Những góc nhìn Văn hoá

Bà Cờn xứ Nghệ ra Thanh

Bà Cờn đóng “đô phủ” ở Càn Hải xứ Nghệ, quản lĩnh 12 cửa biển trong nước, theo sắc phong vua Trần. Các cửa biển quan yếu của Thanh Hoá: Hiếu Hiền (Ghép), Hội Trào (Hới) Y Bích (Sung) đều thuộc quyền Bà. Những nơi này đều xây dựng “hành cung” to lớn, hơn hẳn các đền miếu chung quanh, để đáp lại công lao của Hoàng hậu nhà Tống, nhưng lại gửi số phận vào nước Nam và hết lòng âm phù người Nam.

Đứng ở cửa biển, trông chừng phía Tây, Bà Cờn không thể không bị hấp dẫn đến say mê những dòng sông nổi tiếng: sông Yên, sông Mã, sông Lèn… dòng sông nào cũng mở ra mênh mông đôi bờ trù phú. Tuy nhiên, thế giới bao la non xanh nước biếc ấy đã là xứ sở của bao vị thần thánh, những tên tuổi lẫy lừng với đền đài, miếu mạo ngự chiếm khắp nơi: Tham Xung, Đông Hải, Ông Băng, Cao Sơn, Quý Minh, vv…Dĩ nhiền bà Cờn không thể quên nữ thần lừng danh đã từ trung du rừng núi Phố Cát- Thạch Thành xuống chiếm lĩnh đồng bằng, không loại trừ miền biển. Đó là công chúa Liễu Hạnh, con Ngọc hoàng Thượng đế giáng trần cứu nhân độ thế, được vua Lê sắc phong “Mẫu nghi thiên hạ” là một trong “tứ bất tử” nước Nam. Bà Liễu liên kết với Thượng Ngàn công chúa và Thuỷ Cung công chúa hợp thành bộ ba vùng vẫy núi sông, khuấy đảo cả đất trời. Hẳn vì thế, Bà Cờn đành dừng chân ở các huyện miền biển xứ Thanh: Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Sơn, Tĩnh Gia. Hiếm hoi một huyện đồng bằng Đông Sơn, Bà Cờn “lấn sân” được ba nơi, đã là cố gắng lắm! Tuy nhiên, tổng số đền miếu của Bà Cờn ở Thanh Hoá cũng đã lên tới con số 81, con số tuyệt đẹp của hai con số cực dương!

Danh sách hàng trăm nơi thờ Bà Cờn đều gọi là đền Tứ Vị và thần hiệu Bà phổ biến là “Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương thượng đẳng thần”. Thế là, cứ tưởng chỉ có một Bà Cờn hoàng hậu vua Tống, hoá ra có những bốn Bà Cờn! Vậy bốn bà là những Bà nào? Hay vẫn chỉ có ba Bà?

Sách Địa chí văn hoá huyện Hoằng Hoá, PGS Ninh Viết Giao căn cứ Ngọc phả Đền Cờn, Quỳnh Lưu, Nghệ An, chép: “Hoàng hậu cùng hai cô con gái may sao bíu vào một mảnh ván. Sóng gió đã đưa ba mẹ con vào Cửa Cờn ở Quỳnh Lưu. Một nhà sư trụ trì tại một ngôi chùa gần đó, buổi chiều đi dạo trên bãi cát ven biển thấy ba người đã thập tử nhất sinh, liều mình ra cứu. Sư đem ba mẹ con vào ở trong chùa và cho ăn tử tế. Được một thời gian ngắn, ba mẹ con lại sức, trở lại béo tốt, nhất là vẻ mặt của hoàng hậu, coi tuyệt đẹp. Sư động lòng trần tục, muốn tư thông. Bị hoàng hậu cự tuyệt, sư xấu hổ quá, gieo mình xuống sông tự tử. Hay tin, hoàng hậu than rằng: chúng ta nhờ sư mà được sống, nay sư vì chúng ta mà chết, sao nỡ yên tâm! Nói xong, hoàng hậu cũng nhảy xuống biển chết. Mất mẹ, hai cô con gái khóc thảm thiết, nghĩ rằng sống bơ vơ ở nơi đất khách quê người, không cha, không mẹ, không bà con, không nơi nương tựa, rồi buồn bã qúa, cũng nhảy xuống biển chết theo. Bốn người chết, thi thể nổi lên, một mùi thơm như lan quế toát ra, về sau rất linh thiêng, dân xã lập đền thờ làm thần, nên bà con quanh vùng gọi là Tứ vị.

