Những góc nhìn Văn hoá

Việt - Mỹ: Nghịch lý có còn không?

Phát biểu trưa 24/5 liệu sẽ được liệt vào diễn văn hay nhất về quan hệ Mỹ—Việt? Tổng thống Obama đi từ thơ Lý Thường Kiệt và Nguyễn Du đến nhạc của Văn Cao và Trịnh Công Sơn. Ông nói: “Chúng ta là hai nước độc lập, dù lớn hay nhỏ đều có chủ quyền của mình, phải được tôn trọng tuyệt đối. Nước lớn không thể “ăn hiếp” nước nhỏ”. Lẩy Kiều khi kết thúc “Trăm năm còn một chút này làm ghi” để bày tỏ niềm lạc quan về tương lai. Ông Obama “cảm ơn Việt Nam”, vẫy chào rồi lùi vào cánh gà một cách ấn tượng.

Vậy là cuối cùng chúng ta đã biết được các phương lược chủ yếu của mối quan hệ Việt—Mỹ sau khi lịch trình của Tổng thống Barack Obama tại Hà Nội và Sài Gòn kết thúc. Bao khoảnh khắc lịch sử trong ba ngày đáng nhớ ấy, từ 23—25/5/2016! Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh chiều 23/5 khi ông tiếp Tổng thống Obama đến chào xã giao: “Chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Obama có ý nghĩa quan trọng trong mối quan hệ hợp tác, phát triển giữa hai quốc gia Việt Nam – Hoa Kỳ”. Chủ tịch nước Trần Đại Quang đón và hội đàm tại Dinh Chủ tịch, Tổng thống Obama hội kiến với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Một chương mới đã bắt đầu mở ra trong quan hệ song phương. Việt Nam và Hoa Kỳ ra Tuyên bố chung, cam kết đưa quan hệ “đối tác toàn diện” theo hướng hợp tác sâu sắc hơn. Hai bên nhất trí ưu tiên cao việc giải quyết hậu quả chiến tranh ở Việt Nam, dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Tuyên bố bỏ cấm vận vũ khí quân sự, từ giờ phút này, được coi là biểu tượng không thể tranh cãi của tiến trình bình thường hóa hoàn toàn quan hệ. Cục diện địa chính trị Đông Nam Á và rộng hơn là khu vực Tây Thái Bình Dương sẽ thay đổi khi quan hệ Việt-Mỹ được nâng lên tầm cao hơn. Một không—thời gian địa chính trị được khai mở khi cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ tuyên bố tại cuộc họp báo chung, hai bên nhất trí tăng cường quan hệ “đối tác toàn diện” theo hướng sâu sắc, hiệu quả hơn. Lấy hợp tác phát triển làm trọng tâm quan hệ hai nước[1].

Chất lượng bang giao

TÌNH CẢM BẠN BÈ là thông điệp đầu tiên Tổng thống Obama vừa muốn chuyển đến Việt Nam, vừa muốn mang về nước Mỹ. Tại cuộc họp báo chung với lãnh đạo ta, Tổng thống Obama phát biểu, chuyến thăm của ông cho thấy một điều rõ ràng là nhân dân hai nước rất mong muốn quan hệ song phương gần gũi hơn, sâu sắc hơn[2]. “Khi đi trên phố, tôi thấy rất nhiều người đứng dọc hai bên đường để chào đón chúng tôi hôm nay. Tôi mang theo lời chào và tình cảm bạn bè của người dân Mỹ, trong đó có những thành viên nổi bật trong Quốc hội đi cùng tôi trong chuyến thăm này, cũng như của nhiều người Mỹ gốc Việt mà chính gia đình họ đã mang chúng ta lại gần nhau và nhắc nhở chúng ta về những giá trị mà chúng ta cùng chia sẻ”, ông Obama nói một cách bình dị. Tổng thống Mỹ cũng phân trần, hai quốc gia đã trải qua xung đột, ngăn cách đau đớn và một thời gian dài hòa giải trước khi tiến đến hợp tác. “Giờ đây, hơn hai thập kỷ bình thường hóa quan hệ giữa hai chính phủ cho phép chúng ta bước sang một giai đoạn mới”. Trong cuộc hội đàm sáng 23/5, hai nguyên thủ Việt—Mỹ đã trao đổi kỹ về quan hệ song phương và các vấn đề khu vực, quốc tế cùng quan tâm, bày tỏ hài lòng trước những tiến triển nhanh chóng, thực chất và toàn diện của quan hệ song phương. Tổng thống Obama nhất trí sẽ sớm thúc đẩy Quốc hội Mỹ thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), cam kết trợ giúp Việt Nam nâng cao năng lực để triển khai thỏa thuận này. Hai bên nhất trí coi trọng hợp tác phát triển, bao gồm tăng cường quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư; nâng cao hợp tác giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, an ninh và quốc phòng, quan hệ nhân dân hai nước, nhân quyền, nhân đạo và giải quyết hậu quả chiến tranh[3].

