Những góc nhìn Văn hoá

Hành trình của một thể loại văn học(Qua khảo sát một số tác phẩm du kí trên Tạp chí Nam Phong)

1. Sự phát triển của bất kì một thể loại nào trong bảng thể loại văn học phải trải qua một hành trình dài nương theo lịch sử phát triển của nền văn học dân tộc với việc một mặt "bao giờ cũng bảo lưu những yếu tố cơ sở bất tử… là kẻ đại diên của kí ức sáng tạo trong quá trình phát triển của văn học” [1]; mặt khác, luôn vận động không ngừng, biến hóa linh hoạt. Chính vì thế, việc khảo sát hành trình của một thể loại văn học (qua thể tài du k[1]) sẽ đem lại một cái nhìn tổng thể về sự vận động của một giai đoạn văn học nhất định cũng như đặc điểm loại hình của giai đoạn văn học đó.

2. Nếu như du kí là một thể tài khá mới mẻ, thì gốc gác của nó, thể kí, lại có một lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Vốn là một khái niệm hàm chứa một ngoại diên có biên độ hết sức co dãn nên tất cả những ghi chép xuất hiện và tồn tại dưới rất nhiều hình thức đều được xem là . Với đặc điểm này, đường biên của thể tài du kí dường như được nới rộng ra đến mức tối đa. Tất cả những ghi chép nào viết về sự đi, viết về những chuyến du hành đều dung chứa ít nhiều màu sắc của du kí. Thậm chí cả ở thơ, một lĩnh vực hoàn toàn khác biệt với văn xuôi. Trên thực tế, trong bộ phận trữ tình trung đại, có một dạng tác phẩm được các thi nhân sáng tác trong những cuộc hành trình, có thể khác nhau ở tính chất và mục đích. Loại tác phẩm này cùng một lúc thực hiện hai chức năng: vừa bộc lộ cảm xúc của chủ thể trữ tình, vừa cung cấp cho độc giả bức tranh sinh động về thực tại xã hội, về cuộc sống bên ngoài. Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh, tập thơ Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du… là những dẫn chứng điển hình cho những trường hợp tác phẩm nằm ở "đường biên" của thể tài du kí. Do ở “đường biên”, nên những trường hợp này, chất du kí vẫn còn mờ nhạt.

Tính chất ghi chép dĩ nhiên vẫn thể hiện rõ hơn trong những tác phẩm văn xuôi tự sự. Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX là giai đoạn hoàng kim của văn chương nghệ thuật, ghi nhận sự lên ngôi của thể kí. Nếu như ở những giai đoạn trước (từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII), kí vẫn chỉ là "một thành phần nhỏ, thậm chí rất nhỏ nằm trong tác phẩm tự sự nhiều thiên" [2], ranh giới giữa kí và truyện vẫn hết sức mờ nhạt, thì ở giai đoạn tiếp đó, tính chất ghi chép trở nên rất đậm nét. Động từ (ghi chép) có mặt ở nhan đề như một cách minh định về mặt hình thức thể loại cho tác phẩm kí. Đây cũng là mốc thời gian đánh dấu sự manh nha của thể tài du kí trong văn học Việt Nam trung đại với sự xuất hiện của những tác phẩm mang dáng dấp du kí như Thượng Kinh kí sự (Lê Hữu Trác), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Bắc hành tùng ký (Lê Quýnh), Tây hành kiến văn kỉ lược (Nhóm Phạm Phú Thứ)… Nói những tác phẩm nêu trên mang dáng dấp du kí, trước hết bởi chúng không phải là những thiên du kí thuần nhất với tất cả những đặc trưng thi pháp của thể tài này. Mặc dầu hạt nhân là viết về sự đi, ghi lại những chuyến hành trình, hay thuật lại những lần xê dịch, nhưng những tác phẩm đó vẫn là kết quả của sự pha trộn của du kí, nhật kí, hồi kí, kí phong cảnh, kí sự, tùy bút, thậm chí là những tư liệu lịch sử.

Tóm lại, việc định danh khái niệm không quá chặt chẽ của một thời, cộng với sự pha trộn nhiều thể tài khác nhau trong một tác phẩm văn học chính là nguyên nhân khiến cho những thiên du kí thời trung đại không thuần nhất. Du kí trung đại thực ra vẫn nằm trong vùng giao thoa với kí sự và tùy bút, bản thân nó chưa “khoanh vùng” giá trị của mình bên cạnh những thể tài kia, khiến cho ranh giới giữa chúng khá nhòe mờ và phong cách thể tài của nó chưa thật định hình rõ nét. Hơn nữa, giữa rất nhiều những sự chi phối của thi pháp văn học trung đại, du kí chưa thể bứt mình lên phát triển thành một dòng riêng với đầy đủ đặc trưng thi pháp chuyên biệt. Phải chờ đến thời hiện đại, du kí mới thực sự là một thể tài bởi sự hội tụ những nét đặc trưng về nội dung và hình thức.