“Đã rõ sự tích, Trần Anh Tông sai làm lễ kính tế. Ra đi mặt biển yên lặng, vua kéo thẳng quân đến Chà Bàn, thắng trận lớn. Khi trở về, vua hạ lệnh gia phong là “Quốc gia Nam hải Đại Càn Thánh Nương”, lại cho sửa đền thờ thêm khang trang rộng rãi”. Kết thúc, soạn giả khẳng định đền Cờn Nghệ An là đền thờ Tứ vị Thánh Nương (trang 755, 756, 757).

Theo nội dung tình tiết trên, ba mẹ con Hoàng hậu, cộng với nhà sư là bốn. Bốn người đều nhảy xuống biển chết, bốn thi thể trôi dạt vào bờ, dân thấy thiêng lập đền thờ cả bốn người gọi là Tứ vị, sau nhiều nơi khác cũng thờ, gọi là Tứ vị Đại Vương. Vua Trần sắc phong “Quốc gia Nam Hải Đại Càn Thánh Nương”. Như vậy chỉ có hoàng hậu hoặc hoàng hậu và hai cô gái được vua ban sắc phong, còn ông sư chắc là không, vì 1. Chữ “nương” không thể là đàn ông; 2. Ngọc phả không nói nhà sư có công tích gì. Như thế là tương đối hợp lý. Nói “tương đối” bởi đã không có công tích gì sao cũng được tôn thờ làm Đại vương? (Tứ Vị Đại Vương).

Tuy nhiên, Tứ Vị Thánh Nương mới là thần hiệu phổ biến nhất, có thể nói ở hầu khắp các đền, miếu trên miền Bắc. Do đó, vấn đề ba Bà hay bốn Bà vẫn chưa được giải đáp. đến Tứ Vị Thánh Nương làng Triều Dương gần cửa Hới – sông Mã (Sầm Sơn, Thanh Hoá) lưu giữ một bản Ngọc phả và một tờ sắc phong. Bản Ngọc phả là bản sao, truyền rằng đời Tự Đức thứ 30, làng sao lại từ bản Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn đời Hồng Đức thứ 15. Tờ sắc phong cũng là bản sao chép, ghi niên hiệu Cảnh Hưng nguyên niên thất nguyệt nhị thập tứ nhật (Cảnh Hưng năm đầu, tháng 7 ngày 24 năm 1740). Hai tài liệu này chất lượng văn bản tuy không cao, nhưng dù sao cũng cho chúng ta một số thông tin cần thiết. Ngọc phả và sắc phong đều viết thống nhất Tứ Vị Thánh Nương. Riêng Ngọc phả ghi rõ tính danh: Hoàng hậu là Đại Hồng nương, con quan Ngự sử Triệu Đàn và vợ là Trương Thị Việt. Đại Hồng nương được thái tử Độ Tôn vời vào cung phong làm Đệ nhất phu nhân. Ba năm sau, Đại Hồng nương đẻ sinh đôi hai gái, đặt tên chị là Hồng Mai nương, em là Hồng Hạnh nương. Thái tử Độ Tôn được truyền ngôi vua, nhà Tống phong Đại Hồng nương làm hoàng hậu. Đại Hồng nương tuyển một người con gái tên là Tiểu Muội để vừa làm nữ tỳ hầu hạ hai công chúa, vừa làm thầy dạy hai công chúa. Vua Tống Độ Tôn mất, truyền ngôi cho con thứ Trung Tôn, Trung Tôn mất truyền ngôi cho anh cả Đoan Tôn.

Bấy giờ nhà Nguyên xâm lấn, Đoan Tôn đánh thua, mất tại Cương Châu, quyền ngôi vua trao cho Đại Hồng nương làm Dương Thái hậu. Được một năm, tức năm Kỷ Mão (?), quân Tống bị đại bại ở Lộc Tụ, Dương Thái hậu cùng hai công chúa và người hầu gieo mình xuống biển chết, xác trôi dạt sang nước Nam, sóng đưa vào Thanh Châu (Thanh Hoá) được vị thiền sư chùa Long Khánh đưa về chùa cứu chữa. Thiền sư cho bốn người ra ở ngoài cửa chùa tại một nơi xa, sai lo việc cơm cháo, phục vụ các nhà sư. Một đêm, bốn người ngủ quên không mang cháo vào cho các sư ăn sau buổi tụng kinh khuya, thiền sư ra xem thấy cả bốn người đang nằm ngổn ngang, bèn bước qua Dương Thái hậu. Không ngờ thái hậu từ đó mang thai. Thiền sư biết chuyện, rất lấy làm giận mình bỗng dưng mua tiếng xấu với đời, không có cách nào thanh minh, đành viết di chúc gửi lại, rồi nhảy xuống biển. Trong khi đó bốn người phụ nữ khó giải nỗi oan tình cũng nhảy xuống biển chết, xác trôi vào cửa Cần Hải. Hôm ấy là ngày 13 tháng 3, trời đất tự nhiên tối tăm mù mịt, mọi người đều kinh hãi. Thi thể ba mẹ con và cô hầu được các loài vật đêm đất cát đắp thành ngôi mộ lớn ở giữa sông. Quan địa phương thấy chuyện lạ, làm tờ trình tấu lên vua Trần Nhân Tông. Nhà vua thấy có sự linh ứng bèn gia phong Thượng đẳng phúc thần, sau thêm thần hiệu Đại Càn quốc gia Nam Hải trấn ngự 12 cửa biển. Bốn vị Hồng thánh nương: Đại Hồng nương (hoặc Hồng Đại nương), Hồng Mai nương (công chúa chị), Hồng Hạnh nương (công chúa em) và Hồng Muội (hoặc Tỷ nương) – người hầu gái được sắc lệnh cho dân địa phương các cửa biển lập đền thờ phụng sự.

