Nhìn ra thế giới

Tình hình Trung Quốc gần đây (7)

Triển khai thực hiện phương án cải cách quân đội.

Ngày 24 ~ 26/11/2015, tại “Hội nghị công tác cải cách Quân ủy TW” ở Bắc Kinh, có 200 tướng lĩnh cao cấp và cao quan quân đội và địa phương dự. Tập Cận Bình, Chủ tịch Quân ủy TW kiêm Tổ trưởng Tiểu tổ lãnh đạo đi sâu cải cách Quân ủy TW, đã tuyên bố tại Hội nghị Chiến lược thực thi cải cách quân đội toàn diện, với nội dung“cần hình thành cục diện Quân ủy quản Tổng, Chiến khu chủ chiến, Quân chủng chủ kiến (xây dựng)”.

Từ định vị chức năng để bắt tay vào cải cách, làm nổi bật chức năng hạt nhân, chỉnh hợp chức năng gần nhau, tăng cường chức năng giám sát, tăng mạnh chức năng điều hòa phối hợp, cần tăng mạnh sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Quân ủy, thông qua các giải pháp quan trọng : Điều chỉnh thể chế Bộ Tổng quân ủy, thực hiện chế độ Quân ủy có nhiều bộ môn, tổ chức xây dựng cơ cấu lãnh đạo Lục quân, kiện toàn thể chế lãnh đạo quản lý quân binh chủng; điều chỉnh lại và lập các Chiến khu, tổ chức xây dựng cơ cấu chỉ huy tác chiến liên hợp chiến khu; Kiện toàn cơ cấu chỉ huy tác chiến liên hợp quân ủy. Dốc sức xây dựng Hệ thống chỉ huy tác chiến của Quân ủy, Chiến khu, Bộ độiHệ thống lãnh đạo quản lý của Quân ủy, Quân chủng, Bộ đội.

Về giảm 30 vạn quân và điều chỉnh quân chủng, không giản đơn là cắt giảm bao nhiêu quân, mà là thay đổi thể chế biên chế của toàn quân, tất sẽ tạo ra một cuộc “chấn động lập thể” từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, như tinh giảm nhân viên cơ quan và cơ cấu phi chiến đấu, làm cho quân đội càng tinh càng hiệu quả cao. Điều chỉnh cải thiện tỷ lệ quân chủng, tối ưu hóa kết cấu lực lượng quân chủng, căn cứ phương hướng nhu cầu an toàn và nhiệm vụ tác chiến khác nhau cải cách tổ chức biên chế bộ đội. Ngoài ra xúc tiến cải cách chế độ đối với sĩ quan, binh sĩ, nhân viên văn chức; đi sâu cải cách chế độ phúc lợi chữa bệnh, bảo hiểm, nhà ở, tiền lương quân nhân; hoàn thiện chế độ chính sách nguồn nhân lực và chế độ chính sách hậu cần quân sự.

Về chiến khu chủ chiến, Hiện nay quân đội Trung Quốc áp dụng chế độ “quân lệnh quân chính nhất thể”, tức dưới Quân ủy TW có 4 Tổng bộ tham mưu, chính trị, hậu cần, trang bị, các địa phương thiết lập khung cơ cấu 7 đại quân khu và không quân, hải quân, pháo II, vũ cảnh. Sau cải cách “quân lệnh và chính lệnh phân gia”.

Quân ủy quản Tổng, tức chỉnh hợp 4 Tổng bộ thành bộ môn trực thuộc Quân ủy (chế độ Quân ủy có nhiều bộ môn, còn trước chỉ có 1 Văn phòng Quân ủy; (Văn phòng Quân ủy có thể khôi phục thiết lập chức Bí thư trưởng Quân ủy TW); sẽ nâng chức năng Tổng Tham mưu, hoặc thiết lập Ủy ban tác chiến liên hợp, còn 3 Tổng bộ kia không còn chức năng chỉ huy, trở thành bộ môn của Quân ủy TW. Thiết lập các Tổng bộ trong Không, Hải, Pháo II và Vũ cảnh trực thuộc Quân ủy TW lãnh đạo.

 Còn “Quân chủng chủ chiến”, ngoài thiết lập Bộ tổng Lục quân ra, cộng thêm các bộ vốn có là Không quân, Hải quân,  Pháo II và Vũ cảnh, chỉ làm chức năng hàng ngày xây dựng quân đội, không còn đảm nhiệm chỉ huy tác chiến, có thể sẽ xóa bỏ Bộ tác chiến của các quân chủng.

“Chiến khu chủ chiến” là 4 đại Chiến khu chiến lược Đông, Tây, Bắc, Nam, (7 Đại quân khu Bắc Kinh, Thẩm Dương, Tế Nam, Nam Kinh, Quảng Châu, Thành Đô và Lan Châu hiện nay sẽ điều chỉnh lại và thiết lập 4 Đại Chiến khu chiến lược), sau khi chỉnh hợp sẽ chịu trách nhiệm chỉ huy tác chiến liên hợp trong khu phụ trách, không còn quản lý công tác hàng ngày bộ đội, chỉ có đủ công năng tư lệnh, qui mô cơ quan sẽ thu gọn nhiều. Sau khi công bố thiết lập 4 chiến khu, Quân khu Bắc Kinh kiến nghị cần có chiến khu Trung bộ, để bảo vệ phần Trung bộ và tăng viện đội dự bị tham gia chiến đấu cho 4 Đại chiến khu khi thời chiến, đã được Tập Cận Bình chấp nhận. Phạm vi phụ trách các Chiến khu chiến lược này không chỉ nội bộ lãnh thổ Trung Quốc mà còn phân chia vươn ra các vùng trên toàn thế giới. (Như Sơ đồ ở dưới : Chiến khu số 2 không chỉ phụ trách phạm vi Vân Nam, lưỡng Quảng, Phúc Kiến, Hải Nam mà còn cả vùng Mianma, Thái lan, Đông Dương, Biển Đông, các nước Asean xuống tận Úc. Hoặc chiến khu số 3 không chỉ trong phạm vi các tính Tây nam Trung Quốc mà còn vươn ra Ấn độ, Ấn Độ dương, sang Châu Phi, Âu, Đại Tây dương, qua châu Mỹ. Hai chiến khu kia cũng vươn ra phía Đông bắc và Tây bắc ra thế giới. Tất cả đều thể hiện tư tưởng chiến lược khuếch trương thế lực TQ ra thế giới. Đồng thời với đó từng bước xây dựng căn cứ quân sự ở nước ngoài theo từng phạm vi chiến khu. Như gần đây đã ký hiệp ước với Djibouti ở châu Phi thuê đất để xây căn cứ quân sự đầu tiên của TQ ở nước ngoài. (Tháng 5/2015 vừa rồi Tổng thống Djibouti, Ismail Omar Guelleh đã báo cho Thông tấn xã Pháp biết). Căn cứ này sẽ là điểm chi viện hậu cần, mở rộng phạm vi thế lực, không gian cho TQ đứng ở châu Phi, tiện cho thu thập tình báo đối với các nước xung quanh bán đảo Ả Rập, Ai cập, Li Bi và Trung Phi. Căn cứ này nằm ở Vịnh A-tinh phía đông bắc châu Phi, có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Pháp, Mỹ cũng đóng quân ở đây. TQ xây dựng căn cứ ở đây sẽ là một thách thức đối với Mỹ. Mỹ không muốn để Trung Quốc lấy mất cơ hội phát triển nhanh giai cấp trung sản Phi.)

