Nhìn ra thế giới

Căng thẳng trên biển Đông liệu có châm ngòi cho một cuộc thế chiến mới?

Thời gian qua tình hình biển Đông lại đốt nóng dư luận quốc tế mà khởi nguồn của nó xuất phát từ những động thái của Mỹ trước việc Trung Quốc tiến hành bồi đắp, xây dựng các đảo đá nhân tạo. Vòng tròn hành động và phản ứng của hai nước đang dấy lên sự nghi ngại: liệu căng thẳng có dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới?

Những động thái mới trên biển Đông

Tranh chấp biển Đông là một vấn đề đã nổi lên từ sau Thế chiến II, tuy nhiên đến TK XXI mới trở nên nghiêm trọng. Từ năm 2009, những động thái của Trung Quốc trở nên ngang ngược và bất chấp luật pháp quốc tế hơn. Đỉnh điểm là năm 2011, Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough của Phillipines và năm 2014, hạ đặt giàn khoan HD- 981 trái phép vào vùng biển chủ quyền Việt Nam. Từ tháng 3 năm 2014, Trung Quốc bắt đầu cải tạo đảo, đá trên quy mô lớn và đến nay đã xây dựng 7 đảo nhân tạo với diện tích cải tạo khoảng 800 hađồng thời lắp đặt trang thiết bị quân sự tại đây. Trong một báo cáo, Phillipines cho hay, “trung bình mỗi ngày,Trung Quốc xây thêm 96,5m2 trên biển Đông”. Việc đẩy nhanh cải tạo các đảo đá, xây dựng các công trình phục vụ quân sự của Trung Quốc đã khiến Mỹ phải lên tiếng và đã có những hành động can thiệp. 

Từ 11/5, Mỹ phái tàu chiến ven biển USS Forth Worth tới tuần tra ở Biển Đông, đồng thời phái một máy bay trinh sát không người lái và một trực thăng Seahawk để tuần tra vùng trời ở các vùng biển có liên quan. Mỹ cũng cử máy bay P8- A Poseidon, một loại máy bay tuần tra do thám hiện đại nhất sang tuần tra khu vực. Trung Quốc đã có hành động xua đuổi tàu chiến Mỹ và 8 lần phát cảnh báo tới máy bay tuần tra của Mỹ. Hành động của hai bên khiến quan hệ trở nên căng thẳng. Người ta thậm chí đã vẽ nên những kịch bản có thể dẫn đến va chạm giữa Mỹ và Trung Quốc. Mỹ cũng đã dự kiến ba hướng triển khai tàu chiến vào biển Đông với việc huy động hạm đội 7, Hạm đội 5 và hạm đội 3.

Tình hình biển Đông cũng đã đốt nóng đối thoại Shangri- La vừa diễn ra tại Singapore. Tại đây các nước đã lên án hành động của Trung Quốc và đặt ra nhiều câu hỏi trong khi quốc gia này lại lảng tránh. Bộ trưởng Quốc phòng Nhật bản cảnh báo hoạt động xây đảo nhân tạo có thể đẩy khu vực vào hỗn loạn và kêu gọi Trung Quốc ứng xử có trách nhiệm. Bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ Ashton Carter tuyên bố Mỹ phản đối bất kì hành động hành động quân sự hóa nào thêm tại các vùng tranh chấp, yêu cầu phía Trung Quốc dừng ngay và vĩnh viễn hoạt động xây cất nhân tạo. Đô đốc Tôn Kiên Quốc đã bác bỏ những chỉ trích của Mỹ và khẳng định hành động của họ là hợp pháp, hợp lí. Biển Đông cũng tiếp tục là chủ đề gây sự chú ý tại Hội nghị G7. Những căng thẳng tại đây đang dấy lên mối quan ngại một va chạm, đụng độ vô ý hay cố ý có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh trên quy mô toàn cầu.