Thế là vấn đề xem như đã rõ. Nhưng không! Tài liệu các đền Tứ Vị Thánh Nương ở làng Thiên Hậu (Yên Mô, Ninh Bình), làng Thiện Đăng (Vụ Bản, Nam Định), làng Hương Nại (Yên Mô, Ninh Bình), làng Thụ Ích (Nghĩa Hưng, Nam Định), làng Lạc Chính (Trực Ninh, Nam Định), làng Phúc Lai (Yên Mô, Ninh Bình), làng Vân Châu (Kim Bảng, Hà Nam), làng Đông Lạc (Nam Trực, Nam Định) được soạn giả Lê Xuân Quang trong sách Thần tích Việt Nam tập II (Nxb Thanh Niên) lại cho biết: Tứ Vị Thánh Nương là hoàng hậu họ Dương và ba cung phi xác trôi vào cửa Càn Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, nhan sắc vẫn xinh tươi như người còn sống. Dân xã Hương Cần chôn cất và lập đền thờ (tr.180-186). Ba cung phi ấy tên là gì? Lê Xuân Quang không nói rõ. Chắn hẳn ông không còn cứ liệu nào khác.

Thực ra, các tài liệu trên chỉ là tài liệu ngọn. Vậy tài liệu gốc ở đâu? Đó là sách Việt điện u linh, Lý Tế Xuyên khởi soạn. Nguyễn Văn Chất tục biên. Theo khảo cứu của Giáo sư Đinh Gia Khánh: Lý Tế Xuyên viết Việt điện u linh hồi đầu thế kỷ thứ XIV, sang thế kỷ thứ XV, Nguyễn Văn Chất làm việc tục biên. Phần tục biên của Nguyễn Văn Chất có các truyện Sóc Thiên vương, Thanh Sơn đại vương, Càn Hải môn từ (Riêng Quản Gia Đô Bác đại vương chỉ thấy ở dị bản A. 47 và A. 1919). Sự tích Càn hải môn từ tức đền cửa Càn Hải, được dịch như sau:

Phu nhân họ Triệu là công chúa nước Nam Tống, tất cả có ba mẹ con, phu nhân là con gái út.

Trong năm Thiệu Bảo thứ nhất (1279) đời Trần Nhân Tông, bên Trung Quốc, Trương Hoằng Phạm đem binh đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn. Quân Tống bị tan vỡ, quan Tả thừa tướng là Lục Tú Phu ôm vua Đế Bính cùng nhảy xuống bể, tướng sĩ nhà Tống chết xuống bể có tới hơn 10 vạn người. Ba mẹ con phu nhân ôm lấy cột buồm một chiếc thuyền, trôi dạt đến một cái chùa bên bờ bể. Sư chùa thương bèn cho mẹ con vào ở chùa và nuôi cho ăn. Được mấy tháng, mẹ con khi đã lại sức, trở nên béo tốt, vẻ mặt phu nhân coi tuyệt đẹp. Sư động lòng muốn tư thông, bị phu nhân cự tuyệt. Sư xấu hổ quá, gieo mình xuống bể chết. Mẹ con phu nhân cùng khóc rằng: “Chúng ta vì sư mà được sống, nay sư vì chúng ta mà chết, sao nỡ yên tâm”. Rồi ba mẹ con cùng đâm đầu xuống bể chết cả, xác trôi đến cửa Càn Hải thuộc huyện Quỳnh Lưu, phũ Diễn Châu nước ta, vẻ mặt vẫn tươi tỉnh như lúc còn sống. Thổ dân lấy làm lạ, vớt lên táng, thấy rất hiển linh mới lập đền thờ. Phàm những thuyền đi bể, gặp khi sóng to nguy hiểm, kêu cầu đều được thoát nạn. Sau các cửa biển đều lập đền thờ, đền nào cũng có tiếng linh thiêng” (Trịnh Đình Rư dịch).

