Những góc nhìn Văn hoá

Học giả Phương Tây: ‘Đức’ – sức mạnh hệ thống chính trị Việt

Trong khoảng gần nửa thế kỷ gần đây, các học giả phương Tây đã có nhiều đầu sách nghiên cứu, khảo sát các bước đi của Hồ Chí Minh và cộng sự trong quá trình vận động cách mạng, đưa đất nước thoát khỏi mặt trái của giáo lý Khổng giáo, “tiến lên nền dân chủ cộng hòa” với các giá trị của xã hội công dân.

Các tác giả sớm đề cập đến chữ “đức” trên bình diện chính trị phương Đông là John T. McAlister, Jr. và Paul Mus, trong Người Việt và cuộc cách mạng của họ[1], xuất bản năm 1970. Hai tác giả này, chắc là tiên phong, cho rằng chữ “đức” (virtue) ở Á Đông tương đương với khái niệm của phương Tây là chế độ chính trị (political system, cũng có thể dịch nghĩa là “triều đại”). McAlister và Paul Mus đi đến nhận định này nhờ khảo sát khái niệm các khái niệm thiên mệnh, điềm trời, thời cơ…

Thiên mệnh

Viết vào cuối thập kỷ 60, John T. McAlister, Jr. và Paul Mus cho rằng một chế độ cách mạng mới, có được “thiên mệnh” (sứ mạng lịch sử - từ của thời Liên Xô) là nhờ “hoàn toàn thay đổi học thuyết, thể chế, và nhân sự nắm quyền”, và chế độ này cho thấy nó là một bộ chỉ huy hoàn chỉnh của xã hội. Nhưng theo hai tác giả này, đội hình cầm lái của chế độ chính trị mới này phải lập tức cho thấy những biểu hiện tài tình trong lãnh đạo. Một đảng cách mạng, theo McAlister và Mus, phải tỏ ra mình là sứ giả của số phận (a messenger of fate), với mọi khả năng đi tới thành công. Trong trường hợp này người dân chờ đợi các tín hiệu kiểu điềm trời: sự dễ dàng và trơn tru của thành công (của đảng). Đảng cách mạng phải thành công trong mọi thứ, cứ như là phép lạ (as if miraculously). Những phương tiện về quân sự và tài chính trở thành thứ yếu (vì chủ yếu là sự tài tình của đội hình lãnh đạo – LĐH), và sẽ được giao phó xứng đáng vào tay của đảng vừa nhận được thiên mệnh.

Điềm trời

Khái niệm ‘điềm trời” (sign or intimation from Heaven) chính là một cầu chì cho quyền uy theo giáo lý đạo Khổng. Phương Tây nghiên cứu khá sâu về “bàn tay của Chúa” này tại các nước theo Khổng giáo. Họ cho rằng, Khổng tử và các thế hệ cộng sự của ông đã mã hoá được đầu óc của con chiên Đạo Khổng, rằng điềm trời (sấm chớp giữa ban ngày, thế lực siêu nhiên “hiển thánh”, giống kiểu Đức Mẹ hiện lên kêu gọi đi về miền đất thánh, thịt cá từ trên trời rơi xuống…) chỉ ra: một triều đại đã “thất đức” sẽ phải chịu một cuộc can qua (nguyên văn – cách mạng) để bị thay thế bởi một lực lượng vừa được lĩnh ấn “thiên mệnh”. Duy ý chí bởi chữ ‘lễ’, chữ trung đối với triều này đột biến sang một duy ý chí như thế đối với một triều đại mới, hợp với “quỹ đạo” của Trời.

McAlister, Jr. và Mus viết tiếp:

