ĐỒNG TIỀN VÀ DI SẢN
Ngày nay, tiền bạc đã có sức mạnh chi phối cả các lĩnh vực thiêng liêng và có quyền uy tuyệt đối trong quá khứ như tôn giáo và khoa học, nhưng thực tế các di sản tinh thần trong tâm thức vẫn luôn luôn khống chế hoạt động của đồng tiền. Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa đồng tiền và di sản văn hoá, các học giả thế giới nhận thấy rằng những biến số như tôn giáo, chính trị, mật độ dân số và thái độ với con người còn ảnh hưởng vào ứng xử tài chính mạnh mẽ hơn các biến số như lãi suất hay mức lạm phát. Cải cách tôn giáo xảy ra sẽ làm sụt tỷ lệ tiết kiệm, lối sống trong một xã hội đô thị hoá có thể hạn chế những nỗ lực tích luỹ trong xã hội vì những giá trị tinh thần của một dân tộc có vai trò cơ bản trong thái độ tích luỹ của toàn dân. Thậm chí J. Le Goff, học giả người Pháp còn đi tìm trong các bài thuyết giáo thời Trung cổ những cơ sở của thái độ với việc nợ nần và việc cho vay lấy lãi hôm nay.
Trong khi người Mỹ luôn hướng tới tương lai với sự hình dung và lựa chọn các mô hình mới nhất, tốt nhất cần phải có thì người Châu Âu ngày xưa lại hướng về quá khứ để tìm kiếm các động lực văn hoá từ di sản và nhấm nháp hào quang cũ của những mô hình cũ. Đồng tiền của người Châu Âu cũng phải có chức năng của cái tủ lạnh cất giữ quá khứ để họ có thể tiêu tiền với hạnh phúc kép: vừa tự hào về di sản, vừa kiêu hãnh như đại gia.
Vì thế, khi đồng Euro còn đang nằm trong các chương trình nghị sự, đã không ít ý kiến trực tiếp hay gián tiếp hoài nghi ý nghĩa và giá trị của đồng tiền chung Châu Âu. Các học giả có người nói xa xôi rằng ngôn ngữ và đồng tiền là nơi cư trú cuối cùng của bản sắc vì trên đồng tiền luôn in hình các vị anh hùng dân tộc, không thể đổi thay, có người lại nghi ngại rằng việc thiết kế đồng tiền chung Châu Âu đã chứa sẵn một khuyết tật vì không thể có một đồng tiền chung khi chưa có một chính sách thuế khoá chung và một ứng xử tài chính giống nhau. Nghĩa là cần có một giá trị tinh thần thống nhất đằng sau đồng tiền chung để đảm bảo cho nó có một linh hồn ổn định. Ghê chưa!
DI SẢN CHUNG: TRỐN THUẾ VÀ SAY MÊ CỜ BẠC
Quả thật, lúc đó ứng xử tài chính của các dân tộc trong cộng đồng Châu Âu có nhiều điểm quá khác nhau. Các học giả nhận thấy rằng các hiệp sĩ đấu bò Tây Ban Nha, các bố già mafia Ý, các trí thức Pháp, các triết gia Ðức và các võ sĩ Anh...tiêu tiền, cho tiền, vay tiền và giữ tiền theo các cách rất khác nhau, họ chỉ có chung một thói xấu là...trốn thuế và say mê cờ bạc (!). Trong một hồ sơ về cộng đồng Châu Âu, các học giả đã khảo sát và khẳng định rằng tất cả các sắc dân châu Âu đều gian lận thuế, chỉ khác nhau là điêu luyện hay không điêu luỵên mà thôi. Ytalia tràn ngập các xưởng thợ bí mật, Pháp là Tổ quốc của những người trốn thuế TVA…Ở Ðức người ta than phiền về thu nhập thấp và tha lỗi trốn thuế cho nhau, còn ở Ytalia người ta trưng cờ mừng chiến thắng trốn thuế, báo chí còn coi trốn thuế là môn thể thao quốc gia đầy thú vị!