Căn cứ tư liệu xưa để lại do Nguyễn Văn Chất viết nối vào Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên khởi thảo, chúng ta thấy bản thần tích đền Cờn, Quỳnh Lưu cổ nhất. Nguyễn Văn Chất từng giữ chức Quốc Tử Giám đồng tu sử, sau thăng Hộ Bộ Thượng thư (giữa thế kỷ XV) có thời gian làm Tham chính Nghệ An hẳn biết rõ đền Cờn lai lịch, nguồn gốc thế nào. Sau Nguyễn Văn Chất, một số soạn giả khác tiếp tục “tục bổ”, “tăng bổ”… những văn bản đáng tin cậy nhất đều chỉ là chép lại bản Nguyễn Văn Chất.

Sách Lĩnh Nam chích quái, theo GS Đinh Gia Khánh, bản còn truyền đến ngày nay do Vũ Quỳnh, Kiều Phú (thế kỷ XV) cùng thời với Nguyễn Văn Chất, sưu tập. Cũng theo GS Đinh Gia Khánh, truyện Càn Hải tam vị phu nhân (tức Càn Hải môn từ) là một trong trên dưới hai chục truyện của Việt Điện u linh được người sưu tầm chép sang các bản Lĩnh Nam chích quái khác nhau. GS Đinh Gia Khánh dẫn ra 9 bản Lĩnh Nam chích quái, và chúng ta nhận thấy một điểm chung là tên Càn Hải môn từ được sửa đổi chỉ định cụ thể đây là truyện về Ba vị phu nhân được thờ ở dền Càn Hải: Càn Hải tam vị phu nhân truyện (A.2914) (A.1752) (A.1300), (A.1200) (VHv1473), (VHv1266). Chỉ có hai bản chép là Càn Hải thần truyện (A.2107), (A.750), nhưng nội dung vẫn nói về ba vị thần, ba mẹ con vợ vua Tống.

Vậy thần hiệu “Tứ Vị Thánh Nương” xuất hiện từ bao giờ?

Xét việc phong tặng thần linh thời Lê đều theo một quy chế chung: tất cả các vị Âm thần từ Bà Trưng, Bà Triệu, phổ biến nhất là “phu nhân” (xưa chỉ vợ các vua chư hầu, hoặc vợ các quan nhất phẩm). “Phu nhân” cũng là tước hiệu vua phong các nữ thần bậc thượng đẳng. Ví dụ: Hai Bà Trưng được phong Trinh Linh nhị phu nhân, Bà Triệu được phong Trinh Nhất phu nhân.

Từ đời Trần đến đời Lê vẫn “y cựu phụng sự”, chỉ gia phong thêm các mỹ tự và duệ hiệu. Ngoài ra phổ biến tước phẩm: công chúa…Cá biệt có một bản Việt điện u linh(VHv.1503) chép là “Càn Hải môn tam vị Thánh nương”, thần hiệu duy nhất trong số các nữ thần của tập sách. GS Đinh Gia Khánh khảo cứu rất kỹ về văn hoá cho biết, tập sách chép tay này không chép rõ sự tích các nhân vật và nhiều đề mục theo cách phân chia, đặt tên, do Ngô Giáp Đậu thêm vào đầu thế kỷ XX, nội dung quá nửa không phải là của Việt điện u linh. Đây là một bản chép lộn xộn, chữ viết xấu, sai lẫn nhiều (Việt điện u linh-Đinh Gia Khánh dịch và giới thiệu). Như vậy, đây không phải là văn bản có giá trị khoa học để chúng ta tin cậy được. Tuy nhiên, có một điểm đáng chú ý là bản này vẫn chép Tam Vị Thánh Nương, không phải Tứ Vị Thánh Nương.

 Việc thay đổi thần hiệu, rất khó xảy ra trong một triều đại, vì đời vua này kế tiếp đời vua khác bao giờ cũng căn cứ vào danh sách do Bộ Lễ nắm giữ, cho nên phần lớn đều ghi dòng chữ “y cựu phụng sự” phía dưới dòng sắc. Thay đổi từ Tam vị sang Tứ vị hẳn là do triều đại thay đổi, cụ thể từ Tam Vị Phu Nhân thành Tứ Vị Thánh Nương là bởi sự thay bậc đổi ngôi, Hậu Lê-Tây Sơn chấm dứt vai trò lịch sử, mọi làng xã đều phải khai báo lên tân triều Nguyễn, và vua Gia Long, kế tiếp Minh Mệnh… xét cấp sắc phong trên cơ sở đề nghị của Bộ Lễ. Tài liệu này đến đời Thành Thái được tập hợp, hệ thống hoá thành bộ sách Chư thần lục lưu hành ngoài đời.