Sự chồng chéo, phụ thuộc lẫn nhau về lợi ích của các quốc gia tại biển Đông

Giá trị kinh tế và ý nghĩa về an ninh, quân sự của biển Đông cùng những tính toán lợi ích và mối quan hệ giữa các bên đã đẩy mâu thuẫn tại đây trở nên dai dẳng song lại khó có thể bùng lên thành một cuộc chiến tranh.

Trước hết hãy nói về Mỹ và Trung Quốc. Lợi ích ở biển Đông nằm trong mục tiêu chiến lược mà Mỹ đã xác định từ thế kỷ XIX: muốn trở thành người lãnh đạo thế giới phải chinh phục được châu Á mà trước hết là biển cả. Biển Đông cũng là mắt xích quan trọng trọng hệ thống quân sự ven biển của Mỹ ở châu Á, là tuyến đường giao thông quan trọng trong hệ thống phòng thủ của Mỹ nhằm đối phó với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống như chống hải tặc và khủng bố, đặc biệt tại eo biển Malacca. Từ năm 1995, Mỹ đã khẳng định: “Việc không ngăn cản sự tự do di chuyển của mọi loại thuyền bè và máy bay trên Biển Đông là rất cần thiết cho hòa bình và thịnh vượng của toàn khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó bao gồm cả Mỹ.” Mỹ có những hành động can thiệp vào biển Đông trước hết để tái khẳng định chính sách xoay trục về châu Á. Đây cũng là cơ hội để chính quyền Obama củng cố lòng tin với các nước đồng minh trong khu vực. Trước khi một cuộc bầu cử tổng thống mới diễn ra chắc chắn Obama sẽ không để xung đột leo thang thành đụng độ quân sự vì nó có thể bất lợi đối với các ứng viên trong Đảng của ông trong cuộc bầu cử tới. Những hành động gần đây của Mỹ không phải để hối thúc một cuộc chiến tranh mà chỉ nhằm răn đe và muốn Trung Quốc nhận ra vai trò lãnh đạo không thể thay đổi của họ.

Phía Trung Quốc, nước này cũng không dại dột gì để va chạm quân sự với Mỹ hay các đồng minh của nước này khi có lẽ chính bản thân họ cũng cảm nhận được sự cô độc của mình trên trường quốc tế trong vấn đề biển Đông. Tuy nhiên tham vọng xây dựng giấc mơ Trung Hoa chưa bao giờ dừng lại. Nhất là Trung Quốc đã xác định biển Đông là hòn đá tảng về sức mạnh biển. Đây là nơi thuận lợi nhất để quốc gia này vươn ra, trở thành một cường quốc về biển khi mà các cửa ngõ khác đều gặp phải những trở ngại: Phía Đông là sự tồn tại của đồng minh Mỹ- Nhật- Hàn, phía Tây Nam là Ấn Độ và Myanmar.

Hai nước này cũng có những mối ràng buộc khiến không ai muốn đẩy mâu thuẫn hiện có thành chiến tranh. Trung Quốc là một thị trường lớn đầy hấp dẫn của Mỹ, là chủ nợ nắm giữ một lượng lớn trái phiếu chính phủ của Mỹ. Bên cạnh đó Mỹ cần Trung Quốc trong việc nâng tỷ giá đồng nhân dân tệ để tránh thâm hụt thương mại cho nền kinh tế và cần sự ủng hộ và hợp tác của Trung Quốc trong việc giải quyết các điểm nóng như vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề Iran; các vấn đề toàn cầu; củng cố các cơ chế quốc tế, các diễn đàn đa phương, đặc biệt là cơ chế P5 trong Hội đồng bảo An Liên Hợp Quốc, tránh để Trung Quốc sử dụng quyền phủ quyết làm tổn hại lợi ích.

Phía Nhật Bản, ngoài việc biển Đông là đầu mối vận tải biển quan trọng và có  nguồn tài nguyên dồi dào, can thiệp vào biển Đông giúp Nhật duy trì ảnh hưởng, tạo thế tốt hơn trong tranh chấp chủ quyền đảo Senkaku/ Điếu Ngư.