Về Bộ Quốc Phòng và Vũ cảnh, trong phương án cải cách chưa công bố rõ. Đây là vấn đề cũng không giản đơn. Về lý, Bộ Quốc phòng thuộc hệ thống Chính phủ, do đó cải thế nào do Chính phủ quyết định. Nhưng thực tế, Bộ Quốc phòng chỉ là hình thức bên ngoài để thực hiện các chức năng đối ngoại quốc phòng, tuyển quân, giáo dục quốc phòng, … còn mọi nội dung quyết định về quốc phòng lại ở Quân ủy TW.

Hiện nay, Bộ Quốc phòng không có cơ cấu, biên chế cụ thể, chỉ mỗi nhiệm kỳ Đại hội Nhân đại bổ nhiệm một Bộ trưởng Quốc phòng (do một Ủy viên Quốc vụ kiêm, chức vụ bên trong là Ủy viên Quân ủy TW). Bộ Quốc phòng thậm chí không có trụ sở làm việc cụ thể, mặc dầu có “Đại lầu Bộ Quốc phòng”, thực tế bên trong là “Đại lầu Văn phòng Quân ủy TW”. Công tác đối ngoại (trước năm 1966 gọi là Cục ngoại sự) do Cục ngoại sự của Tổng Tham phụ trách; công tác quân dịch do Bộ động viên thuộc Tổng Tham phụ trách; công tác duy trì hòa bình do Bộ II Tổng Tham phụ trách.

Chức Bộ trưởng Quốc phòng, sau năm 1954 mới thiết lập, một thời là vị cao chức trọng trong hệ thống Chính phủ do Phó Thủ tướng hoặc Ủy viên Quốc vụ kiêm, với chức năng chủ yếu là xây dựng lực lượng vũ trang, chủ trì công việc thường ngày của Quân ủy TW và nắm hai quyền quân chính và quân lệnh. Sau Hội nghị Lư Sơn (tháng 9/1959), Lâm Bưu chủ trì công việc hàng ngày của Quân ủy TW, đồng thời giữ chức Phó Quân ủy TW và Bộ trưởng Quốc phòng. Kỳ thực lúc đó có đến 11 vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (La Thụy Khanh, Đàm Chính, Tiêu Kinh Quang, Vương Thụ Thanh, Liêu Hán Sinh, Lật Dụ, Trần Canh, Hứa Quang Đạt, Lưu Á Lâu....) Sau sự kiện Lâm Bưu (13/9/ 19..) quyền hạn Bộ Quốc phòng giảm dần, cho đến nay chỉ có một Bộ trưởng Quốc phòng đơn độc.

Cho nên hướng cải cách Bộ Quốc phòng nếu theo hướng “thực chất hóa” lại liên quan đến vấn đề “quốc gia hóa quân đội” hay thế nào chưa thấy công bố.

Về giám sát quản lý, lần cải cách quân đội này, cần xây dựng hệ thống ràng buộc và giám sát vận hành quyền lực nghiêm ngặt, sẽ tổ chức Ủy bản kỷ luật Quân ủy mới, thực hiện Tổ kiểm tra kỷ luật biệt phái vào các bộ môn cơ quan Quân ủy và Chiến khu, thúc đẩy thể chế lãnh đạo song trùng Ủy ban kỷ luật. Điều chỉnh, tổ chức Cục Kiểm toán quân ủy, toàn bộ thực hiện biệt phải kiểm toán. Về Tư pháp, lần này tổ chức Ủy ban chính pháp Quân ủy mới, điều chỉnh thể chế Tư pháp quân sự, và theo khu vực thiết lập cơ cấu Tòa án quân sự, Viểm Kiểm sát quân sự. Các bộ phận này đều thuộc Tổng Bộ chính trị Trung Cộng. (Trước đây, các bộ phận này thuộc Tổng chính trị, tổng Hậu cần, là địa bàn mua quan bán chức bán cấp, buôn bán lậu vũ khí, vật tư quân dụng, tham nhũng của Từ Tài Hậu, Quách Bá Hùng và Giang đứng đằng sau.)

Về chấm dứt quân đội làm dịch vụ có thu. Quân đội Trung Quốc từ thời ở Diên An đến sau năm 1949 vẫn có rất nhiều quân chủng có tính kinh tế. Sau cải cách mở cửa, rất nhiều bộ đội mở xí nghiệp. Cho đến sau năm 1998, quân đội và Vũ cảnh đã cấm hoạt động sản xuất kinh doanh kiểu xí nghiệp hóa, nhưng không thực hiện triệt để, vẫn cho phép một số đơn vị thực hiện dịch vụ có thu với bên ngoài về 10 lĩnh vực, (quân y, thông tin, bồi dưỡng nhân tài, văn hóa, kho tàng, khoa học công nghệ, cơ sở tiếp chiêu đãi, kỹ thuật xây dựng công trình, cho thuê nhà). Trong đó chủ yếu là các quân y khám chữa bệnh cho dân. Hầu như tất cả các Quân khu, Quân chủng, Tổng đội Vũ cảnh, các đơn vị lớn đều có bệnh viện của mình, và đều làm dịch vụ có thu. Nhiều bệnh viện quân y liên quan đến cắt, ghép, giao dịch tạng phi pháp thu về rất lớn (có tin nói là mỗi năm thu 1 tỷ usd, từ nguồn cắt tạng học viên pháp luân công, người bị cải tạo lao động, tù nhân, người lang thang, lưu manh). Nay quyết định chấm dứt toàn diện dịch vụ có thu với bên ngoài, như vậy có lợi cho làm trong sạch bộ mặt quân đội, giữ đúng bản chất và bản sắc quân đội, quan hệ đến lợi ích quân đội với địa phương, sẽ có biện pháp thiết thực khả thi.