Vấn đề chúng ta cần quan tâm không phải phu nhân hay Thánh nương mà chính là Tam vị hay Tứ vị. Qua một số thần tích, ngọc phả kể trên, chúng ta có ba cách giải thích: Thứ nhất: Ba mẹ con Dương Thái hậu và nhà sư (theo đền Cờn Nghệ An); Thứ hai: Ba mẹ con Dương Thái hậu và cô hầu, (theo ngọc phả đền Triều Dương, Thanh Hoá); Thứ ba: Bà dương Thái hậu và ba cung phi, (theo tài liệu các đền vùng Hà Nam Ninh). Từ vấn đề này nảy thêm một vấn đề khác: chỉ có một bà được nhận sắc phong thần hay cả ba hoặc bốn bà được nhận sắc phong thần?

 Theo bản thần tích cổ nhất chúng ta được tiếp cận, vị thần đầu tiên được triều Trần sắc phong cùng phu nhân tôn thần là bà Công chúa út. Từ thời Hậu Lê, đền Cờn cùng nhiều đền miếu khác được thờ thêm hoàng hậu và công chúa cả nên được gọi là Tam vị phu nhân. Về sau, nội dung thần tích ba vị phu nhân phát triển theo hướng dân gian hoá, nhân vật nhà sư có rõ địa danh quán chỉ nước Nam, không phải ở Trung Quốc, tình tiết các nhân vật đối thoại, nhất là bản ngọc phả Triều Dương lặp lại mô típ nhà sư bước qua mà người phụ nữ có mang, chúng ta đã thấy trong truyện kể Lý Công Uẩn.

Chắc triều đình phong kiến dù thời đại nào cũng không chấp nhận sắc phong thần cho một nhà sư đã phạm giới tà dâm. Tuy nhiên, dân gian vẫn có thể cứ phong thần cho nhà sư, vì hành vi tà dâm chưa xảy ra mà nhà sư đã hết lòng sám hối, tự trừng phạt mình bằng cách nhảy xuống biển. Còn chúng ta sao không thể thông cảm rằng nhà sư vốn cũng là con người bình thường, không thể không có lúc động lòng trước sắc đẹp giai nhân? Vả chăng, cũng tại giáo lý nhà Phật đã dạy rằng: “Sắc tức thị Không”, sao còn bảo “Không tức thị Sắc” khác nào trước nói sắc đẹp là giả dối, sau lại đính chính lại, không phải giả dối đâu, đó là sắc đẹp thật(1)! Vì thế, chuyện chỉ bước qua mà Hoàng hậu có mang chẳng thể tin và không cần thiết. Người ta tưởng có thể bào chữa cho nhà sư, hoá ra thêm tội nặng cho nhà sư, vì dù muốn hay không đã để lại một hậu quả vô cùng nghiêm trọng: ông đã làm hại không chỉ ba mà bốn nhân mạng! (Kể cả đứa con trong bụng).

Vấn đề Tam vị đưa lên Tứ vị biết đâu lại chẳng là “ý muốn” của Bà Cờn? Thế kỷ XVII, XVIII đạo Mẫu phát triển khá mạnh, sang thế kỷ XIX bành trướng khắp nơi. Từ Nhất phủ tiến vọt lên Tam phủ chia nhau cai quản ba vùng: Trời, Đất, Nước vẫn chưa thoả mãn, lại phát triển thêm một phủ nữa thành Tứ phủ bao quát cả bốn phương. Tứ phủ chẳng những chiếm lĩnh ba miền: rừng núi, trung du, đồng bằng mà còn tràn xuống cả ven biển. Không ít làng xã thuộc vùng đất 12 cửa biển của Tam vị bị Tứ phủ “lấn sân”. Bởi thế, Tam vị phải nâng lên Tứ vị để đối trọng với Tứ phủ trong cuộc cạnh tranh âm thầm mà quyết liệt khó phân thắng bại.

Nhớ lại hồi đầu thế kỷ XVII, đạo Mẫu bị đạo Nội đánh bại trong cuộc đại chiến sùng Sơn long trời lở đất, đạo Mẫu phải xin quy y Phật để tựa bóng thiền lâm (Nhưng đến thế kỷ XVIII, đạo Nội chia làm hai phái Đông, Tây, lực lượng bị suy yếu dần, chỉ còn làm chủ một số đạo tràng, phó mặc các bà Liễu Hạnh, Thượng Ngàn, Thuỷ Cung, Huyền Chân vùng vẫy bốn phương).

