Một quan điểm ngây thơ về việc rúp sụt giá khủng sẽ là: khi sức tiêu thụ ngoại hóa bị giảm, hàng nội rồi sẽ chiếm chỗ của hàng ngoại nhập. Nhưng sự việc đâu có giản đơn như thế. Nước Nga còn phải trả giá đắt cho màn tiêu pha nhộn nhịp những năm gần đây.
Năm2010 giốngnăm1980 đếnđâu
Kinh tế Nga đang sưng phồng do khủng hoảng. Độc quyền của nhà nước về truyền thông cho phép làm cho chứng bệnh này (khủng hoảng kinh tế) nhòe đi, vẫn nhờ những cú “nổ” rền vang (раскаты - ý nói những tuyên bố từ Kremli). Nhưng những “súng giảm thanh” này trên thực tế đâu có giúp khắc phục khủng hoảng, mà chỉ phân bổ lại những khoản phải trả giá cho nó. Cuộc mất giá tháng 10 (2014) của đồng tiền Nga được Paul Krugman gọi là một hiện thâncủa nền kinh tế vĩ mô phe nhóm (клановaя макроэкономикa).
Nhưng cái mà chúng ta quan tâm đến, nói riêng, không phải là những chi phí và hậu quả của cuộc phiêu lưu địa chính trị, mà là các cơ chế kinh tế khiến cuộc khủng hoảng kinh tế này tiến triển. Thật là đầy nghịch lý, nhưng cơ chế căn bản của cuộc khủng hoảng hiện tại lại không mấy khác với những gì đã khởi động quá trình tan rã của kinh tế Liên Xô thập kỷ 80. Điều này không có nghĩa là kinh tế Nga cũng tồi tệ như thế. Hiện tại nó tốt hơn kinh tế Liên Xô nhiều. Có điều kinh tế xô viết những năm đầu 1980 dù không hiệu quả, lại có vẻ hoàn toàn vững chãi. Còn hôm nay lại nghe những ai bi quan vừa phải, nói như thế về nền kinh tế Nga: ờ, dù không hiệu quả, nhưng sẽ còn đứng được lâu cho mà xem.
Kênh cơ bản để sốc từ bên ngoài truyền vô thành khủng hoảng quốc nội, giống như những năm 80, là nhập khẩu, đúng hơn là sự không có khả năng kiểm giữ nhập khẩu ở mức như trước đó. Thời ấy điều này (sốc) có phần do nhập khẩu hàng tiêu dùng, nhưng chủ yếu do khâu nhập khẩu lúa mì, nhờ đó mà ngành (cung cấp) lương thực đứng được. Còn nhớ tới ngưỡng cửa thập niên 80 Liên Xô đã là nhà nhập khẩu lúa mì lớn nhất thế giới. Thời đó hàng nhập chỉ tập trung ở một số lĩnh vực, nhưng lại đóng vai trò sống còn.
Hôm nay nhập khẩu loang ra trên khắp nền kinh tế, chỗ đậm, chỗ nhạt hơn. Trong sự tương đồng về cơ chế của hai cuộc khủng hoảng (ở LX những năm 1980, và ở Nga hiện nay) không thấy có điều gì kỳ quái: trong cả hai trường hợp đều đề cập tới một quốc gia (sống nhờ) tài nguyên vừa bước ra từ thời kỳ giá dầu cao. Sự lệ thuộc vào nhập khẩu là một trong những hiện thân của chứng “nghiện” tài nguyên. Trong trưởng hợp của nước Nga hôm nay, chứng bệnh này nặng thêm, khi thu nhập từ dầu khí phần lớn được tiêu xài hơn là đầu tư (cho nền sản xuất).
Chân ga của tăng trưởng kinh tế Nga từng là tăng mức tiêu dùng trong nước (tăng GDP nhờ tăng tiêu xài hàng hóa, thực phẩm, dịch vụ…). Tăng thu nhập và nân ggiá của đồng rúp đã làm tăng tính cạnh tranh của (hàng) nhập khẩu trên thị trường nội địa, gia tốcsự tăng kim ngạch hàng nhập khẩu. Vào năm 2003 kim ngạch hàng nhập tại Nga mới đạt 60 tỉ USD, nhưng tới 2013 đã lên 340 tỉ Mỹ kim. Nhìn toàn cục, giai đoạn 2003 – 2013 nhịp độ tăng trung bình hàng năm của kim ngạch nhập khẩu là 19%, còn trên thực tế (có xét tới tăng giá hàng nhập) là 13%. Rõ ràng con số nàylớn hơn nhiều so với nhịp độ tăng trung bình hàng năm của (tổng giá trị hàng) công nghiệp Nga– 3,7%.