Cờ bạc ở châu Âu cũng thật phong phú và hấp dẫn chẳng khác gì trốn thuế. Các chủ casinô, các hãng cá ngựa và cá cược bóng đá, các loại sổ số loto đã làm thành ngành công nghiệp thứ 12 ở Châu Âu với doanh số khổng lồ - riêng năm 1990 là 46 tỷ ecu, 320 tỷ frăng Pháp. Những chính khách miệng ra rả lên án cờ bạc nhưng luôn đi tiên phong trong việc đưa tiền thuế cờ bạc vào ngân sách nhà nước. Thuế cờ bạc ở châu Âu không bao giờ dưới 50% doanh thu nên đã đem lại lợi nhuận lớn cho các nhà nước. Thậm chí, Ytalia và Tây Ban Nha đã có lúc khốn đốn chỉ vì thất thu thuế từ các sòng bạc không công khai. Các máy đánh bạc bỏ xu có âm nhạc réo rắt đặt trong tất cả các quán bar của Tây ban Nha đã đẻ ra một chứng bệnh quốc gia là bệnh ludopathie - nghiện những máy nuốt xìn. Các bà các cô đã say mê đánh bạc với các máy này đến mức huỷ hoại cả tổ ấm gia đình, nhiều người bị bệnh điên vì máy đánh bạc với những triệu chứng giống như bệnh nghiện ma tuý: buồn nôn, mửa, ngất...Người ta đã phải mở một dịch vụ riêng để chữa bệnh điên quái đản này. Hàng năm đã có hàng trăm bệnh nhân vào viện, nhưng chỉ có 30% trong số đó khỏi bệnh.
NỖ LỰC VƯỢT LÊN NHỮNG DI SẢN TRUYỀN THỐNG HỖN TẠP
Ở nhiều nơi trên thế giới người ta dễ dãi vớ lấy đồng đô-la làm chuẩn mực chung và lý tưởng chung của xã hội, bất chấp giá trị của nó lệ thuộc vào các xã hội khác và bất chấp những khác biệt văn hoá trùng điệp đằng sau nó. Thậm chí, người ta còn hồn nhiên coi những căn bệnh chung như tâm lý thực dụng, bệnh vọng ngoại và thói đua đòi sĩ diện xa hoa là nền tảng văn hoá mới của hoạt động tài chính, tương thích và đồng bộ với đồng đô-la! Thế nhưng, các trí thức Châu Âu đã trăn trở hướng tới một cuộc cách mạng trong văn hoá để vượt lên những di sản truyền thống hỗn tạp và bê bối, kiên trì suy tư giải quyết những vấn nạn văn hoá và xã hội để đi tới xây dựng một ứng xử tài chính thống nhất cho đồng tiền chung Châu Âu. Mỗi nước châu Âu cũng tự chọn những biểu tượng lịch sử văn hoá tiêu biểu của dân tộc mình để in trên đồng tiền chung.
Do giải quyết tốt những vấn đề phức tạp và tế nhị liên quan đến mối quan hệ giữa đồng tiền và di sản, giờ đây, cuộc cách mạng đồng tiền ở Châu Âu đã có những dấu hiệu thành công. Có những thời điểm đồng đô-la đang bị xuống giá, thì đồng Euro ngày càng tăng giá. Nhưng thật trớ trêu là người có công vẽ ra đồng tiền mới này lại đang phải đấu tranh để nhân loại biết rằng cái biểu tượng ba vạch trên chữ E ngược kia chính là do ông nghĩ ra. Điều đó thật đáng để người Pháp vẽ tranh châm biếm thói vô trách nhiệm của con người Châu Âu!
VIỆT NAM NÊN HỌC GÌ TỪ CHÂU ÂU?
Nếu như nước Nhật sáng tạo ra nhân vật Doremon vừa mang bản sắc Nhật Bản, vừa mang bản sắc xuyên quốc gia để chia sẻ với văn hoá đặc thù của các thị trường khác nhau trên thế giới, thì các nước châu Âu đã sáng tạo ra đồng tiền chung vừa mang bản sắc riêng của mỗi quốc gia, vừa mang bản sắc mới của cộng đồng chung. Họ không nhân danh cái đặc thù của bản sắc riêng, di sảnriêng để sống cô lập, mà vượt lên trên bản sắc và di sản ấy để đồng sáng tạo một liên minh chiến lược, một cộng đồng chung, một đồng tiền chung để có được những sức mạnh mới, tầm vóc văn hoá mới.
