 bài chính khóa và 4 bài học thêm tự chọn, ở cấp tiểu học, 12 bài chính khóa và 6 bài học thêm tự chọn. Thạc sỹ Tố Mai cho rằng: “Với thời lượng khiêm tốn đó thì mong muốn học sinh phổ thông biết nhiều bài hát dân ca và thực sự yêu âm nhạc dân tộc khó thành hiện thực. Vốn kiến thức sơ đẳng về dân ca Việt Nam nói chung của các em rất hạn chế” [4]. Dân ca là liên quan đến môi trường diễn xướng như: cây đa, bến nước, sân đình… Nhiều nhà nghiên cứu đã xác định, muốn việc dạy và học dân ca trong trường phổ thông phát huy hiệu quả, cần phải đặt vấn đề diễn xướng như một phương pháp dạy. Tuy nhiên, hiện nay, việc dạy chay vẫn là hiện tượng phổ biến tại các trường học: lên lớp tập thể, học thuộc lời, hát đúng giai điệu là xong. Giáo viên ít sử dụng phương pháp diễn xướng. Phần lớn giáo viên dạy theo sách giáo khoa, kết quả dừng lại ở việc thuộc lòng bài hát, làn điệu. Tiết học nhạc khô cứng, thiếu hấp dẫn, khó tiếp thu.
Hiện nay nhiều nhà trường, nhiều địa phương đã chú trọng nâng cao hiệu quả giảng dạy dân ca bằng cách kết hợp cả chương trình chính khóa và các hoạt động ngoại khóa như: câu lạc bộ dân ca, thi hát dân ca, sáng tác lời mới cho dân ca… Các hoạt động này thu hút được sự tham gia của đông đảo học sinh, đưa các em đến gần hơn với dân ca, giúp các em chủ động nắm bắt và thể hiện dân ca như một niềm đam mê nghệ thuật của bản thân.
Tuy nhiên, trong đời sống xã hội hiện đại, thanh thiếu niên có nhiều điều kiện để tiếp nhận âm nhạc hiện đại, đam mê những trào lưu âm nhạc mới, thì việc lưu giữ lòng yêu thích với dân ca một cách lâu dài, bền vững là rất khó khăn. Điều này đòi hỏi các nhà giáo dục phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của từng lứa tuổi để đưa ra những nội dung giáo dục phù hợp, có tính hệ thống.
4. Hiệu quả giáo dục:
Một nhà giáo dục cho rằng: “Các xã hội càng ngày càng biến đổi nhanh lên, do đó mà có nguy cơ ngày càng cao xuất hiện cái khoảng cách giữa tri thức muốn truyền đạt tới trẻ em và thực tiễn cuộc sống ở chính những xã hội đang biến đổi nhanh chóng ấy” [1, tr. 18], và để đạt được hiệu quả giáo dục, John Dewey đề xuất “người học sẽ càng học giỏi hơn nếu được tham gia vào sự vận hành của môi trường sống” [1, tr. 18]. Quan điểm này của Dewey dẫn chúng ta tới một kết luận liên quan là: việc đưa dân ca vào trường học không chỉ mang lại hiệu quả trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể mà còn trong công tác giáo dục nghệ thuật, giáo dục giá trị thẩm mỹ, đạo đức cho học sinh. Thậm chí, hiệu quả giáo dục của dân ca sẽ được đánh giá cao hơn.
Trong thời gian vừa qua, ngành giáo dục đã gây ra nhiều tranh cãi liên quan đến việc dạy và học môn sử. Có nhiều lý do để giải thích cho tình trạng này, tuy nhiên, xét từ góc độ liên quan đến giảng dạy nghệ thuật, chúng ta thấy rằng, một trong những lý do quan trọng là do thiếu có sự liên hệ thực tiễn giữa lịch sử trong sách giáo khoa và trải nghiệm thực tế của học sinh. Với trường hợp của dân ca như ví giặm, các bài học lịch sử sẽ trở nên hấp dẫn, sinh động và gẫn gũi với học sinh Nghệ An, Hà Tĩnh và từ đó dẫn đến hiệu quả giáo dục cao hơn khi nó có những mối liên hệ với Nguyễn Du, Phan Bội Châu và Bác Hồ, hay môn học địa lý sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi nó liên hệ với các địa danh của tỉnh nhà thông qua lời ca ví giặm. Các môn học khác cũng có thể tìm thấy những nội dung tương tự trong vốn ca từ phong phú của dân ca ví giặm này.
Khi dân ca đã giúp nhà trường định hướng được giá trị thẩm mỹ của học sinh, góp phần giáo dục các giá trị đạo đức, xây dựng nhân cách của học sinh thì có nghĩa là dân ca đã có ý nghĩa lớn lao trong tâm hồn của thế hệ trẻ. Và lẽ tự nhiên như thế, dân ca sẽ được chính thế hệ trẻ bảo tồn, gìn giữ và phát huy như giá trị của dân tộc mình, quê hương, gia đình và chính bản thân mình.
Kết luận
Như vậy, trong số nhiều giải pháp khác nhau để bảo tồn và phát huy giá trị dân ca trong bối cảnh xã hội đương đại như bảo tồn tại cộng đồng, thông qua truyền dạy trực tiếp, lưu giữ bằng văn bản, băng hình... thì cùng với đó, giải pháp đưa dân ca vào trường học là một trong những cách thức bảo tồn và phát huy giá trị di sản quan trọng. Tuy nhiên, không thể có một cách áp dụng máy móc việc giảng dạy dân ca – với tư cách là một truyền thống văn hóa địa phương, một di sản văn hóa phi vật thể - như các loại hình nghệ thuật khác, mà việc giảng dạy dân ca – như trường hợp ví giặm - cần thiết phải được đặt trong bối cảnh nhà trường, chú ý đến các yếu tố như mục tiêu, nội dung giáo dục, đối tượng tham gia và hiệu quả đào tạo trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản đặc biệt này của địa phương.
Tiếp cận từ góc độ quản lý giáo dục giúp chúng ta có thêm một cách nhìn về việc đưa di sản vào nhà trường, nhờ đó, di sản được thực sự sống trong bối cảnh xã hội đương đại, được bảo tồn và phát huy trong chính cộng đồng của mình. Trong điều kiện như vậy, di sản văn hóa – trong trường hợp này là dân ca ví giặm – có điều kiện để vừa tạo ra một lớp khán giả mới, hiểu, yêu thích chính di sản văn hóa của chính mình, vừa tạo ra các cơ hội để được thực hành trong cuộc sống hiện tại. Đó là một trong những nguyên tắc giúp bảo tồn di sản văn hóa địa phương một cách bền vững nhất!
Tài liệu tham khảo
.........................................
298
2488
21610
228162
131673
114612910