Cải cách quân đội lần này là một quá trình chuẩn bị công phu, Tập Cận Bình trực tiếp đảm nhiệm Tổ trưởng Tiểu tổ đi sâu cải cách Quân ủy TW, chủ trì nghiên cứu các vấn đề quan trọng của cải cách. Đã tổ chức trên 860 cuộc tọa đảm, hội nghị luận chứng, trực tiếp đến trên 690 đơn vị để điều tra nghiên cứu; trực tiếp nghe ý kiến của trên 900 chuyên gia và tướng lĩnh cấp Quân đang tại chức và nghỉ hưu ; trên 2.000 thành viên ban lãnh đạo đơn vị Quân địa phương và sĩ quan bộ đội cấp Sư Lữ trở lên tham gia trả lời phiếu điều tra; rất nhiều quan binh cấp cơ sở, lão cán bộ quân đội, cán bộ quần chúng địa phương sôi nổi với nhiều phương thức kiến nghị cải cách.

Ngoài ra cũng tham khảo nghiên cứu về tổ chức quân đội một số nước trên thế giới.

Cuộc cải cách này chia làm 3 bước thực hiện, và hoàn thành trước năm 2020.

Bước 1, bắt đầu từ cuối tháng 12/2015, chủ yếu động đến cơ cấu trực thuộc Quân ủy;

Bước 2, bắt đầu từ cuối tháng 01/2016, cải cách 4 Tổng bộ Quân ủy;

Bước 3, khởi động vào tháng 02/2016, cải chế độ đại quân khu thành chế độ chiến khu.

Nhiều bình luận cho rằng đây không chỉ là một cuộc cải cách bình thường mà là một cuộc cách mạng lớn đối với quân đội do Tập Cận Bình tự lãnh đạo, tự quyết sách, tự thúc đẩy nhằm tạo ra lực mạnh thúc đẩy, đụng đến tầng sâu lợi ích, tạo ra phạm vi rộng ảnh hưởng, từ trước đến nay chưa làm được để đạt được yêu cầu mà Tập Cận Bình đưa ra là “xóa bỏ một quân đội chỉ giỏi vơ vét kiếm tiền, xây dựng lại một quân đội là để đánh trận, biết đánh trận, giỏi đánh trận, đánh thắng trận; xóa bỏ một quân đội chỉ biết phục vụ cho một nhóm lợi ích, xây dựng lại một quân đội để phục vụ toàn thể quốc dân, bảo vệ lợi ích quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Quân đội phải là lực lượng vũ trang của quốc gia, không phải của một nhóm lợi ích nào. Có như vậy mới xây dựng được một quân đội hiện đại, đáp ứng yêu cầu chiến tranh hiện đại, nhất là chiến tranh trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay. Có như vậy quân đội mới thực sự phục vụ cho “giấc mộng phục hưng Trung Hoa”, và đó cũng là “giấc mộng quân đội Trung Quốc”.

Về cơ cấu và nhân sự cụ thể của Quân ủy TW, hiện có 11, ngoài Tập Cận Bình ra còn có 2 Phó và 8 Ủy viên. Trong đó, Phạm Trường Long 68 tuổi; Ngô Thắng Lợi, 70 tuổi, Tư lệnh Hải quân; Mã Hiểu Thiên, Tư lệnh Không quân, 68 tuổi; Thường Vạn Toàn, Bộ trưởng Quốc phòng, 67 tuổi  đến ĐH 19 sẽ nghỉ vì tuổi cao.

Cơ cấu tổ chức Quân ủy TW mới, được xác định gồm :

3 Ủy ban : Bí thư UB kỷ luật quân đội Quân ủy TW, Lưu Nguyên, 64 tuổi, Thượng tướng (nguyên Chính ủy Tổng Hậu cần); Bí thư UB Chính pháp Quân ủy TW, Triệu Khắc Thạch, 68 tuổi, Thượng tướng (nguyên ủy viên Quân ủy TW, Bộ trưởng Hậu cần); Chủ nhiệm UB Khoa học công nghệ Quân ủy TW, Lưu Quốc Trị, 55 tuổi, Trung tướng, Viện sĩ Viện khoa học Trung quốc, chuyên gia vi sóng cao tần (nguyên Phó bộ Trang bị).

6 Bộ : Tổng Tham mưu trưởngBộ Tổng tham mưu liên hợp : Thái Anh Đĩnh, 61 tuổi, Thượng tướng (nguyên Tư lệnh Quân khu Nam Kinh, từng làm Bí thư cho Trương Vạn Niên); Chủ nhiệm Bộ công tác chính trị : Trương Dương, 64 tuổi, Thượng tướng (hiện là ủy viên Quân ủy TW,) Bộ trưởng Bộ quản lý huấn luyện : Ất Hiểu Quang, 57 tuổi, Trung tướng (nguyên Phó tham mưu trưởng); Bộ trưởng Bộ Động viên quốc phòng : Vương Quan Trung, 62 tuổi, Thượng tướng (nguyên Tham mưu phó, từng là Bí thư của Dương Thượng Côn); Bộ trưởng Bộ Bảo đảm liên hợp : Châu Tòng Hòa, 60 tuổi, Thiếu tướng (nguyên Phó Bộ Tổng Hậu cần); Bộ trưởng Bộ Phát triển trang bị : Lưu Thắng, 59 tuổi, Trung tướng (nguyên Phó bộ Tổng trang bị).

