Những góc nhìn Văn hoá

Vài nét về đời sống tâm linh của người Việt sống cùng thời với Alexandre de Rhodes

Về đời sống tâm linh của người Việt thế kỷ 17, có lẽ Alexandre de Rhodes là người nước ngoài đầu tiên đã tìm hiểu và miêu tả kỹ nhất. Ông dành hẳn ba chương 18, 19 và 21 trong tác phẩm Lịch sử vương quốc xứ Đàng Ngoài để trình bày cặn kẽ về Tam giáo ( nguyên văn: Tam iau), đó là đạo Nho (Dau nhu), đạo Thích: Phật giáo (Dau thic) và đạo Lão của Lão tử (Lautu). Những điều Rhodes trình bày nhằm cho thấy đời sống tâm linh của người Việt xưa chịu ảnh hưởng nặng nề của Tam giáo truyền bá từ Trung Quốc. Ngoài những nghi thức được định riêng cho từng tôn giáo một mà những người hành đạo hay các tín đồ của tôn giáo đó phải tuân thủ, Tam giáo cũng chi phối cả đời sống tinh thần của quảng đại quần chúng và trong không ít trường hợp, không còn tìm thấy ranh giới giữa tín ngưỡng và sự mê tín dị đoan nữa.

Thời đó, người ta quan niệm rằng ở thân xác người đàn ông có ba hồn bảy vía và ở người phụ nữ có ba hồn chín vía. Họ cũng tin rằng cứ mỗi lần gặp một tai biến bất ngờ gây ra kinh hoàng, lo lắng, con người mất đi một vía. Còn lý do tại sao người phụ nữ lại có nhiều vía hơn đàn ông thì Rhodes giải thích rằng:” …khi một người quá sợ hãi do một tai biến bất ngờ nào đó, người ta nói rằng anh ta mất đi một vía! Và bởi vì người phụ nữ tánh hay sợ hãi hơn đàn ông nên thường bị mất vía nhiều hơn đàn ông, họ được ban cho đến chín vía; còn một lý do khác khiến người phụ nữ được ban cho nhiều vía hơn để bảo tồn, đó là vì họ sống lâu hơn đàn ông…” (Lịch sử vương quốc xứ Đàng Ngoài - Revue Indochinoise 1908-trang 431). Đấy là lối giải thích của Alexandre de Rhodes theo quan niệm đương thời, không rõ ngày nay có còn cách giải thích nào khác hơn không. Tuy nhiên có điều đáng lưu ý là đến ngày nay, cụm từ “sợ mất vía” vẫn còn được nhiều người sử dụng để diễn tả một nỗi lo sợ to lớn. Phải chăng chữ “mất vía” trong cụm từ này có liên hệ đến quan niệm về ba hồn bảy vía (hay chín vía) kể trên. 
Thời phong kiến, vua chúa tự xem mình là Thiên tử (con Trời) nên chuyện hồn vía cũng không giống như thường nhân. Theo tín ngưỡng thời đó, cứ mỗi năm, vào dịp sinh nhật là nhà vua lại nhận thêm một vía mới để thay thế vía cũ đã bị suy yếu hay mất đi sau một năm tận tụy lo toan cho hạnh phúc của muôn dân. Vào ngày này, ngoài những quà cáp được quan quân ở kinh đô và các xứ gửi về tấp nập, người ta tổ chức lễ rước vía cho vua Lê. Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, quân lính phục dịch trong kinh thành đã đẩy một cỗ xe trống ra ngoài thành. Dân chúng chờ đợi sẵn, nô nức đi theo xe. Đến một khu vực trồng cây rộng lớn, họ dừng xe, xúm lại hái hoa, lá cành tươi chất đầy trên xe, tượng trưng cho vía mới của nhà vua. Khi xe đang trên đường trở về cung điện thì xa giá nhà vua cũng từ cung điện đi ra. Hai xe gặp nhau, nhà vua bước xuống xe mình và đến chiếc xe kia, ôm chầm lấy đống cây lá như để tiếp nhận vía mới về mình. Xong, tất cả quay về cung. Trên đường đi, quan quân cùng dân chúng lớn tiếng tung hô trong bầu không khí vô cùng vui vẻ. Lễ mừng sinh nhật và rước vía mới của nhà vua được kết thúc bằng một bữa yến thết đãi chẳng những các hoàng thân, quốc thích, các đại thần… mà cả quân lính nữa. (Lịch sử….chương 26 - RI 1908 - trang 431-432). Cách chia năm, tháng, ngày, giờ của người Việt xưa cũng được Alexandre de Rhodes trình bày tỉ mỉ và chính xác. Giờ giấc chia theo các con giáp, mỗi giờ tương ứng với hai giờ của người phương Tây. Việc xem ngày giờ tốt xấu khi hành xử một việc quan trọng cũng được cư dân Đại Việt lưu tâm triệt để. Rhodes kể rằng trong những lần đưa quân đi đánh Đàng Trong, chúa Trịnh thường dẫn theo các ông thầy tướng số để bấm quẻ xem ngày giờ nào thuận lợi nhất cho một cuộc tấn công.
