Không cần phải trở thành chuyên gia về hải quân cũng có thể đi đến kết luận: Với các hành động leo thang gần đây nhất, Trung Quốc gần như đã hoàn tất toàn bộ các bước đi cần thiết để biến Biển Đông thành chuỗi căn cứ quân sự hoàn chỉnh. Chuỗi căn cứ này tạo nên một vòng cung tác chiến từ đảo Hải Nam chạy dọc xuống Hoàng Sa và Trường Sa, khống chế toàn bộ vùng biển, vùng trời của Việt Nam và một số nước Đông Nam Á khác. Hoàng Sa và Trường Sa trên thực tế đang trở thành “các hàng không mẫu hạm không thể đánh chìm” của Trung Quốc án ngữ toàn bộ khu vực Biển Đông với hệ thống tên lửa hiện đại, máy bay chiến đấu thế hệ mới nhất... Rõ ràng thái độ và cách hành xử cho đến nay của Mỹ và các nước trong khu vực dường như đã không ngăn cản được “sự trỗi dậy” không mấy hòa bình của Trung Quốc. Trong bối cảnh Bắc Kinh đang tích cực triển khai hệ thống quân sự để kiểm soát toàn bộ Biển Đông, nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đều cho rằng, nay là lúc cần hình thành một mạng lưới đồng minh mới, trên quy mô rộng lớn hơn từ trước tới nay.
Hệ thống liên khu vực
Ngày 27/2/2016, phát biểu về những động thái gần đây của Bắc Kinh ở Biển Đông, Giáo sư James Holmes, thuộc Trường Đại học Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ, nhận xét: “Các tuyên bố chủ quyền sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu thiếu năng lực quân sự đi kèm. Vì thế, để phục vụ cho tham vọng chủ quyền trên Biển Đông, Trung Quốc mưu đồ đạt ưu thế tuyệt đối về quân sự tại đây. Bắc Kinh từng thực hiện ưu thế đó thông qua lực lượng tàu cảnh sát biển và một số tàu mang vỏ bọc phi quân sự, nhưng nay họ dường như đang chuẩn bị với một “cây gậy” lớn hơn”. Giải thích rõ hơn, ông Holmes đánh giá: “Việc triển khai chiến đấu cơ, hệ thống tên lửa đối không HQ-9... là để đòi hỏi cái mà họ tuyên bố là chủ quyền. Những gì đang triển khai là khung nền cho một sức mạnh hải quân hùng hậu tại Biển Đông, với chiến đấu cơ có thể hoạt động tầm xa, bao phủ khu vực rộng, kèm theo là tên lửa đối không tối tân”. Từ thực tế đó, Giáo sư Holmes dự báo: “Bắc Kinh sẽ dùng quân sự hậu thuẫn cho các chính sách ngoại giao đối với Biển Đông”.
Cũng trên tờ “Thanh Niên” ngày 28/2/2016, Tiến sĩ Satoru Nagao, chuyên gia của Diễn đàn nghiên cứu chiến lược Nhật Bản, giảng viên ngành An ninh thuộc Đại học Gakushuin (Nhật Bản), sau khi chỉ rõ những căng thẳng gần đây là do Bắc Kinh đẩy mạnh quân sự hóa Biển Đông, đã kết luận như sau[2]: Suốt một thời gian dài, các liên minh song phương của Mỹ với Nhật, Hàn Quốc, Úc, Philippines đã đảm bảo tình trạng cân bằng tại Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Tuy nhiên, các đối tác trong các liên minh song phương với Mỹ này lại thiếu sự hợp tác tay đôi mạnh mẽ và hiệu quả giữa mỗi nước với nhau. Ví dụ, cả Tokyo và Canberra đều là đồng minh thân cận với Washington, nhưng giữa Tokyo và Canberra lại không hợp tác chặt chẽ về an ninh, quân sự với nhau. Tất cả đều lệ thuộc vào nguồn lực quân sự của Washington. Vì thế, trước đây, khi Mỹ còn đủ nguồn lực quân sự để kết nối thì mạng lưới đồng minh song phương này có thể phát huy tác dụng, nhưng nay tình hình đã thay đổi, tài nguyên quân sự của Mỹ bị giảm thiểu, phân bổ ra nhiều khu vực. Mạng lưới đồng minh cũ không đủ sức duy trì ổn định trong khu vực. Vì vậy, theo Tiến sĩ Nagao, cần phải hình thành một hệ thống liên kết mới nhằm đảm bảo hòa bình ổn định.Trên thực tế, một hệ thống đồng minh mới đang dần nổi lên trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương nối liền Ấn Độ Dương[3].