1 Văn phòng : Chủ nhiệm Văn phòng Quân ủy TW : Tần Sinh Tường, 58 tuổi, Trung tướng (hiện là Chủ nhiệm Văn phòng Quân ủy TW).

5Cục : Kiểm toán trưởng Cục Kiểm toán quân ủy TW : Tôn Hoàng Điền, 62 tuổi, Trung tướng (nguyên Phó bộ Tổng Hậu cần);  Cục trưởng Cục Bảo đảm quản lý Quân ủy TW : Lưu Chí Minh, 58 tuổi, Thiếu tướng (nguyên Bộ trưởng Liên cần quân khu Thẩm Dương); Cục trưởng Cục Ngoại sự Quân ủy TW : Quan Hữu Phi, 58 tuổi, Thiếu tướng (nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Ngoại sự, Bộ Quốc phòng); Cục trưởng Cục Quân viện Quân mậu Quân ủy TW : Phùng Đan Vu, 53 tuổi, Thiếu tướng, cháu Tướng quân Phùng Ngọc Tường, (nguyên Bộ trưởng Bộ Kế họach tổng hợp, Tổng bộ Trang bị); Cục trưởng Cục Qui hoạch chiến lược (hiện chưa rõ bố trí nhân sự cụ thể.).

 Chủ tịch Quân ủy TW Tập Cận Bình quyết định cuối tháng 12/2015 các cơ quan treo biển mới. Trước cuối năm 2015, tổ chức Hội nghị mở rộng Quân ủy TW mới. Ngày 01/01/2016 vận hành chính thức. Mọi điều lệnh, mệnh lệnh nhiệm vụ ban ra là chấp hành ngay, không có không gian để thương lượng, bàn tới bàn lui.

Nếu sắp tới vẫn thiết lập chức Phó chủ tịch Quân ủy và Hứa Kỳ Lượng 65 tuổi vẫn lưu lại sẽ là Phó chủ tịch Quân ủy số 1 của Tập, và thay vị trí của Phạm Trường Long. Trương Hữu Hiệp, 65 tuổi Bộ trưởng Tổng trang bị, cũng có thể là Phó Chủ tịch Quân ủy, sẽ thay vị trí của Hứa Kỳ Lượng (Trương Hữu Hiệp, là người đã tham gia đánh Việt Nam năm 1979, là thái tử đảng, cùng quê Thiểm Tây với Tập, cũng là thân tín của Tập). Thiếu tướng Dương Thành Hy, Chủ nhiệm Bộ chính trị Quân khu Thẩm Dương đảm nhận Phó Bí thư Ủy ban Kỷ luật quân đội Quân ủy TW.

Tổng bộ Lục quân, do Lý Tác Thành, 64 tuổi, nguyên Tư lệnh Quân khu Thành Đô đảm nhận Tư lệnh Tổng bộ Lục quân và sẽ vào Quân ủy TW (Lý Tác Thành, người An Hoa – Hồ Nam, tốt nghiệp ĐH Sư phạm Quảng Tây, Nghiên cứu sinh, năm 1970 nhập ngũ, bắt đầu từ Trung đội trưởng mà đi lên dần Tư lệnh Đại quân khu. Năm 1997, Thiếu tướng, 2009, Trung tướng, 7/2015 Thượng tướng, là người được Tập hết sức tin cậy.) Dưới Tổng bộ Lục quân thiết lập 5 Phân bộ chia quẩn 18 Tập đoàn quân. Lưu Lôi, Thiếu tướng, hiện là Chính ủy Quân khu Lan Châu sẽ đảm nhận Chính ủy Tổng bộ Lục quân.

Trương Thư Quốc, Chủ nhiệm Bộ Chính trị Quân khu Bắc Kinh đảm nhận Chủ nhiệm Bộ chính trị Lục quân.

                                                                    *

                                                               *       *

Một số phân tích cụ thể về cải cách quân đội lần này :     

Cuộc cải cách quân đội lần này tuy mới bắt đầu triển khai, nhưng đã có nhiều ý kiến phân tích từ nhiều góc độ khác nhau :

1) Về mô thức xây dựng quân đội. Dương Vu Quân, người phát ngôn Bộ quốc phòng Trung Quốc tại cuộc họp báo ngày 27/11/2015, đối với vấn đề mô thức cải cách quân đội lần này đã trả lời là tuy có tham khảo kinh nghiệm một số nước thế giới, nhưng không phải bắt chước, làm theo, mà là xuất phát từ thực tế quá trình phát triển của chế độ xây dựng quân đội Trung Quốc mà hình thành nên mô thức cải cách quân đội lần này.

Nhưng một số nhà phân tích thấy có nhiều điểm trong phương án cải cách quân đội Trung Quốc tương đồng với mô thức quân đội Mỹ.

      * Tổ chức Bộ Tổng tham mưu, phỏng theo khung cơ cấu Hội nghị liên tịch Tham mưu trưởng quân đội Mỹ, biến thành khung cơ cấu trí nang của tham mưu đưa ra quyết sách cho Chủ tịch Quân ủy TW.

      * Chia chiến khu, là để cho tác chiến binh chủng hỗn hợp trong chiến tranh tương lai, tức là đã từ “mô thức Liên Xô trước đây” (mô thức hình tháp) chuyển sang “mô thức quân đội Mỹ”.

      * Quyền chỉ huy, Thống soái tối cao của quân đội Trung Quốc là Chủ tịch Quân ủy TW. Nhưng nguyên tắc Trung Cộng là “đảng chỉ huy súng”, nên bắt đầu từ Giang Trạch Dân, Chủ tịch quân ủy và Tổng bí thư (còn có Chủ tịch nước) là một người. Trước cải cách lần này, các Bộ Quân ủy TW trên thực tế là Lục quân chủ đạo, định phương án tác chiến quân đội và điều động quân đội, do Bộ tổng tham mưu phụ trách cụ thể và chấp hành sau khi Chủ tịch Quân ủy TW phê chuẩn. Sau cải cách, Bộ Tổng Tham mưu do Chủ tướng 4 binh chủng Lục, Hải, Không, Vũ cảnh cấu thành, cùng quyết sách dưới sự chủ đạo của Chủ tịch Quân ủy TW. Mô thức tác chiến hỗn hợp nhiều quân chủng của quân đội Mỹ là phương hướng cải cách quân đội Trung Cộng lần này.