“Bằng cách tiến hành một trắc nghiệm về hợp đạo trời (legitimacy) người Việt sẽ chờ đợi, không hề tin tưởng ngay vào khả năng của một người (cầm đầu) nổi dậy có thể lãnh đạo được, cho đếnkhi xuất hiện một sự công nhận rộng rãi về việc người thủ lĩnh này đã được trời ban cho thiên mệnh. Trong sứ mạng quyết định - ra quyết định lựa chọn (thủ lĩnh A hay B) - là lúc người dân ‘tìm kiếm các dấu hiệu hay điềm báo của tính chính danh (legitimacy)’, và người Việt gọi các dấu hiệu đó là ‘đức’. Tại thời điểm mà một đức (phương tây sẽ gọi là một chế độ chính trị) tỏ ra kiệt quệ, và một chế độ chính trị (triều đại) khác đang xuất hiện, sẵn sàng chiếm chỗ của cái chế độ cũ với những lạm quyền (previous abuses) của nó mà người dân phải chịu đựng cho tới lúc đó (lúc xuất hiện thiên mệnh) – sẽ được (người dân) nhìn nhận trong một ánh sáng mới (như về một triều đại đã thất đức). Chỉ đến lúc này, họ (người dân) mới tìm đến cứu cánh là một nguyên tắc mới. Đó là sự kiên nhẫn tột cùng (extreme patience) thay bằng sự không khoan nhượng (intolerance). Ban đầu (khi chế độ cũ chưa chứng tỏ “mất” thiên mệnh/thất đức) người dân chịu đựng mọi thứ. Nhưng đến lúc đó (khi xuất hiện “điềm trời” báo thiên mệnh đã được giao phó cho một thế lực chính trị mới) họ không chấp nhận chịu đựng bất cứ điều gì. Nói cách khác, các giá trị cũ hoàn toàn không được đếm xỉa đến nữa”.

Nguyên tắc mới

McAlister và Mus cho rằng thời điểm mà nguyên tắc mới (không chịu đựng bất cứ thứ gì của chế độ cũ) được áp dụng, đạo đức của người dân Việt (vốn cam phận - docile masses) đột biến trở thành quyết liệt (intransigent -  không khoan nhượng về chính trị). Rằng tới lúc đó, không có gì có thể cản được các động cơ chính trị. Các giá trị đạo đức xuất hiện ở thời điểm này (thời điểm áp dụng ‘nguyên tắc mới’) có thể so được với những giá trị cao nhất ở phương Tây, nhưng chúng chỉ xuất hiện khi hoàn cảnh trở nên thích hợp một cách rõ rệt (cho việc thể hiện các giá trị ấy mà thôi)[2].

Cách hành động này (áp dụng “nguyên tắc mới”) có cội nguồn là sự ứng biến tích tụ sau nhiều thế kỷ (Khổng giáo) dẫn tới các phản ứng dân sự hoàn toàn không tương đồng với các phản ứng dân sự của phương Tây. “Thay vì đi theo một nhịp điệu vừa phải, liên tục, chậm chắc (như của phương Tây, tạm gọi là tiến hóa - LĐH), Trung quốc và Việt Nam thường nhảy tưng tưng, đột biến từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác, trong một đời sống đạo đức (tinh thần) đứt quãng lâu hơn nhiều, so với phương Tây”, (instead of going along at a moderate but continuous and slowly effective pace, the Sino-Vietnamese moral life jumped, spasmodically, from crisis to crisis far more that did that of the West), McAlister và Mus nhấn mạnh.

Di sản văn hoá dân tộc

Hơn 40 năm sau, Peter DeCaro, giáo sư đại học Buena Vista, Hoa Kỳ phát triển các lập luận của McAlister và Mus. Trong sách nghiên cứu Tuyên truyền khởi nghĩa: ngôn thuyếtcách mạng của Hồ Chí Minh (Ho Chi Minh's Rhetoric for Revolution),GS DeCaro cho rằng phương pháp luận tuyên truyền và thuật hùng biện của nhà vận động cách mạng (agitator) Hồ Chí Minh căn bản dựa trên “sự gương mẫu”… Ông đặt câu hỏi:

“Làm thế nào để đáp ứng những nguyện vọng muôn đời của người nông dân Việt? Hơn nữa, làm thế nào để đáp ứng được với yêu cầu (về năng lực) dẫn dắt nông dân hoà nhập hiệu quả vào thế giới hiện đại, nơi hoạt động chính trị nhằm động viên lực lượng quần chúng, (nỗ lực) đưa quảng đại dân cư tham gia vào guồng máy biểu dương lực lượng chính trị và tham gia (ủng hộ) các chiến dịch quân sự, trở thành chuẩn mực (của cuộc sống xã hội)?”