Chuyện mê tín xảy ra rất thường trong đời sống của người Việt thế kỷ 17. Mỗi khi có việc đi ra khỏi nhà, nếu người đầu tiên mà họ chạm mặt ở đầu ngỏ là phụ nữ, họ quay về ngay, không đi tiếp nữa, vì cho rằng nếu tiếp tục đi, họ sẽ rước lấy nhiều điều xúi quẩy trong ngày. Kiểu mê tín này cho đến thế kỷ 20 vẫn còn bàng bạc trong tập quán dân gian, với cách nói thông tục “ra ngỏ gặp gái” dùng để chỉ một sự thất bại hay bất như ý nào đó trong đời sống hàng ngày. Tương tự như thế, nếu lúc khởi hành mà bị hắt hơi hay nghe người khác hắt hơi, người Việt xưa cũng không tiếp tục hành trình nữa. Vào mỗi cuối năm, có một tục lệ kỳ dị mà người Việt ở Đàng Ngoài luôn tôn trọng. Đó là những người già, nam cũng như nữ, lo sợ, rút vào những nơi thờ phượng, như để tìm một chỗ trú ẩn an toàn, tránh bị làm hại bởi loài ma quỷ mà Rhodes gọi là “votuan” (vô thường?) chuyên giết hại người cao tuổi. Họ tự giam hãm mình như vậy trong suốt ba hay bốn ngày cuối năm, không hề đi ra ngoài một bước, dù là ngày hay đêm. Đến ngày mùng một Tết, tức là ngày khởi đầu của một năm mới, họ mới dám xuất đầu lộ diện, tin chắc là lúc đó, quyền lực của ma quỷ đã hết. 
Trong các tục lệ phổ biến của người Đàng Ngoài, còn có tục thờ các vị thần trong nhà mà họ gọi là Tiên sư. Nhà nào cũng có bàn thờ tiên sư, nhang khói nghi ngút cả ngày. Mỗi sáng sau khi ngủ dậy hoặc mỗi tối trước khi đi ngủ là họ đều thắp nhang ở bàn thờ tiên sư. Họ tin rằng chính nhờ sự phù hộ của vị này mà từ người thợ thủ công đến ông thầy thuốc đều gặp may mắn trong nghề nghiệp. Rhodes từng thuyết phục một thầy thuốc vào đạo Công giáo; ông này tuân theo mọi qui định của tôn giáo mới, nhưng đến khi được yêu cầu phá bỏ bàn thờ tiên sư thì chùn tay, không dám quyết. Một vị trấn thủ cũng ở vào trường hợp tương tự, chịu theo đạo nhưng không chịu phá bỏ bàn thờ tiên sư. Ảnh hưởng của Lão giáo cũng làm phát sinh một tầng lớp thầy cúng bái chuyên nghiệp và tục “bói chân gà” khá phổ biến thời bấy giờ. Khi một người trong gia đình ngã bệnh hay sắp sửa làm một việc hệ trọng nào đó như đi du lịch xa chẳng hạn, họ bắt một con gà giò, chặt riêng hai chân, mang đi luộc và sau đó nhìn vào màu sắc, hình thể hai chiếc giò gà đó mà định xem có nên hay không nên làm việc định làm. Rhodes kể rằng có hôm ông ra một cảng đánh cá, ở đấy có khoảng 20 chiếc thuyền đã giăng buồm sẵn chờ khởi hành, thế nhưng sau khi bói chân gà, thấy điềm không tốt, họ cuốn buồm lại không ra khơi nữa. Tục này tồn tại đến đầu thế kỷ 20, trong tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương, học giả Đào Duy Anh cũng có đề cập đến một cách vắn tắt (Sđd, trang 380).
Alexandre de Rhodes nắm vững được nhiều điều về đời sống tâm linh của người Việt thế kỷ 17, nhưng bằng nhãn quan của một giáo sĩ Thiên Chúa giáo người phương Tây, ông không tránh được các thiên kiến, sự đánh đồng giữa mê tín dị đoan và những tập tục tốt đẹp, một phần của văn hóa dân tộc. Chẳng hạn như ông đã chỉ trích tổ chức Đình làng, xem việc tiến hành các cuộc lễ múa, hát, tiệc tùng để cầu cho quốc thái dân an là những điều mê tín tệ hại nhất. Rhodes còn cho rằng người ta đưa cả những tên trộm cắp, những kẻ từng bị xử án ở nơi khác về thờ làm thần ở đình làng. Trên thực tế, việc này nếu có cũng chỉ là những trường hợp thật cá biệt; vị thần được thờ ở đình làng thường là những anh hùng dân tộc, những người có nhiều công lao khi còn sống và việc phong thần ở đình làng được thực hiện bằng một đạo sắc phong của nhà vua

26.1.2016

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578602

Hôm nay

2127

Hôm qua

2293

Tuần này

21801

Tháng này

225659

Tháng qua

130677

Tất cả

114578602