Thống soái cao nhất của quân đội Mỹ là Tổng thống Mỹ. Tổng thống là Tư lệnh 3 quân. Quân đội do Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách cụ thể, bên dưới có Bộ Lục quân, Bộ Hải quân, Bộ Không quân, phụ trách tổ chức huấn luyện bộ đội thuộc quân chủng của mình, vào thời chiến lại là Bộ chỉ huy hỗn hợp. Đây là điều cải cách quân đội Trung Quốc mô phỏng. Quyền chỉ huy các quân chủng ở trong tay Tham mưu trưởng các quân chủng, do Hội nghị liên tịch Tham mưu trưởng mà họ cấu thành, chịu trách nhiệm định kế hoạch tác chiến và tổ chức thực hiện. Đây cũng là phương hướng cải cách quân đội Trung cộng.

      * Cấu thành quân lực, Trung Quốc, Lục quân, hiện có 18 Tập đoàn quân với 1,7 triệu quân, chia ra 7 Đại quân khu; Không quân, có 398.000 quân, khoảng 3.300 máy bay, trong đó 2.100 máy bay chiến đấu, chia ra bố trí trong 7 Đại quân khu; Hải quân, chia ra 3 hạm đội lớn Bắc hải, Đông hải và Nam hải với 240.000 quân, với các loại chiến hạm trên 300 tàu, lính hàng không hải quân có trên 600 chiến đấu cơ; Pháo II (Bộ đội tên lửa chiến lược) có khoảng 130.000 quân (23 lữ) có khoảng 1.000 tên lửa các loại tầm ngắn, trung và xa.

Hiện nay, quân đội Trung Quốc lấy Lục quân làm chủ thể, Chủ tướng 7 Đại quân khu đều xuất thân từ Lục quân. Không quân phân bố trong 7 Đại quân khu, nhưng các Đại quân khu này không có quyền điều động. Sau cải cách quân đội, 3 quân Hải, Lục, Không đều độc lập, trong thời bình các binh chủng do mỗi Tổng bộ tự chỉ huy huấn luyện diễn tập. Trong thời chiến lại biên chế vào Chiến khu, tác chiến hỗn hợp, do Bộ chỉ huy Chiến khu thống nhất chỉ huy điều độ. Bộ đội tên lửa có thể biên chế vào Lục quân, còn Không quân có thể ghép vào nội dung chiến tranh vũ trụ.

Mỹ quốc, bộ đội hiện dịch có + 1,4 triệu quân, trong đó Lục quân 50 vạn, Hải quân 35 vạn, Không quân 35 vạn. Hải quân lục chiến 18 vạn (còn có + 70 vạn văn chức thuê).

Lục quân, chia ra 10 sư chiến đấu, 4 lữ độc lập và binh đoàn kỵ binh xe tăng. Hải quân, 7 hạm đội với 279 quân hạm và 4.000 máy bay. Không quân, 20 liên đội bay (mỗi liên đội có + 74 máy bay chiến đấu). Hải quân lục chiến biên chế thành 3 sư và 3 đại đội chi viện cần vụ, trang bị 3 liên đội bay (ước có 21 trung đội); còn có 1 sư dù.

Bộ đội hiện dịch Mỹ, chia ra 4 quân chủng Lục, Hải, Không, Hải lục không chiến. Các Bộ Lục, Hải, Không, phân thuộc dưới Bộ quốc phòng lãnh đạo. Lúc bình thường Hải quân lục chiến qui vào Hải quân lãnh đạo, nhưng trong tác chiến, chỉ tác chiến với quân chủng độc lập. Đây cũng là phương hướng cải cách quân đội Trung Cộng lần này.

Mỹ thiết lập mấy trăm căn cứ quân sự ở mấy chục quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, quân đóng ở nước ngoài có 30 vạn. Căn cứ quân sự hải ngoại đại thể chia ra châu Á, châu Á-Thái bình dương và Ấn độ dương, Trung đông và Bắc Phi và 4 Đại chiến khu ở châu Mỹ. Trên toàn cầu thiết lập Bộ tư lệnh Đại chiến khu có : Bộ tư lệnh phương bắc, Bộ tư lệnh Thái bình dương, Bộ tư lệnh trung ương, Bộ tư lệnh châu Âu và Bộ tư lệnh phương nam chia ra phụ trách sự vụ của mấy khu vực lớn toàn cầu.

     Trong lịch sử, quân đội Trung Quốc lấy phòng thủ quốc thổ làm chính, nên mô thức Quân khu chia theo vùng địa bàn, nhưng lần cải cách này bỏ mô thức Quân khu chuyển sang mô thức Chiến khu, chia theo 4 hướng Đông, Nam, Tây, Bắc, với ý nghĩa nào đó đã thể hiện vượt ra ngoài phạm vi quốc thổ, mang mùi vị tấn công vượt quốc gia. Ví như, phương hướng Chiến khu đông là Đài Loan, Nhật Bản, hễ khi xẩy ra chiến sự, Chiến khu này có thể điều động các binh chủng Lục, Hải, Không và Bộ đội tên lửa vào chiến đấu. Điểm này giống cách đánh của quân Mỹ.

Mô thức chiến đấu quân Mỹ về cơ bản là bộ đội liên hợp nhất thể hóa các binh chủng, Hải, lục, không hỗn hợp biên chế. Hơn nữa xu hướng biên chế bộ đội là kiểu nhỏ hóa, đa dạng hóa, vừa có thể chấp hành nhiệm vụ tác chiến, lại có thể chấp hành nhiệm vụ phi chiến tranh; vừa có thể thực hiện chiến tranh thường qui đánh cường độ cao, vừa, cũng có thể thực hiện đánh du kích cường độ thấp và xử lý các sự việc không lường trước. Đây cũng là mục tiêu mà cải cách quân đội Trung Cộng lần này theo đuổi.