2. Nói đến thành tựu tiêu biểu nhất của du kí, phải kể đến Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh làm chủ bút. Nam Phong tạp chí là tờ báo duy nhất mở hẳn một chuyên mục riêng dành cho du kí, tạo không gian rộng rãi cho các nhà du kí thỏa sức tung hoành. Kể từ khi thiên du kí dài kì đầu tiên của Nguyễn Bá Trác (Hạn Mạn du kí) được đăng định kì trên Nam Phong tạp chí, hàng loạt những trang du kí đặc sắc thuộc nhiều phong cách khác nhau, thể hiện những cảm xúc riêng biệt của các cây bút nổi tiếng đã lần lượt chiếm lĩnh thiện cảm của người đọc. Sự phát triển mạnh mẽ của du kí, sự xuất hiện ngày càng nhiều các cây bút tài hoa, sự trau chuốt về văn phong, ngôn ngữ, khiến cho du kí thực sự được hoàn thiện về nội dung và hình thức, trở thành một thể tài nổi bật trong văn học hiện đại. Nói cách khác, du kí đã đáp ứng được những yêu cầu của quá trình hiện đại hóa văn học khi nó mang diện mạo khá hoàn chỉnh của một loại hình có đặc trưng thi pháp riêng.

Từ khi mở ra chuyên mục du kí trên tạp chí Nam Phong, ông chủ bút Phạm Quỳnh đã khơi một dòng chảy hết sức mạnh mẽ. Chưa bao giờ, du kí phát triển thành một vệt đậm như thế. Sự xuất hiện đều đặn của các thiên du kí trên Nam Phong tạp chí đã dần dần phác họa diện mạo của thể tài này. Không còn bị chi phối bởi bất cứ quy ước ngặt nghèo nào về mặt thể loại, lại được mài sắc cảm nhận chân thực về mỗi một miền đất qua từng chuyến xê dịch, các nhà du kí thỏa sức tung hoành, thử nghiệm, tung tẩy mọi lối viết, biểu hiện mọi biên độ cảm xúc. Có thể thấy, trước đây, ngòi bút du kí chưa từng được giải phóng đến thế. Mỗi tác giả với một nhu cầu xê dịch riêng, cùng một lợi thế riêng, một kiểu văn phong riêng, đã làm nên phong vị độc đáo của thể tài du kí. Kẻ thì ưa lối văn nhẹ nhàng, thiên về sự tinh tế nhằm ghi lại những dòng cảm xúc, những cảm nhận sâu sắc khi ghé thăm những vùng đất văn vật, văn hiến với những lễ hội văn hóa thấm đẫm màu sắc dân gian (như Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Mạnh Hồng, Mai Khê...); người lại ưa sử dụng vốn kiến văn sâu rộng của mình để khảo cứu những vùng văn hóa rộng lớn, khiến cho mỗi thiên du kí tựa như một báo cáo thống kê công vụ (Phạm Quỳnh, Song Cử, Mẫu Sơn Mục N.X.H). Lại có những người bị quyến rũ bởi những câu chuyện mang màu sắc huyền thoại, những nhân vật lịch sử mà thân thế được bao bọc mởi một màn sương huyền hoặc của những truyền thuyết đã đưa lại cho độc giả những trang viết mang màu sắc của những trang huyền sử (Nhạc Anh Hoàng Văn Trung, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Nguyễn Trọng Thuật...). Hàng chục cây bút, mỗi người mang một phong cách riêng, một cá tính, một lối văn, tựa như những mảnh ghép đa màu góp phần hoàn chỉnh bức tranh của du kí hiện đại.

Thể tài du kí đã mở ra khả năng bao quát, phản ánh hiện thực trên những chiều kích rộng lớn về không gian và thời gian. Tùy vào tính chất của mỗi cuộc hành trình, ý thích khám phá của các nhà du lịch, không gian có thể mở rộng đến tối đa, thậm chí có thể vượt ra ngoài biên giới của Tổ quốc. Thời gian có thể là một ngày, hai ngày, kéo giãn ra một tháng, hai tháng thậm chí đến hàng năm. Không gian càng được mở rộng, thời gian càng được kéo dài thì hiện thực cuộc sống bộn bề đương thời càng được ôm chứa đầy đặn hơn trong từng thiên du kí, và sự trải nghiệm của người đi càng được thể hiện phong phú, sâu sắc, và không ngừng làm đầy thêm“thực đơn của giác quan” của các nhà du kí đương thời.