Ấn Độ và Nga cũng có những lợi ích chiến lược tại khu vực này. Ấn Độ đang cạnh tranh vị thế và tầm ảnh hưởng với Trung Quốc trong khu vực. Tính toán trên biển Đông nằm trong chính sách chính sách hướng Đông mà quốc gia này đang tích cực triển khai. Trong thời kì căng thẳng gia tăng với Mỹ và các nước phương Tây, liên kết với Trung Quốc và hướng về châu Á là một bước đi khôn ngoan của Nga. Quốc gia này cũng không thể chối bỏ những lợi ích kinh tế tại biển Đông.

Đối với các quốc gia Đông Nam Á, biển Đông không chỉ có ý nghĩa đối với các bên trực tiếp có tranh chấp về chủ quyền mà còn với những nước còn lại. Duy trì hòa bình, an ninh trên biển Đông sẽ đảm bảo cho sự ổn định và phát triển kinh tế của khu vực. Bên cạnh những bất đồng, một số nước ASEAN lại đang phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, nhất là với kế hoạch đầu tư của ngân hàng AIIB.

Ngoài những tính toán riêng, các quốc gia trên đều nhận thấy lợi ích của mình trong những giá trị kinh tế trên biển Đông. Biển Đông là nơi xuyên qua của các luồng thương mại quốc tế với 5 trên 10 tuyến hàng hải chính trên thế giới và được xác định là một trong 10 vùng biển có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới. Theo Bộ Năng lượng Mỹ, trữ lượng dầu mỏ ở biển Đông khoảng 7 tỷ thùng dầu, trong khi Trung tâm khảo sát địa chất Mỹ ước tính tổng trữ lượng dầu mỏ bao gồm cả những nguồn năng lượng đã được khám phá và tiềm tàng ở ngoài khơi biển Đông khoảng 28 tỷ thùng. Trung Quốc tuyên bố trữ lượng có thể lên tới 200 tỷ thùng.

Quốc gia nào cũng có lợi ích tại biển Đông nhưng họ không thể đơn phương hành động khi quan hệ quốc tế hiện nay đang khiến các bên phụ thuộc vào nhau hơn. Nguồn tài nguyên trên biển Đông cần sự hợp tác khai thác, con đường hàng hải cần được đảm bảo lưu thông. Một khi có chiến tranh xảy ra thì không chỉ một mà tất cả các bên đều bị tổn hại.

Căng thẳng chưa thể phát triển thành chiến tranh trong vòng 2 năm tới!

Thực tế cho thấy, những căng thẳng thời gian qua đang dẫn đến một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, tạo nên những mối liên kết, tập hợp lực lượng mới song chưa thể khiến bùng lên một cuộc chiến tranh. Dự báo này ít nhất là đúng cho 2 năm tới.

Theo Tạp chí Quốc phòng IHS Janes, chi tiêu quốc phòng tại Đông Nam Á sẽ lên đến 58 tỉ USD trong vòng 5 năm tới, trong đó chi lớn nhất cho hải quân. Tại Singapore, trong một triển lãm phong thủ biến IMDEX, các quốc gia cũng đã gặp gỡ những nhà thầu để trao đổi về việc mua vũ khí từ Mỹ, Israel, các nước châu Âu.

Cùng với hoạt động mua sắm trang thiết bị quân sự, các quốc gia đã hình thành những mối liên kết, tiến hành tập trận chung. Liên kết đang định hình rõ nét thành hai phía, một bên là Mỹ và bên kia là Trung Quốc. Ngày 31/05, bốn tàu chiến của Hải quân Ấn Độ đã có mặt tại biển Đông để tham gia tập trận chung với 5 nước ASEAN. Cũng trong ngày này, Mỹ, Nhật Bản, Australia đã có đối thoại Bộ trưởng Quốc phòng ba bên. Trong tuyên bố chung các quốc gia này đã nêu rõ sẽ củng cố liên minh chặt chẽ hơn nữa. Nhật Bản và Australia khẳng định sẽ phối hợp với Mỹ đưa máy bay tuần tra trên biển Đông cùng các nước khác hành động kìm hãm việc cải tạo của Trung Quốc. Những động thái của Trung Quốc cũng đã khiến quan hệ Việt Nam- Philippines, Việt Nam- Nhật Bản, Việt- Mỹ được thắt chặt. Ngoài mối quan hệ gần như đồng minh với Nga hiện nay, Trung Quốc dường như càng phản ứng mạnh mẽ càng trở nên cô độc.