Trùng hợp với tinh thần nói trên, ngày 25/2/2016, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Dy, một cựu quan chức từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, từng đề xuất các sáng kiến tương tự[4]. Theo chuyên gia này, từ nay, Mỹ và các đồng minh tiềm năng cần kết nối thành một hệ thống liên minh trên thực tế (de facto alliance) dựa trên nền tảng của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), cũng như cơ chế an ninh tập thể liên khu vực, để ngăn chặn Trung Quốc. Một mạng lưới đồng minh mới như vậy có thể gồm các nước nòng cốt như Mỹ, Nhật, Việt Nam, Philippines, Ấn Độ, Úc, cùng tham gia tuần tra trên Biển Đông, bổ sung cho vai trò an ninh tập thể của ASEAN đang yếu kém vì bị chia rẽ, đồng thời thúc đẩy tam giác Mỹ-Trung-Việt chuyển động theo hướng “thoát Trung”. Một hệ thống đồng minh liên khu vực như vậy là khả thi, vì sau tranh chấp đảo Điếu Ngư, khủng hoảng dàn khoan HD 981 và đặc biệt là sau các bước leo thang nguy hiểm mới đây nhất của Trung Quốc (triển khai tên lửa, máy bay chiến đấu và các dàn radar trên đảo Phú Lâm của Việt Nam), các mối quan hệ Trung-Nhật và Trung-Việt sẽ khó trở lại như trước đây nữa (beyond the point of no return).
Gót chân Asin của Trung Quốc
Ngày 20/1/2016, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS, Hoa Kỳ) đã công bố báo cáo định kỳ: “Tái cân bằng Châu Á—Thái Bình Dương 2025”. Trong báo cáo này[5], các tác giả khuyến nghị rằng học thuyết ngăn chặn (containment) áp dụng từ thời Chiến tranh lạnh đã không còn phù hợp nữa. Muốn đối phó hiệu quả với sự trỗi dậy “không hòa bình” của Trung quốc hiện nay, đặc biệt là tại Biển Đông, Mỹ phải kết hợp cả ba yếu tố là “can dự” (engagement), “răn đe” (deterrence) và “trấn an” (reassurance). Dù đây có phải là sự thỏa hiệp giữa các trường phái hay không, thì cách đề cập của CSIS là hợp lý, vì nó phản ánh được bản chất phức tạp của bàn cờ trên Biển Đông và tư duy lắt léo của giới cầm quyền Trung Quốc. Khi ứng dụng “binh pháp Tôn tử” (hay áp dụng thế Cờ Vây), chắc các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc cũng ứng dụng một cách linh hoạt như “Tam chủng Chiến pháp”. Linh hoạt (hay quyền biến) theo logic “hư hư thực thực” (vừa thật vừa giả), thiên biến vạn hóa luôn là phương châm chỉ đạo hành động của lãnh đạo Trung Quốc. Có thể hình dung bàn cờ Biển Đông sẽ diễn biến giống như một “trận đồ bát quái”. Nhìn cách Trung Quốc triển khai bố trí các cơ sở hạ tầng quân sự tại Biển Đông (Trường Sa và Hoàng Sa), cũng như trên đất liền, ta thấy bộ khung của một chiến lược tổng thể, giống như một ma trận.
Tuy nhiên, bộ khung chiến lược nói trên có một điểm yếu khó khắc phục. Giới am hiểu nội tình Trung Quốc cho rằng, cục diện kinh tế, xã hội, chính trị nước này đang xấu đi nghiêm trọng, có thể đẩy nhanh quá trình sụp đổ của chế độ[6]. Đây chính là gót chân Asin (Achilles), thậm chí có thể là tử huyệt của Trung Quốc. Đó cũng vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán, dựa trên tinh thần dân tộc cực đoan, để thay đổi nguyên trạng (bên ngoài), và tăng cường các biện pháp trấn áp để duy trì cục diện (bên trong). Đây cũng là hai trụ cột chính của Tập Cận Bình để thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”. Nhưng chính điều này có thể sẽ phản lại ông ta, dẫn đến “hệ quả không định trước”. Tiếp theo phát biểu của ông Tập về các nguy cơ lớn trong Đảng, gần đây Bí thư Ủy ban Kỷ luật Trung ương Vương Kỳ Sơn công khai thừa nhận Trung Quốc đang đối mặt với các vấn đề nan giải, có nguy cơ đi đến bờ vực của sự tan vỡ[7]. Nói cách khác, những gì đang “nóng lên” ở Biển Đông không thể tách rời những gì đang diễn ra tại Bắc Kinh và Thượng Hải. Biển Đông là một canh bạc lớn và một con dao hai lưỡi đối với Trung Quốc. Hẳn nhiên, chẳng ai muốn Trung Quốc sụp đổ, vì đó sẽ là một thảm họa toàn cầu. Nhưng một nước Trung Quốc đứng trước nguy cơ đổ vỡ có thể giảm thiểu nhưng cũng có thể thúc đẩy động lực bành trướng và bá quyền trên Biển Đông.