 Phải nói tham vọng “Tứ vị” rất lớn, không chỉ đối trọng với Tứ phủ mà còn phải tiến tới thôn tính dần Tứ phủ bằng cách đồng nhấtTứ phủ với Tứ vị. Không ít đền miếu Tứ vị du nhập các hình thức đồng bóng, hát chầu văn… mà các Bà không ngại tai tiếng con nhà vốn dòng trinh liệt. Liệu Bà Cờn có thể thay Bà Liễu dứng vào hàng “tứ bất tử” nếu Thượng đế cho thêm thời gian? Chắc không được, vì Tứ phủ đã thành một đạo riêng của nữ giới, có tôn chỉ mục đích, có tín đồ, “con cuông đệ tử”, một hình thái ý thức xã hội, trong khi đó Tứ vị chỉ là hiện tượng tín ngưỡng xã hội. Phía Tứ phủ giấc mộng bành trướng tuy lớn, nhưng cũng biết Tứ vị đã có “Sổ đỏ” đất đai cả 12 cửa biển, không thể vượt rào chiếm cõi!

Dẫu sao con số 4 cũng là số chẵn vừa đủ “một mâm”. Nhưng bàn thờ thần đâu phải chiếu cỗ đình làng “bốn một, tám hai”? Phải có chính vị, thứ vị, để có trên dưới, hoặc ngồi ngang hàng cũng phải vị nào ở giữa, vị nào bên tả, vị nào bên hữu? Cứ như sắc phong Tam vị đời Trần, bà Công chúa Út, vị thần đầu tiên được phong tước hiệu “phu nhân” ngự chính giữa, bên hữu bát hương bà mẹ, bên trái bát hương bà chị. Khi Tam vị phát triển lên Tứ vị, nhiều đền bốn bà ngồi dăng hàng, hoàng hậu và công chúa cả cùng ngồi song song ở giữa, công chúa út và cô hầu gái ngồi hai bên, ngôi thứ lung tung cả (Một vài nơi như đền Diêm Phố, đền Y Bích (Hậu Lộc, Thanh Hoá) nhân vật hầu gái thay bằng hoàng tử thứ hai bị cắt ngọc hành, hoá ra nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ, nhưng tại sao được gọi là nương không thấy giải thích. Thậm chí có đền cho nhân vật thứ tư là Đế Bính, hậu duệ vua nhà Tống do Lục Tú Phu ôm cõng nhảy xuống biển chết… Toàn là chuyện nhảm).

Phong cảnh cửa Hới rất đẹp, phù hợp với sở thích Bà Liễu ưa cảnh trí nước non kỳ thú nhưng đã có đền Tứ vị Triều Dương. Tứ phủ đành chọn núi Trường Lệ chạy dài từ đất liền ra mép biển, gặp Thánh Độc Cước Sơn Tiêu đón trước ở đầu ngọn Sầm Sơn, chặn sau ở đỉnh Đầu Voi, các bà đành bám một ghềnh đá cheo leo, trước đền Độc Cước đệ Nhị. Gặp cảnh chiến tranh, ngôi miếu nhỏ trúng đại bác, Tứ phủ phải xin “ở đỗ” nhà hàng xóm – đền Độc Cước đệ Nhị - gặp cơ hội mới “cất lấy nhà”, nay là đền Cô Tiên. Thế là “cùng tắc biến, biến tắc thông”!

Trong khi đó, đạo Nội càng mâu thuẫn với Tứ phủ bao nhiêu, càng tỏ ra ôn hoà với Tứ vị bấy nhiêu. Huyện Quảng Xương, đất tổ của đạo Nội, Tứ phủ phải tránh xa, trừ ngôi miếu bé nhỏ ở ghềnh đá Đầu Voi, núp danh Cô Tiên, và một ngôi miếu khác bên sông Mã Bà sát địa giới huyện Đông Sơn vốn tứ phủ Thanh Lâm (thị xã Thanh Hoá) truyền xuống chưa lâu, ấy là chưa kể vùng đất Tây sông Lý Quảng Xương, bao la làng quê trù phú, trước 1945 có tới 57 xã, thôn, cũng vắng bóng Tứ phủ vì đã có đức thánh Chiêu Văn cũng là một đạo sĩ nổi tiếng đời Trần.