Cách các nhà du kí lựa chọn những điểm du lịch, cũng đủ thấy chủ ý của họ trong việc chú trọng tới phương diện đề tài, cảm hứng - một điểm làm nên nét độc đáo của thể tài này. Đó là chốn kinh kì - miền đất thiêng liêng trong tâm thức người Việt (Mười ngày ở Huế - Phạm Quỳnh, Các Lăng điện xứ Huế - Nguyễn Đức Tính); là miền châu thổ mới bồi, đất đai phì nhiêu, sản vật phong phú, con người phóng túng, chân tình (Một tháng ở Nam Kì – Phạm Quỳnh, Lược kí đi đường bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn -  Mẫu Sơn Mục N.X.H, Cuộc đi chơi Sài Gòn – Tùng Vân); là miền đất Phật linh thiêng (Trẩy chùa Hương – Phạm Quỳnh, ); hay vùng biên giới hẻo lánh, xa xôi (Bài kí phong thổ tỉnh Tuyên Quang – Nguyễn Văn Bân),… Xa hơn nữa là nước Lào, dân cư thưa thớt, kinh tế lạc hậu; là Pa-ri - kinh đô ánh sáng của nước Pháp, trung tâm văn minh của châu Âu. Bằng sự quan sát tinh nhạy, nhận xét sắc sảo, lối ghi chép giản dị và súc tích, văn phong uyển chuyển, các nhà du kí đã giúp độc giả nắm bắt rất nhanh cái “thần hồn” của mỗi vùng miền.

Một trong những nét làm nên phong vị độc đáo của thể tài du kí là sự biến hóa về mặt hình thức. Nó không trói buộc người viết vào những khuôn mẫu thể loại chật hẹp, mà nó cho phép người viết thỏa sức tung hoành. Du kí trên Tạp chí Nam Phong chính là những thể nghiệm về sự giao thoa giữa các thể tài. Có những thiên du kí mang màu sắc hồi kí, bởi mỗi câu chuyện được ghi lại qua sự hồi tưởng về chuyến đi xa. Nét riêng biệt trong các tác phẩm du kí thời kì này chính là “sự lạc đề” hữu ý rất có duyên. Trong những thiên du kí của các tác giả đương thời, người đọc vẫn bắt gặp những trang viết thấm đẫm cảm xúc cá nhân, phóng túng như một thiên tùy bút. Có những bài du kí lại nặng về khảo cứu, thống kê, giống như một bản báo cáo khoa học. Lại có những bài nghe vang lên lời bình luận rất say sưa, hùng hồn của tác giả về một vấn đề tâm đắc, gợi nhiều suy ngẫm. Điều đặc biệt là những yếu tố tự sự, trữ tình, nghị luận ấy không hề tách biệt, chúng đan xen vào nhau tạo nên dư vị riêng của những thiên du kí.

3. Nguyễn Hữu Sơn trong Lời giới thiệu Du kí Việt Nam - Tạp chí Nam Phong đã khẳng định thêm: du kí “không đơn thuần chỉ là một tác phẩm văn chương mà còn dung chứa trong đó nhiều yếu tố lịch sử, địa lí, giáo dục, và đôi khi còn phản ánh cả phương diện chính trị xã hội nữa. Nói cách khác, du kí cùng với bút kí, hồi kí, nhật kí, kí sự, phóng sự, tùy bút, nằm ở phần giao nhau giữa văn học và ngoài văn học” [3]. Ý kiến đó, về cơ bản, là sự bổ sung một vài nét hiểu mới về khái niệm và mở rộng hơn bình diện cũng như ranh giới của thể tài này. Qua sự khảo sát và phân tích ở trên, chúng tôi muốn tô đậm hành trình của thể tài du kí trên quỹ đạo vận động tất yếu của thể loại văn học.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. M.Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Dostoievski, Trần Đình Sử dịch, Nxb Giáo dục, H, , tr.101

[2]. Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại (2001), tập 2, Kí, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.35

[3].Nguyễn Hữu Sơn (sưu tầm và giới thiệu) (2007), Du kí Việt Nam tạp chí Nam phong 1917 - 1934 (3 tập), Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh, tr.5.

 

 



[1]Thuật ngữ này chúng tôi sử dụng tương đương với thuật ngữ thể loại, tuy nhiên thể tài nhằm nhấn mạnh hơn ở phía đề tài, phía nội dung và cảm hứng nghệ thuật.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578413

Hôm nay

2231

Hôm qua

2352

Tuần này

21612

Tháng này

225470

Tháng qua

130677

Tất cả

114578413