Tuy nhiên tình hình trên chưa dẫn đến một cuộc đụng độ vũ trang quy mô lớn tại thời điểm này. Trước hết vì sự phụ thuộc lợi ích và tính toán của các bên như đã nêu ở trên. Thứ hai, những sự kiện nổ ra chưa khép đẩy tình hình đến mức phải nổ ra chiến tranh như lẽ tất yếu. Đối chiếu với thời điểm xảy ra Thế chiến I, ở biển Đông hiện nay cũng chứng kiến sự trỗi dậy và những hành động ngang ngược của Trung Quốc tương tự Đức với tham vọng vươn lên xây dựng hải quân lớn thứ hai thế giới để từ đó đưa quốc gia mình thành một cường quốc vào năm 1911. Các quốc gia dù chưa rõ nét nhưng đã có xu hướng liên kết thành hai phía, một bên là Mỹ và một bên là Trung Quốc. Tuy nhiên, các liên minh còn đảm bảo được tính linh hoạt tương đối chứ không tự trói mình quanh hai cực (một bên là Anh và bên kia là Đức) làm cho tính linh hoạt của các liên kết mất đi và khả năng chiến tranh đẩy lên cao như thời điểm nổ ra Thế chiến I. Đặc biệt, yếu tố cá nhân lãnh đạo hoàn toàn khác biệt so với trước đây. Những nhà lãnh đạo hiện nay có sự tính toán kĩ lưỡng trong từng bước đi, nhìn nhận rõ những lợi ích quốc gia dân tộc và trách nhiệm với cộng đồng quốc tế chứ không còn là những vua Wilhelm II của Đức, Nga hoàng Nicolas II, Hoàng đế Áo- Hung Franz Josef kém tài và độc đoán trước kia. Điều này giúp cho những nguyên nhân khác không bị đẩy lên châm ngòi cho một cuộc chiến.

Với tranh chấp ở biển Đông, Mỹ cũng như cộng đồng quốc tế hiện nay không biệt lập hay làm ngơ trước bước đi ngạo mạn của Trung Quốc (như Mỹ từng làm khiến hành động xâm lược có kế hoạch của Hitler được dung dưỡng, góp phần đẩy thế giới vào Thế chiến II) mà đã tạo thế kìm hãm, răn đe trước các hành động đi quá xa của nước này. Đồng thời Liên Hợp Quốc ngày nay đã có cơ chế hoạt động hiệu quả hơn Hội quốc liên trước đây và chắc hẳn thế kỉ XXI sẽ không để một nhân vật tương tự Hitler tiếp tục xuất hiện, đẩy thế giới vào lửa đạn chiến tranh.

Như vậy, mặc dù những căng thẳng đang leo thang nhưng đến thời điểm hiện tại và trong hai năm tới chiến tranh vẫn chưa có khả năng xảy ra. Tuy nhiên mọi dự đoán đều mang tính tương đối vì quan hệ quốc tế luôn khó lường mà minh chứng là sự kiện Ukraine vừa qua đã vượt ra khỏi mọi dự đoán của các chuyên gia. Những mâu thuẫn ở biển Đông có thể sẽ phát triển theo đường xoáy ốc. Và để tránh một cuộc chiến tranh xảy ra, các bên cần kêu gọi tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của nhau, cùng ngồi lại để đề ra một cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương, bằng các biện pháp hòa bình.  

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578122

Hôm nay

2292

Hôm qua

2361

Tuần này

21321

Tháng này

225179

Tháng qua

130677

Tất cả

114578122