* Về đội Vũ cảnh, Đội Cảnh vệ quốc dân của biên chế quân đội chuẩn Mỹ quốc, cũng là mục tiêu mô phỏng cải cách lần này của Trung Cộng. Trung Cộng giảm 30 vạn quân, một bộ phận trong đó chuyển qua bộ đội Vũ cảnh. Còn Bộ đội Vũ cảnh có đổi tên hay không, rất có thể cũng gọi là “Đội vệ cảnh quốc dân” tựa như bộ đội dự bị. Cũng có tin nói sau này đổi tên là “Đội cảnh vệ quốc dân” chịu sự chỉ đạo song trùng của Quân ủy TW và Quốc Vụ viện. Trong thời bình có nhiệm vụ bảo vệ bên trong và giữ gìn ổn định trong nước, chống khủng bố, bạo lực, bảo vệ biên giới, cứu nguy cứu nạn. Trong thời chiến, có thể biên chế vào bộ đội chính qui, biên chế vào Chiến khu tham gia chiến đấu.

Thượng tướng Lưu Á Châu, chính ủy Đại học Quốc phòng Trung Quốc nhận xét rằng, Mỹ đã đi xa hơn các nước về tư tưởng chiến tranh, lý luận tác chiến và kỹ thuật chiến thuật, có thể đánh bại liên quân thế giới. Cho nên đột phá khẩu cải cách quân đội Trung Quốc là ở học tập cái hay của quân đội Mỹ, từ cải đổi về quan niệm và giữ gìn truyền thống tốt của quân đội.

2) Về hậu quả cải cách. Nhuận Đào Diêm, nhà bình luận chính trị Bắc Mỹ, cho rằng cải cách quân đội Trung Quốc lần này là từ xây dựng chế độ hòa bình chuyển sang xây dựng chế độ chiến tranh. Cải cách quân đội của Tập là “chế độ xây dựng quân đội hiệu quả cao dưới chế độ dân chủ, mà phục vụ cho chế độ chuyên chế của thời hòa bình”. Còn cải cách quân đội thế này, đến nay, trên thế giới chưa hề có tiền lệ nào thành công.

Nhuận Đào Diêm dự báo, cải cách quân đội lần này có hai hậu quả :

1) Có thể gần với chế độ xây dựng quân đội của Mỹ, đạt được công năng đánh trận hiệu quả cao, cuối cùng tạo sức ép cải cách thể chế chính trị nội bộ đảng CSTQ, để kết thúc chế độ máy nhai thịt chuyên chế đấu tranh nội bộ, tức là thể chế máy nhai thịt chuyên chế quốc gia chuyển sang thể chế chính trị văn minh hiện đại, trước tiên bắt tay từ cải cách chế độ xây dựng quân đội.

2) Chế độ chuyên chế không thay đổi. Cải cách thể chế chính trị không phối hợp với cải cách chế độ xây dựng quân đội, dẫn đến khi quân đội bước vào thời kỳ đấu tranh nội bộ tầng cao, các phe phái tạo thành hỗn chiến quân phiệt thời Dân quốc. “Quân đội không thay đổi, kết cục số phận của cuối triều Thanh, Liên Xô trước đây đều là bài học của xe đi trước”. Cải cách chế độ xây dựng quân đội, cần phối hợp đồng bộ với cải cách thể chế chính trị, nếu không là tấm gương của hỗn chiến quân phiệt Dân Quốc.

3) Nhìn nhận về lực cản cải cách quân đội. Thạch Đào, chuyên gia vấn đề Trung Quốc, lại cho rằng, cải cách quân đội lần này là rất toàn diện, Tập Cận Bình biết rõ sẽ gặp nhiều trở lực, nên đã áp dụng một loạt giải pháp. Cái cách quân đội đụng đến toàn bộ lợi ích của quan trường, đụng đến toàn bộ cơ cấu tổ chức quân đội từ trung ương đến cơ sở. Tổng tham mưu đầy quyền lực biến thành cơ cấu chỉ huy, chỉ chỉ huy bộ đội. Tổng hậu cần, Tổng trang bị biến thành người cung cấp quân nhu trang bị, vũ khí tác chiến cho tất  cả bộ đội tác chiến. Tổng chính trị, là bộ môn căn bản nhất của đảng lãnh đạo quân đội, lại cũng cắt bỏ. Quân với Chính tách riêng, kỳ thức là “quốc gia hóa quân đội”. Giảm 30 vạn quân, trong đó có 17 vạn, ngoài sĩ quan ra còn có đoàn văn công, là do Tập quyết định. Như vậy gọi là cải ư ? Đó là trò đùa với số mệnh. Ngày nay là thời đại sống mái, không phải là thời đại cải cách. Cải cách chỉ là lời nói bề ngoài, có thể thay đổi. Quân đội Trung Quốc từ năm 1949 đến nay chưa có ai dám đụng đến. Đặng Tiểu Bình không dám đụng. Tập Cận Bình lại dám cải nó. Các quan của quân đội tựa như kỹ nữ, bỏ tiền ra mua, từ cao đến thấp đều có mức giá sòng phẳng. Nay Tập chỉ có thể làm thế này, đụng đến ai hay không đụng đến ai cũng chẳng có ý nghĩa gì, vì ai cũng vậy. Nền tảng của nó là đảng lãnh đạo quân đội, chỉ cần cái sân khấu đảng Cộng sản còn tồn tại, thì cải cách là không tồn tại. Trở lực của cải cách quân đội chính là từ cái sân khấu của đảng. Bởi vì Quan và kỹ nữ kèm theo Quan một thời đều là lên hương, là mốt, là đẳng cấp, nhiều Quan phải bỏ tiền ra mua, có người đến nay chưa thu lại vốn, nay bị cắt bỏ, làm sao chịu được ? Trở lực thực sự mà Tập đối mặt chính là tầng lớp trung gian trong xã hội.