Việt Nam hôm naylại có vẻ như đang đi ngược lại con đường phát triển và hội nhập mà Nhật Bản, Hàn Quốc và Châu Âu đã đi và đến đích thành công. Chúng ta có vẻ như đang chúi mũi vào di sản, hay giả vờ bảo vệ di sản để khai thác nó một cách thực dụng, đóng hộp nó một cách xô bồ, huỷ hoại nó một cách thiếu hiểu biết bằng cách phục dựng, trùng tu tuỳ tiện, thiếu chọn lọc, sai mẫu gốc cả về kích cỡ, kiểu dáng và thần thái; vừa đánh mất hồn vía tâm linh, nhân văn và thẩm mỹ truyền thống của những chùa chiền, lễ hội này; vừa không tôn trọng, thậm chí còn thách thức những nguyên tắc ứng xử chung của các cộng đồng quốc tế mà Việt Nam tham dự.
Cụ thể, khi tổ chức Bảo vệ Động vật lên tiếng về Lễ hội chém lợn, dư luận trong nước cũng hưởng ứng, thì các GS, TS khoa học đua nhau viết bài hay trả lời phỏng vấn thoá mạ những người phản biện việc phục dựng các lễ hội man rợ này là dốt nát, tự ty, mặc cảm về văn hoá truyền thống. Sau đó, trước phản ứng mạnh mẽ của dư luận trong nước, họ lại đổ lỗi cho Tổ chức quốc tế khi cho rằng vì những đề nghị “này nọ” của Tổ chức này mà dân làng Ném Thượng đã bỏ tục chém lợn mấy năm nay lại quay lại tiếp tục mở hội hoành tráng hơn vì tự ái. Thật ngạc nhiên khi các GS-TS văn hoá học và khoa học nhân văn lại cắt nghĩa nguyên văn tiêu vong và phục hồi của các hiện tượng văn hoá như một hành vi nặng tính cá nhân ngẫu hứng từ tâm lý bùng phát nhất thời của một nhóm, chứ không phải từ những thôi thúc thẳm sâu của vô thức cộng đồng dân tộc. Cách nhìn, cách cắt nghĩa và cách phản ứng với những ý kiến phê phán của dư luận xã hội - cũng là từ những thành viên của cộng đồng văn hoá Việt, phản biện lễ hội phục dựng từ những tiêu chí văn hoá nhân bản truyền thống và những tiêu chí phát triển, hội nhập của thời đại - cho ta thấy trình độ và trách nhiệm của các nhà khoa học này đáng báo động.
Việc vận dụng truyền thống đề thơ, cho chữ, viết câu đối hiện nay cũng bị lạm dụng, sử dụng tuỳ tiện sai với bản chất văn hoá tâm linh truyền thống. Chẳng hạn, người xưa đề thơ, viết câu đối lên chùa chiền, núi non là xuất phát từ cảm hứng thiêng liêng bột phát “tức cảnh sinh tình” của thi nhân, khác hoàn toàn với việc đề thơ, cho chữ theo dự án, hợp đồng hay chỉ thị đang diễn ra liên tục những năm gần đây như một cái mốt có dáng dấp trọc phú muốn tỏ ra hay chữ, hay tệ hơn, như một thứ kinh doanh chữ nghĩa, mạo danh truyền thống dẫn đến những tình huống dở khóc dở cười vì chữ nghĩa ngô nghê, xúc phạm cả người được cho chữ mà không biết. Thậm chí, có người còn to gan nhân danh bảo vệ văn hoá dân tộc để viết lại “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, thay những điển tích bằng những chữ ngô nghê thô thiển rồi cho xuất bản với lời giới thiệu hưởng ứng của một vị Giáo sư lừng danh!
Việt Nam cần học Châu Âu để nghiêm khắc nhìn lại thực trạng văn hoá suy đồi hỗn tạp vừa lai căng vọng ngoại vừa bảo thủ thực dụng hôm nay để có biện pháp hạn chế dần và chấm dứt các hành vi văn hoá tuỳ tiện nhếch nhác nhân danh văn hoá truyền thống để tung ra những lý lẽ vừa bảo thủ vừa coi thường xã hội, coi thường thế giới để biện hộ cho các dự án phục dựng lễ hội và tục lệ một cách tuỳ tiện thiếu chọn lọc, phản tiến bộ, phản nhân văn, đi ngược hoàn toàn với những nguyên tắc đổi mới và hội nhập của Việt Nam hôm nay./.