Nói như thế để thấy Bà Cờn từ Quỳnh Lưu ra Thanh chẳng mấy bước chân, nhưng con đường khai thác vùng đất mới ở phía trước đâu phải không chút gập ghềnh trắc trở. Ví dụ, từ cửa Ghép, bà đã ngược dòng sông lên đến Lộc Trường (4km), rồi Bình Nậu (5km). Chẳng bao lâu, đền Bình Nậu bỗng dưng bị mất bát hương, dân cho là bà bỏ đi, thôi không thờ nữa. Đền Lộc Trường, không hiểu tại sao “hoá bồ hương” đến mấy lần. Từ đó bà mất thiêng. Hai nơi này đời Trần là đất điền trang của Chiêu Văn đại vương Trần Nhật Duật. Tuy nhiên theo con số thống kê của Chư thần lục đời Thành Thái (1889-1906), đền Tứ Vị Thánh Nương ở Thanh Hoá chiếm tới 81 nơi! Dẫu con số kỷ lục phải nhường Cao Sơn đại vương (411 nơi) nhưng Cao Sơn là danh hiệu chung của nhiều vị thần, nên có thể nói Tứ Vị Thánh Nương đã thành công lớn trên đất Thanh.

Đầu năm, làng xã tổ chức lễ hội cầu phúc, cầu ngư. Cầu phúc để mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, cầu ngư để sóng yên biển lặng, lắm cá nhiều tôm.Đền miếu của Tứ Vị Thánh Nương chủ yếu tập trung ở dải đất ven biển, nhất là những làng xã làm nghề cá, thường xuyên ra khơi đánh cá. Đền nào cũng to nhất tuỳ theo khả năng kinh tế địa phương, được gọi bằng cái tên đầy tôn kính: đền Thánh Cả.

Trong phần lễ, Tứ vị ngự ở ngôi cao nhất, vì triều đại nào cũng ban sắc phong Thượng đẳng thần. Trên đàn tế, Tứ vị ngồi ở vị trí chính giữa, các thần linh khác trong làng xã ngồi lần lượt thấp dần hai bên tả hữu tuỳ theo đẳng cấp vua phong tặng.

Trong phần hội, thi bơi đua thuyền trên khúc sông gần cửa biển. Một số làng tổ chức hát chèo chải trên sân đình, đều chung mục đích cầu mong mưa thuận gió hoà, sóng yên biển lặng.

Làng Đồn Điền (Quảng Xương) mở hội cầu phúc trước, cầu ngư sau. Lễ cầu phúc ở đền Trung, tế lễ cây nêu treo bó lúa tại sân đình, xong, hạ nêu, dân đua nhau cướp cành tre và bông lúa đem về lấy khước. Người ta gác cành tre, bông lúa lên dàn bếp, khi nào trong nhà có trẻ em sốt nóng, lấy xuống nấu nước uống chữa bệnh.          Lễ hội đền Tứ vị Ngọc Trà (Quảng Xương) không tổ chức đua thuyền, chèo chải. Tất cả các loại thuyền bè địa phương đều tập trung trên bến nước trước đền, tham gia cuộc tế lễ ngào ngạt khói hương và vang lừng tiếng trống, tiếng chiêng.

Lễ hội cầu ngư ở Đồn Điền cũng rước kiệu Tứ vị đi đầu ra ngõ, chính chỗ gần bến cá, và miếu Ông (thờ cá Ông Voi) làm lễ. Các thần trong làng xã: Thần Thành hoàng, Sát Hải đại vương, Đông Hải đại vương, Đức Ông tôn thần… đều được rước đến để cùng hưởng tế lễ của dân.

Lễ hội cầu phúc, cầu ngư ở Sầm Sơn thường tế chung tổ chức rước kiệu. Kiệu Tứ vị đi đầu, kiệu Độc Cước đi thứ hai, kiệu Đông Hải đi thứ ba, kiệu Đề Lĩnh đi thứ tư, đi cuối cùng Kim Cương tướng quân (thần Cá Voi). Lễ tế Tứ vị bánh dày, Độc Cước thủ trâu sống, các thần khác xôi thịt.

Dân gian Sầm Sơn kể chuyện Bà Triều và Thánh Độc Cước thi tài để phân định cao thấp. Độc Cước bị thua, phải nhường kiệu Bà Triều đi trước. Ở đây có sự nhầm lẫn Bà Triều với Tứ Vị Thánh Nương . Bà Triều là nhân vật thời Hùng Vương, tổ sư nghề dệt làng Triều Dương, tương truyền kỹ thuật dệt lưới súc đánh moi do bà Triều truyền dạy (Các nơi khác trên miền Bắc nước ta không nơi nào biết nghề này, vì làng Triều tuân theo lệ cấm không truyền nghề cho người ngoài, mãi sau 1945, kỹ thuật dệt mới được phổ biến). Không ai biết tên họ Bà Triều là gì, trong chiến trang chống Mỹ, đền Triều Dương bị phá, sau xây dựng lại đền, sưu tầm tài liệu chỉ tìm thấy một bài vị viết dòng chữ “Hùng triều thánh tổ Ưng Đồ đại vương thượng đẳng tối linh thần” (Tài liệu của đền Triều Dương được khôi phục).