      Sau Hội nghị TW3 đã xuất hiện Tiểu tổ đi sâu cải cách toàn quốc, tiếp theo xuất hiện 10 Tiểu tổ lãnh đạo cải cách các mặt. Tại sao Tập không sử dụng cơ cấu của đảng hiện có, lại lập nhiều Tiểu tổ thế ? Đó là “cách cái mệnh” của Giang Trạch Dân, “giữ cái mệnh” của Tập Cận Bình. Mọi việc về sau đều lấy tư cách Tiểu tổ cải cách để làm, ra các văn kiện cũng do Tiểu tổ ra. Vô hình chung Tập đã vứt bỏ mọi cơ cấu của đảng trước TW3 đến Đại hội 18. Tập dùng Tiểu tổ cải cách thay thế toàn bộ hệ thống đảng. cho nên khi nghe Bộ chính trị ủng hộ lời nói của Tập và thông qua nghị quyết ủng hộ Tập, không thấy động tác làm chủ nào của Bộ chính trị. Mỗi khi Tập triệu tập họp Bộ chính trị đều là vì để thông qua quyết định, sau đó lại dùng quyết định này để chống lại người của Bộ chính trị. Tập đã vứt bỏ Bộ chính trị, sự việc là thế.

      Trong tình hình đảng CSTQ còn tồn tại, Tập chỉ có thể gọi là cải cách, khi cải cách hoàn thành, sẽ phát hiện đảng không còn tác dụng gì nữa, và lúc đó đảng Cộng sản sẽ chết trong tay của bản thân đảng Cộng sản. Nhưng trong môi trường xã hội Trung Quốc hiện nay, trên sân khấu lớn còn là đảng Cộng sản, đang tồn tại rất nhiều cái tàn ác. Khi người chủ chính hiện nay chưa vứt bỏ Trung Cộng, xã hội sẽ mất kiểm soát toàn diện, nhiều hiện tượng trái nghịch khó lý giải, nhưng đó lại là sự thực đang phát sinh. Các quan Vụ trưởng Phó, Cục trưởng Phó hiện nay, bộ phận lớn trong đó, làn sóng chống tham nhũng chưa vỗ thới họ, nhưng họ đã hốt hoảng, không biết chạy đường nào, thoát lối nào. Họ biết rõ, thế nào cũng sẽ ập tới họ. Lý do là cách làm quan của họ trước đây, ăn chơi trác táng, vơ vét mọi thứ, không có cái gì mà họ không dám làm. Chính những cái này đã giúp họ leo lên được vị trí quan hiện nay, và cũng chính những thứ này sẽ đưa họ đễn chỗ đường cùng về số mệnh, và cũng chính vì vậy, trong thế trận này họ không quậy phá, ngang nghịch thì là ai nữa ? Khi đụng đến những đối tượng này, thì “ruồi” cũng ùa đến. Cả bầy ruồi không thể đập từng con như đánh “hổ” và cũng không thể đánh diệt cả bầy ruồi một lúc. Có lẽ phải tính đến là phải vứt bỏ cái mà ruồi bám vào, hấp dẫn ruồi đến.

4) Về giảm 17 vạn sĩ quan, Số sĩ quan này phần lớn là từ phá tung 7 Đại Quân khu mà bị cắt giảm. Qua theo dõi số sĩ quan bị cắt giảm gần đây cho thấy phần nhiều là sĩ quan trong hệ thống Chính ủy của các Đại Quân khu, phải chăng là kết hợp tẩy sạch ảnh hưởng của hệ thống tổ chức đảng dưới thời Giang Trạch Dân, Quách Bá Hùng, Từ Tài Hậu ?

5) Về quyết tâm cải cách quân đội của Tập. Đủ thứ lực cản như vậy, vậy Tập dựa vào gì để sống mái với mọi lực cản, để quyết tâm cải cách chế độ xây dựng quân đội ?

Tập Cận Bình khác với Hồ Cẩm Đào, Giang Trạch Dân, một là, Tập xuất thân trong gia đình quân đội, từng đánh đông dẹp bắc, máu chiến trường đã thấm sâu vào con người Tập ngay từ tuổi ấu thơ; hai là, Tập khi ở Đại học Thanh hoa, vừa tốt nghiệp đã vào công tác ở cơ quan Quân ủy TW, làm Bí thư cho Bộ trưởng Quốc phòng Cảnh Tiêu, ít nhiều cũng hiểu được các vấn đề quốc phòng, quân sự. Hơn nữa lại yêu cầu được xuống cơ sở rèn luyện, và suốt 30 năm từ cấp thấp mà tự phấn đấu bò dần lên cấp cao như ngày nay, có được quyền uy thực chất đối với 3 quân; ba là, bản thân Tập cũng rất say mê quân sự. Như khi ở Phúc Châu – Phúc Kiến đã tự tham gia các khóa huấn luyện dân quân dự bị. Chính vì vậy, quân sự, quân đội đối với Tập không có gì là xa lạ.

Còn về động cơ quyết tâm cải cách quân đội ? Qui luật chốn quan trường Trung Quốc mấy chục năm nay là mỗi khi đằng sau động tĩnh chính trị, quân sự ít nhiều đều dính đến nguyên nhân đấu tranh quyền lực từ tầng cao.

Như khi mới thành lập quân đội Trung Cộng, chia ra 6 đại Quân khu Đông bắc, Hoa Bắc, Hoa trung, Hoa đông, Tây bắc, Tây nam, là sản phẩm của Tưởng Giới Thạch đánh nội chiến. Mao Trạch Đông để đề phòng “quân phiệt cát cứ”, năm 1955 chia thành 11 đại Quân khu với ý là “nhỏ dễ nghe lời”. Đến năm 1975, Mao phát hiện các Quân khu tự lập “đầu núi” cùa mình, lại hạ lệnh Tư lệnh của 8 Quân khu phải luân đổi với nhau, không để ai ở cố định một chỗ.

Đến Đặng Tiểu Bình, vừa lên đã chủ đạo cuộc chiến với Việt Nam, nói là “phản kích tự vệ”, “chi viện người Campuchia đánh Việt Nam”, chẳng phải là Đặng để nắm quân quyền, dựng uy quyền mà đã bày ra đó sao, với trả giá sinh mạng của mấy vạn quân để có được địa vị hạt nhân của “người lãnh đạo thế hệ II” Trung Cộng. Tháng 6/1985, Quân ủy TW do Đặng chủ đạo, lại đề ra phương án “cải cách thể chế quân đội, tinh giản chỉnh biên”, giảm 1 triệu quân, đồng thời thống nhất bỏ 11 đại Quân khu và biến thành 7 đại Quân khu với mục đích là để củng cố Đặng khổng chế quân đội. Thời kỳ này Trung Cộng thực hiện “súng chỉ huy đảng”.