Vào năm 2013, theo số liệu Ủy ban thống kê toàn Nga, tỉ trọng hàng nhập khẩu trong thương nghiệp bán lẻ là 44%, còn trong ngành kinh doanh lương thực, là 36%. Điều này phản ánh thực tiễn: năm 2013 đã có lượng hàng trị giá 340 tỉ USD nhập vào Nga, cùng kỳ tổng giá trị công nghiệp khai khoáng của Nga là 850 tỉ, còn tổng doanh thu nhờ buôn bán đạt 725 tỉ USD. Tuy đây chưa phải là biểu đồ chính xác của sự lệ thuộc vào hàng nhập khẩu, nhưng giúp ta nhận thấy quy mô của nó: giá trị hàng nhập khẩu chiếm tới 40 phần trăm tổng trị giá hàng hóa sản xuất tại Nga, nếu ta khấu trừ khoản (thu nhập từ) nguyên liệu khỏi lõi.
Chỉ còn hai trong ba mặt hàng
Đồng rúp bị mất giá hai lần so với đô la khiến chi trả của các doanh nghiệp Nga tính bằng rúp cho hàng nhập cũng tăng gấp đôi. Một cái nhìn khù khờ về tiền rúp rớt giá là: sức tiêu thụ hàng nhập khẩu giảm đi, hàng nội sẽ dần thế chỗ của nó. Sự đời đâu có đơn giản thế. Vấn đề là hàng ngoại nhập tiêu dùng ngay được hiện chiếm tỉ lệ ít hơn nhiều trong tổng lượng hàng ngoại hóa, nếu so với những năm đầu thập niên 2000. Tỉ trọng hàng nhập có thể tiêu dùng ngay đã giảm, từ 46% của năm 2005 xuống 37,5% của năm 2013, còn tỉ trọng hàng bán thành phẩm (nhập về gia công thành sản phẩm) và hàng hóa dưới dạng vốn đầu tư dĩ nhiên tăng lên.
Nhìn chung đây là quá trình tích cực, có thể khái quát như công cuộc nội địa hóa: nền kinh tế sẽ nhập khẩu các máy cái, các phụ tùng và vật liệu, được đưa vào Nga dưới dạng hàng hóa. Quá trình này đã là quen thuộc, ví dụ trong lắp ráp ô tô, trong ngành sản xuất các hàng điện tử dùng cho sinh hoạt, các loại đồ gỗ cao cấp, một số thực phẩm, và trong may mặc. Hơn nữa tăng trưởng kinh tế Nga trong 10 năm gần đây cũng dính đáng kể với khâu “nội địa hóa” hàng nhập khẩu này.
Chính nhờ nội địa hóa mà các ngành công nghiệp ô tô, sản xuất hàng điện và hàng điện tử, và công nghiệp nhẹ Nga thể hiện một tăng trưởng đầy ấn tượng. Cũng chính tại đây, nền công nghiệp Nga giống với Trung quốc nhưng “lộn trái”: ở bển cũng nhập vào những linh phụ kiện, vật liệu để lắp ráp; tuy thế, khác với Trung quốc là nước gửi hàng lắp ráp của mình ra nước ngoài, Nga lại tiêu dùng lượng hàng lắp ráp này trong nước.
Đây là một hình thái nữa của sự kỳ dị ( phenomen – của kinh tế Nga), mà Alexei Kudrin (Bộ trưởng tài chính Nga 2000 – 2011) và Evsei Gurvich (Thành viên Hội đồng Kinh tế của tổng thống Nga) trong bài báo gần đây của họ đã gọi là sự “tăng trưởng” nhờ nhập khẩu.Nhưng từ đây chuyện gì sẽ xảy ra? Tại mô hình cũ “thay thế hàng nhập khẩu” trên nền một đồng rúp yếu, tình hình như sau: trên các quầy hàng có hai mặt hàng nội (chất lượng kém hơn), và một mặt hàng ngoại (đắt giả hơn). Sau cú sốc rúp rớt giá hàng ngoại trở thành không có sức cạnh tranh (nhu cầu về hàng ngoại trở nên khó thanh toán do đô cao), và nó dần dà sẽ bị hàng nội thế chỗ.