Theo đánh giá của nhà nghiên cứu độc lập David Brown (Mỹ), việc Trung Quốc triển khai các phương tiện chiến tranh đến đảo Phú Lâm là bước đi mới nhất trong chiến dịch âm mưu làm bá chủ Biển Đông của nước này. Tuy nhiên, cũng theo cựu chuyên viên Ngoại giao này, Mỹ và Nhật sẽ không khuất phục trước các bước leo thang quân sự đang gia tăng của Bắc Kinh, vì Mỹ và đồng minh có lợi ích chiến lược trong tuyến đường giao thương hàng hải quan trọng kéo dài từ eo biển Singapore đến Đông Bắc Á. Các hoạt động tự do hàng hải của hải quân Mỹ và các cuộc diễn tập chung với lực lượng hải quân của một số nước Đông Nam Á có thể được xem là một phản ứng toàn diện đối với các tuyên bố chủ quyền lãnh hải sâu rộng và phi lý của Bắc Kinh. Tuy nhiên, chỉ hành động của Mỹ và nước đồng minh Nhật Bản và có thể cả Úc là chưa đủ để phản ứng với các hành động khiêu khích của Trung Quốc. ASEAN phải nhận thức rằng những áp lực mà Trung Quốc đặt lên Việt Nam và Philippines hiện nay sẽ được nối tiếp bởi các động thái làm suy yếu Malaysia, Singapore và Indonesia. Trung Quốc sẽ bẻ gẫy từng chiếc đũa một trong toàn bộ “bó đũa” ASEAN.
*
Thời gian gần đây, Việt Nam đã công khai hóa quan điểm ủng hộ vai trò của Mỹ tại Biển Đông. Trong một tuyên bố hiếm hoi về các hoạt động quân sự của Mỹ trong khu vực, ngày 31/1/2016 vừa qua, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng tán đồng chiến dịch bảo vệ quyền tự do hàng hải được Hải quân Mỹ tiến hành một hôm trước đó khi cho khu trục hạm USS Curtis Wilbur tiến vào bên trong vùng 12 hải lý của đảo Tri Tôn (Hoàng Sa) thuộc chủ quyền của Việt Nam, nhưng hiện do Trung Quốc chiếm đoạt. Theo ông Lê Hải Bình, “Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như quần đảo Trường Sa”, nhưng Việt Nam “tôn trọng quyền đi qua vô hại trong lãnh hải được thực hiện phù hợp với các quy định có liên quan của luật pháp quốc tế”. Không chỉ ủng hộ các hành động của Washington, Hà Nội thậm chí còn công khai kêu gọi Mỹ can dự sâu hơn nữa vào Biển Đông. Trong cuộc tiếp xúc song phương với Tổng thống Mỹ Barack Obama ngày 16/2 bên lề Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ-ASEAN tại Sunnylands (California, Hoa Kỳ), Thủ tướng Việt Nam đã không ngần ngại yêu cầu Mỹ có những hành động mạnh mẽ hơn nữa tại khu vực. Biển Đông giờ đây không chỉ là chuyện của thiên hạ. Đường sinh mệnh của Việt tộc sẽ bị khóa chặt, nếu không huy động được mọi nguồn lực để ngăn chặn Trung Quốc hành xử như hiện nay./.
[1] “Hội chứng ếch luộc” dựa trên giả thuyết, nếu một con ếch bị quẳng vào nồi nước sôi, nó sẽ nhảy ra ngay lập tức. Nhưng nếu người ta cho nó vào nồi nước lạnh, đun nóng từ từ, ếch sẽ không nhận ra sự nguy hiểm, ngồi yên và sẽ bị nấu đến chết.