Thành môn lộc tử khai
Nghĩa đen câu thơ là: Cửa thành con hươu mở. Nhưng ba chữ sau đọc lái lại thì là lai tử khốc, nghĩa là: trước cửa thành con tới khóc.
Trên đây là thí dụ duy nhất mà tôi được biết trong văn học Trung Quốc về lối dùng chữ lái vào thơ.
Trong tiếng Việt, lối nói lái rất thông dụng và thường thường vẫn được vận dụng vào văn thơ để đùa bỡn, để châm biếm.
Có phần chắc là trong văn học dân gian, trong ca dao, câu đố không thiếu những câu nói lái lý thú. Nhưng cho đến bây giờ người ta chưa làm được một công tác điều tra chắc chắn về vấn đề này. Điều đáng chú là nhiều nhà nho cũng không khinh thường lối văn nói lái.
Một trong những người đã vận dụng khá thần tình cách nói lái là Cống Quỳnh, tức trạng Quỳnh cuối đời Lê.
Truyện Trạng Quỳnh cho biết rằng một hôm, Trạng Quỳnh đã hẹn với chúa Trịnh là sẽ thết chúa một bữa tiệc đặc biệt thật ngon lành. Tới ngày hẹn, chúa đến nhà trạng, trạng đã tìm cách đưa chúa đi chơi xem phong cảnh rất lâu và khi về đến nhà còn bắt chúa chờ cho đến khi đói lả người mới dâng bữa cơm ngự thiện. Bữa cơm không có gì, chỉ một bát cơm rất nóng và một bát tương nhưng chúa chén rất khỏe và xuýt xoa khen ngon mãi. Trước lúc ra về, chúa hỏi trạng thứ nước gì mà ăn ngon vậy. Trạng thưa rằng đây là một thức ăn đặc biệt phải nhờ các khách trú mua từ bên Tàu về với giá khá đắt. Chúa đưa ra một nén bạc và đinh ninh dặn thế nào cũng mua cho được.
Mấy tháng sau, chúa nhận được món ăn quý với cái nhãn đề bên ngoài là Đại phong. Mở ra ăn nhưng lần này chúa thấy xoàng quá, liền đòi trạng vào sách hoạch. Hồi lâu trạng thưa:
-Có gì đâu ạ, Đại phong là gió lớn; gió lớn, đổ chùa, đổ chùa, tượng lo, tượng lo là lọ tương đấy thôi ạ. Khi bụng đói thì ăn gì cũng ngon.
Mọi người cũng biết rằng trong thơ Hồ Xuân Hương, lối nói lái cũn được dùng khá nhiều. Để nói những cái mà thi sĩ không muốn nói trắng ra. Nhưng vào đầu thế kỷ 20 này thì lối nói lái đã được dùng vào văn thơ châm biếm để chế giễu những kẻ hãnh tiến. Sau một khoa thi, một anh học trò dốt đã bán nhà lấy tiền, nhờ người làm bài gian và cũng đã đậu tú tài. Hôm ăn mừng có người gửi tới hai vế câu đối:
Ất bảng đề danh phù mạc bất
Song đường cập biến cánh hà như
Nghĩa là:
Đậu được chút tú tài ôi là vì mất bạc
Hai cụ mắt thấy con thành đạt thì đã hư nhà.
Vào khoảng những năm đầu thế kỷ, có một viên thượng thư họ Đoàn. Ông ta trước đi làm bồi cho Tây, sau khi đã dắt ngựa cho bọn quan võ người Pháp đi đánh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy nên dần dần được đề bạt đến chức tổng đốc Nghệ An. Tết năm ấy, cụ thượng ăn mừng lục tuần. Một nhóm dân trong hạt đã đưa mừng một bức hoành phi sơn son thiếp vàng rất đẹp với hai chữ Hán: Quần thần. Cũng tết năm ấy một ông đường quan quê Hà Tĩnh cũng ăn mừng 60 tuổi. Ông này không có tài gì đặc biệt nhưng thường thường tự hào với bộ râu. Trong dịp thượng thọ cụ cũng nhận được một bức hoành phi sơn son thiếp vàng với bốn chữ đại tự: Hồng Lam tú khí.
Tất nhiên trong dịp có hai bức hoành phi ở nhà cụ thượng và cụ bố đã được treo lên trên chỗ cao nhất, vinh dự nhất. Nhưng đến ngày khai hạ thì mỗi cụ tiếp được một bức thư nặc danh bẩm lên để hai cụ biết rằng: Quần thần, bầy tôi tức là bồi tây. Còn bức kia: Hồng Lam tú khí có thể hiểu là cái khí tốt của đất Nghệ Tĩnh đã hun đúc nên cụ bố, nhưng cũng có thể hiểu là hàm long hơi (khí) tốt (tú).
Báo Văn nghệ số 441, 24-3-1972