Trong mô hình (thay thế hàng nhập khẩu) hôm nay, trên quầy hàng có ba mặt hàng tương tự được bày, trong từng mặt hàng mức độ nhập khẩu du di. Vì rúp sụt giá khủng, chúng đắt lên với tỉ lệ tương ứng (với mức độ ngoại nhập tiềm tàng bên trong từng mặt hàng nội). Nhu cầu thanh toán được bị làm co lại đến mức (người mua chỉ) còn hai mặt hàng, nghĩa là “giảm biên” không chỉ diễn ra với hàng ngoại nhập và với yếu tố ngoại trong mặt hàng nội thứ ba, mà còn xảy ra nền với sản xuất nội địa. Nhìn tổng quát, rúp mất giá không chỉ dẫn tới tăng giá cả ghê gớm, mà còn dẫn đến giảm thiểu nghiêm trọng nền sản xuất trong nước, và cắt giảm công ăn việc làm. Vấn nạn này, đến lượt nó, hẳn sẽ xoắn mạnh hơn lò so của suy sụp: sụt giảm sức tiêu thụ dẫn đến co hẹp nền sản xuất, cắt giảm công ăn việc làm khiến sức tiêu thụ càng chắt bóp hơn.
Trả giá vì ăn tiêu xả láng
Đồng thời cố gắng kích cầu tiêu thụ dễ dẫn đến nguy cơ lạm phát, hơn là khuyến khích sản xuất. Như đã nói ở đầu bài, nguyên nhân của lệ thuộc vào nhập khẩu là do bẻ cong cán cân theo hướng thuận cho tiêu dùng, mà bất lợi cho khâu đầu tư. Muốn nắn lại chỉ còn mỗi cách: làm sao hướng dòng tiền về hướng đầu tư, về hướng các nguồn lực mới. Trong trường hợp ngược lại - cố kích cầu, anh lại chỉ kích giá cả vọt lên.
Hiện thời, đạt hiệu quả đầu tư nhờ học thuyết sáng tác mưu đồ “chống phương Tây” và các chuyện kể về “bè lũ quân phiệt Kiev” đâu có dễ. Dòng tiền đâu có xem Kênh truyền hình trung ương Nga rồi mới chảy. Dĩ nhiên là có một phương cách nữa, đó là thay thế khâu nhập khẩu bằng đầu tư của nhà nước, một cách phi thị trường và phi tự nhiên,. Đại khái là “tự sản tự tiêu” kiểu Nga (nguyên văn Cделай сам – tên cửa hàng vật liệu bán thành phẩm thời Liên Xô). Trên thực tiễn điều này hẳn có dạng một cuộc nhà nước mua ồ ạt các thiết bị nhập khẩu để sản xuất các phụ kiện mà trước đó phải nhập khẩu.
Chính ý tưởng này đã hiện trong đầu ban lãnh đạo xô viết vào cuối những năm 1980, khi BLĐ này tích cực mua sắm thiết bị nhập khẩu để hiện đại hóa khu vực hàng tiêu dùng. Nhưng nỗ lực thực hiện ý đồ này trong điều kiện thu nhập do xuất khẩu sụt giảm tất dẫn tới biến khủng hoảng kinh tế thành suy sụp về tài chính. Đất nước sẽ còn phải trả giá đắt về cuộc tiêu pha vung tay quá trán những năm vừa rồi. Nền kinh tế, trong nỗ lực tìm lại thế cân bằng sẽ buộc phải giật lùi về phía sau.
Cấu trúc của nền kinh tế dựng trên một đồng rúp đắt giá hôm nay không còn sức sống. Chính khoản “lại quả” này sẽ tất yếu biến chính phủ trong mắt dân cư thành ông vua cởi truồng. Chính vì thể mà chính phủ đành phải gây rối nền kinh tế Nga trong quá trình nền kinh tế này tìm kiểm sự cân bằng mới, vì thế mà từng bước, từng bước sẽ biến khủng hoảng(crisis) thành đại họa(catastrophe).
Lê Đỗ Huy (dịch)