Đến Tập Cận Bình, cũng gặp vấn đề “xây dựng lại quyền uy’ như Mao, Đặng từng gặp. Nguyên nhân tạo ra vấn đề này là người tiền nhiệm Hồ Cẩm Đào đúng là một “nhi hoàng đế” thực sự, làm 10 năm Tổng bí thư, 8 năm Chủ tịch Tổng quân uỷ TW, nhưng lại chưa thực sự một ngày nắm quân đội. 8 năm nói là nắm quân đội, nhưng hoàn toàn giao quân đội cho 2 Phó chủ tịch Quân ủy TW là Quách Bá Hùng và Từ Tài Hậu nắm, tự mình “tự buông tay, chỉ giữ cái tiếng”. Thậm chí Hồ Cẩm Đào từ chối đến “Đại lầu Bát Nhất-1/8” làm việc, Văn phòng Chủ tịch Quân ủy TW để vắng.

Hồ Cẩm Đào tự “cam chịu bị rơi”, một là vì không hiểu quân đội, hai là bị tiền nhiệm Giang Trạch Dân khổng chế. Năm 2002, Giang trao gậy đảng, nhưng vẫn tiếp tục nắm gậy quân đội (Chủ tịch Quân ủy TW) với ý “tiễn một đoạn đường cho người mới”. Đến 2004, mới trao gậy quân đội cho Hồ. Càng thảm hơn, Giang lại cắm lại hai tâm phúc của mình là Quách, Từ. Mỗi văn kiện Quân ủy TW cần Chủ tịch ký, nhưng Hồ lại không dám ký, lại phải qua Quách, Từ ký trước, Hồ mới ký theo.

Như vậy, Tập tiếp nhận một cục diện quân đội là như thế nào, ai cũng rõ, lực uy hiếp đối với Tập không nhỏ. Nhưng Tập không như Hồ, không đi theo vết xe của Hồ, mà dùng “bắt giặc trước bắt chúa”. Trước lấy tội danh tham nhũng để hạ Quách, Từ xuống. Tiếp đến triển khai “triệt để tẩy sạch ảnh hưởng độc của Quách, Từ” không chỉ về tư tưởng, mà càng quan trọng là về tổ chức. Từ năm 2013 đến nay đã có cả trăm tướng, cao quan ngã với tội danh xử theo quân pháp, hành động thanh lọc còn đang tiếp tục.

Năm 2014, Tập Cận Bình chù đạo Hội nghị công tác chính trị tư tưởng toàn quân ở Cổ Điền – Phúc kiến, với ý nghĩa là khôi phục truyền thống “đảng chỉ huy súng”. Tại sao lại đảng ? Ai đại diện đảng ? không nói cũng rõ. Tập quyết không để cho cấp phó khổng chế cấp trưởng tái diễn. 10 đại Quân khu biến thành 7 đại quân khu của thời đại chủ chính, báo chí quan phương dùng “Hội nghị Cổ Điền” 76 năm trước để nói ý nghĩa cuộc cải cách quân đội lần này. Tại cuộc Hội nghị Tập nói rõ mục đích yêu cầu nội dung, thời gian hoàn thành cải cách, và còn nhấn mạnh, ai chống cải cách quân đội là chống tiến bộ quân đội, người đó sẽ bị hạ. Bất chấp mọi trở lực, Tập quyết tâm thúc đẩy cải cách quân đội. Lần cải cách này có ý nghĩa mốc lịch sử, có qui mô cải cách lớn nhất, sâu rộng nhất, hầu như phá bỏ toàn bộ thể chế quân đội hiện có để dựng lại thể chế quản lý quân đội, chế độ chiến khu quân đội, sẽ đưa quân đội buộc vào một sợi dây thừng hình thành lực chiến liên hợp.

Nguyên nhân thúc đẩy cải cách quân đội qui mô lớn này của Tập, mục đích đối nội là tăng cường sự khổng chế của đảng Cộng sản đối với quân đội. Tư tưởng chỉ đạo cải cách quân đội là “chính trị xây dựng quân đội”, tức là bảo đảm quân đội “trong bất kỳ tình huống nào đều kiên quyết nghe theo tiếng nói của đảng, đi theo đảng”. Mục đích đối ngoại là muốn xây dựng một quân đội lớn mạnh, có thể ngang ngửa với Mỹ. Từ khi Tập lên đến nay đã bằng hành động tỏ thế mạnh ở Đông hải (Đông bắc), Nam hải (biển Đông), tích cực phát triển Hải quân và thúc đẩy đi ra ngoài, đều phô trương dã tâm của Tập thông qua cải cách quân đội, cường hóa quân đội.

Từ những tư liệu, bối cảnh trên, có thể tìm thấy ngóc ngách của cải cách quân đội, có thể thấy Tập đã có qui hoạch tỷ mỷ thúc đẩy từng bước.Tập muốn thông qua cải cách , xây dựng một quân đội có “năng lực tác chiến”  không phải có “năng lực vơ vét tiên”, đưa ngân sách quốc phòng tăng lên mỗi năm thực sự dùng vào bộ đội tác chiến và phát triển trang bị tác chiến, làm chuẩn bị tốt cho ngoại giao cứng rắn và chính sách quốc phòng cứng rắn của Trung Quốc trong tương lai.

Yêu cầu cốt lõi của cải cách quân đội lần này là từ “nghiêm trị quân”, xây dựng hệ thống vận hành và giám sát quyền lực nghiêm mật trong hệ thống quân sự. Một mặt thông qua “từ nghiêm trị quân”, cường hóa và củng cố quyền khổng chế tuyệt đối của đảng đối với quân đội. Mặt khác, lấy “từ nghiêm trị quân” để tạo ra một quân đội lớn mạnh, hy vọng nó đạt được có thể ngồi ngang hàng với quân đội các nước phương tây, thậm chí có chuẩn mực vượt qua, để Tập thực hiện được giấc mộng Trung Quốc, phục hưng dân tộc./.

 

(Nguồn từ mạng chính thống và phi chính thống ở TQ, cung cấp để tham khảo.)

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578661

Hôm nay

2186

Hôm qua

2293

Tuần này

21860

Tháng này

225718

Tháng qua

130677

Tất cả

114578661