Rồi chính Peter DeCaro tìm thấy câu trả lời, lại vẫn của McAlister và Mus, ở cuối sách trên của hai tác giả này. Đó là “khái niệm truyền thống: đức độ - như một tín hiệu rằng chế độ chính trị hiện hành (Chính phủ VNDCCH) đang thực hiện thiên mệnh, đang sở hữu tính hợp pháp theo các tiêu chuẩn cổ truyền”.

Chỉ ra sự khác biệt về văn hóa tranh luận trong tâm tưởng của người phương Tây và trong tâm tưởng của người Việt, Peter DeCaro viết:

“Trong các yếu tố kiến tạo nên một năng lực hùng biện trước kia hầu như chưa được khai sáng,  yếu tố trọng yếu nhất là ‘nhân cách’. Nó được phát triển thành một công cụ hiệu quả nhờ ‘LÀM’ (doing), chứ không nhờ đọc diễn văn. ‘Làm’ trong văn hoá Việt Nam có sức thuyết phục vượt trội hơn diễn thuyết. Nét văn hoá này không phải do nhà hùng biện xác lập, mà là một di sản văn hoá dân tộc. Theo các tác giả như Charland, Black, Hammerback, sức thuyết phục ở phương Tây được đánh giá qua diễn văn, hơn là qua nhân cách nhà hùng biện. Còn với người Việt đánh giá sức thuyết phục không chỉ căn cứ vào tài diễn thuyết, thậm chí nhân cách còn được đặt cao hơn cả năng lực diễn thuyết…”

Di sản văn hóa dân tộc Việt, thể hiện trong nhân cách (đức độ), như của Hồ Chí Minh (hay Nguyễn Trãi…) được các tác giả phương Tây dùng để chỉ rõ sự khác biệt giữa chủ nghĩa yêu nước kiểu Việt Nam, và chủ nghĩa dân tộc kiểu Đại Hán. William Warby[3] chỉ ra rằng văn phong của Hồ Chí Minh sống động nhưng đơn giản, không giống như các tập Mao tuyển đầy những triết lý. DeCaro cho rằng Hồ Chí Minh, ngay từ đầu, đã không chỉ dừng ở các cuộc tấn công bằng bút vào chế độ thuộc địa, mà còn đấu tranh vì các giá trị chung của nhân loại như chống bất công, chống phân biệt chủng tộc, vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ… Vẫn theo Warby, Hồ Chí Minh không đeo súng như Mao hay Kim Nhật Thành, vũ khí của Hồ Chí Minh “là ngôn ngữ, là cây bút, là sự hóm hỉnh bẩm sinh, là tư cách đạo đức vững vàng, và là sự dâng hiến nhiệt thành đối với sự nghiệp của nhân dân, là quyết tâm đạt các mục tiêu do ông đặt ra bất chấp mọi khó khăn”.

Ta cũng có thể nhận thấy người Việt được “miễn dịch” khỏi thói hâm mộ những nhà hùng biện đạo đức giả, duy ý chí (lời nói có thể không đi với việc làm), hẳn còn do họ không cuồng tín, không chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng sô vanh, và ít xu hướng sùng bái cá nhân.Neumann-Hoditz cho rằng: “lúc sinh thời của Hồ Chí Minh, đã không có sự sùng bái cá nhân vẫn bao quanh Mao Trạch Đông”[4].

                                                                                              


[1]The Vietnamese and Their Revolution, New York: Harper & Row, Publishers, 1970.

[2] Theo DeCaro trong Tuyên truyền khời nghĩa…, thời kỳ của “các giá trị đạo đức như các giá trị cao nhất ở phương Tây” khởi điểm từ cách mạng tháng Tám 1945, tiếp theo là thời kỳ mà Việt Nam gọi là thời đại Hồ Chí Minh

[3]William Warby, Hồ Chí Minh và cuộc đấu tranh vì một dân tộc độc lập (Ho Chi Minh and the struggle for an independent nation ( London: Merlin Press, 1972), dẫn theo Peter DeCaro.

[4]Reinhold Neumann-Hoditz, chân dung Hồ Chí Minh (Portrait of Ho Chi Minh, NXB Hamburg: Herder and Herder,1972, trang 169).

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114612232

Hôm nay

2449

Hôm qua

2483

Tuần này

2932

Tháng này

227484

Tháng qua

131673

Tất cả

114612232