          Đền Triều Dương vốn ở bên sông Mã, gần Cửa Hới, sau dòng sông lở phải di chuyển vào khá sâu. Có lẽ do điều kiện kinh tế khó khăn, đền tập trung thờ cả mấy vị thần theo thứ tự: 1 – Thánh Tổ Ưng Đồ Đại Vương; 2 – Tứ Vị Thánh Nương; 3 – Đông Hải Phi Vương tướng quân (Kim Cương tướng quân); 4 – Lý Uý Thành Minh Vương (Tô Đại Liêu); 5 – Phù Đạo Chí Đức linh thần.

          Bởi không đủ điều kiện cho mỗi vị một kiệu, dân làng dành kiệu bát cống sang trọng nhất cho các nữ thần thượng đẳng. Vì đất bờ sông lở do sông Mã chuyển dòng, nửa làng Triều Dương phải mua đất làng Cá Lập và làng Lương Trung để chuyển vào ở, thành Triều Dương Nội. Một bộ phận khác dời đến bãi bồi ven biển lập Triều Dương Ngoại. Nội và Ngoại cách nhau khoảng 2km vốn anh em chung một nhà hoá ra cách biệt. Từ cải cách ruộng đất, chia xã mới, Triều Dương Ngoại thuộc xã Quảng Cư, Triều Dương Nội thuộc xã Quảng Tường, thế là anh em họ hàng thành người hàng xứ!

Năm 1993, Triều Dương Ngoại xin được bằng cứng nhận di tích, quyên góp tiền xây dựng lại đền thờ Tứ Vị Thánh Nương nhưng dân gian vẫn gọi tên đền Bà Triều. Triều Dương Nội không có đền, bị mất luôn cả đức thánh, rủ nhau cướp bát hương về thờ tạm trong ngôi nhà kho mái bằng xây dựng thời hợp tác hoá dùng cất chứa coi lác. Hai bên xảy chuyện đánh nhau để tranh giành một chiếc bát hương, cuối cùng chính quyền địa phương dàn xếp mãi mới xong!

Có lẽ đầu tiên là hợp nhất đền miếu cho tiện thờ cúng, sau dần dà có xu hướng đồng nhất thần linh cũng để tiện thờ cúng. Và, thực tế hình bóng Bà Triều đã lu mờ dần trong hình ảnh Bà Cờn mỗi lúc thêm rạng rỡ. Lễ hội Sầm Sơn hàng năm vắng hẳn nghi thức rước vải lụa để ghi nhớ công ơn Bà Triều, tổ sư nghề dệt, chỉ còn vang dội tiếng chày giã bánh của hội thi bánh dày dâng lên Tứ vị, dìm xuống biển mất tăm âm thanh thoi đưa lách cách nghìn xưa truyền thống.

Theo đúng tinh thần lịch sử, “Tứ vị” phải trả lại sự thật cho “Tam vị”. Nhưng trong văn hoá dân gian, “Tam vị” đã hoá thành “Tứ vị” thì dẫu lịch sử thế nào, “Tứ vị” vẫn là “Tứ vị”. Đây là hiện tượng tín ngưỡng dân gian đặc sắc của vùng biển Việt Nam mà đền nghè miếu mạo chiếm con số kỷ lục trong giới nữ thần danh tiếng. Từ “Tam vị” phát triển lên “Tứ vị”, vị thần thứ tư, do thiếu cơ sở sự thật lịch sử để thống nhất thần tích nên mỗi địa phương thờ phụng một kiểu, giải thích một cách. Có nơi thần tích phát triển theo hướng tiểu thuyết hoá (như đền Triều Dương) hoặc ly kỳ hoá (như đền Diêm Phố, Hậu Lộc, Thanh Hoá)… làm cho chuyện Bà Cờn càng trở nên phong phú. Và, Bà Cờn đã vén bộ váy chùng trùm kín gót bước qua cửa đền miếu lung linh sắc tía, rực rỡ màu son để quá bộ đi vào tư duy sáng tạo dân gian, bắt đầu từ quê biển xứ Thanh./.

………………………

Chú thích:

(1) -Kinh bát nhà nghĩa rất sâu xa. Ở đây chỉ lấy ý ngoài của ngôn từ để “tán” về giáo lý nông cạn giải thích hành động của nhà sư.

...............

Nguồn: http://tuancongthuphong.blogspot.com/

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578410

Hôm nay

2228

Hôm qua

2352

Tuần này

21609

Tháng này

225467

Tháng qua

130677

Tất cả

114578410