ĐỒNG MINH có thể là từ mới, sẽ xuất hiện sau chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama? Hẳn nhiên, nội hàm của khái niệm này trước mắt chỉ giới hạn ở cấp độ “đồng minh kinh tế” và cũng chỉ trong khuôn khổ Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TTP). Cũng như giai đoạn đầu của thời kỳ hội nhập, ta chỉ mới cân nhắc đến “hội nhập kinh tế”, thay vì khẳng định “hội nhập toàn diện” như hiện nay. Từ “đối tác toàn diện” đến “đồng minh toàn diện”, con đường phía trước dài hay ngắn, cho đến nay chưa ai đưa ra dự báo, nhưng không hẳn là bất khả thi. Bởi vì, sau khi cả hai chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ quyết định tiếp tục thúc đẩy quan hệ “đối tác toàn diện”, chất lượng quan hệ giữa Washington—Hà Nội đã chuyển qua một “pha” khác trước đây. THỎA THUẬN LỚN là cụm từ bao quát khác do ông Phạm Quang Vinh, đại sứ Việt Nam tại Washington đưa ra với truyền thông quốc tế khi ông bình luận về chuyến thăm[4]. Thông qua Ký kết hợp tác toàn diện Hoa Kỳ—Việt Nam năm 2013 và Tuyên bố tầm nhìn chung có được trong chuyến thăm Mỹ lịch sử của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7/2015, hai nước đánh giá, mối quan hệ quan hệ Việt Nam—Hoa Kỳ đã có sự phát triển nhanh chóng, bền vững, toàn diện trong những năm qua. Các cuộc hội đàm, hội kiến và Tuyên bố chung tại Hà Nội kỳ này đã đề cập đầy đủ các lĩnh vực cụ thể[5]. Lợi ích chung của hai nước ngày càng được mở rộng thông qua việc tăng cường trao đổi các đoàn đại biểu các cấp và giữ vững cơ chế đối thoại định kỳ.

DÂN TỘC—DÂN CHỦ—NHÂN QUYỀN là một “bộ tam” ấn tượng qua chuyến thăm. Không ngẫu nhiên chút nào khi nhà nước và quốc hội Việt Nam, cùng phía Mỹ đã chọn dịp này để hoan nghênh Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ. Tổng thống Mỹ lần này sang Việt Nam đã tiếp xúc với Ban lãnh đạo mới đang  xây dựng một chính phủ “kiến tạo” và “phục vụ” để trở nên gắn bó với dân hơn. Cùng với chính sách đối nội ấy là một chủ trương về đối ngoại lấy mở cửa và hội nhập toàn diện làm định hướng chiến lược. Bởi vì, đường lối ngoại giao có tính dân tộc và dân chủ là chủ trương của đảng và chính phủ ta ngay từ những ngày nền cộng hòa dân chủ còn trong trứng nước. Dân tộc—Dân chủ cũng là mục tiêu hàng đầu của cuộc cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác quyết rõ trong Tuyên ngôn Độc lập. Giờ đây, chính phủ Hoa Kỳ đã vượt qua những khác biệt về nhân quyền để điều chỉnh chính sách đối ngoại bằng cách bỏ cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, bất chấp một số chỉ trích trong quốc hội Mỹ. Nói cho cùng, Dân chủ—Nhân quyền chính là vũ khí “mềm”, vũ khí “thông minh” của Việt Nam mà ta chưa sử dụng hết công năng. Các “đối tượng” của Việt Nam chưa hẳn đã sợ “sức mạnh cứng” của đất nước này. Điều họ quan ngại nhất là Việt Nam sẽ “dân chủ hóa” thành công và có một hệ thống “đối tác chiến lược” đạt chuẩn.

Thế quân bình khu vực

VỊNH CAM RANH là một quyết định quan trọng từ phía Việt Nam được các quan sát viên quốc tế nóng lòng chờ đợi lâu nay. Ngày 8/3/2016, cảng quốc tế Cam Ranh được khai trương. Từ đấy, cảng Cam Ranh có nhiệm vụ đón tiếp các tàu quân sự, tàu khách quốc tế, cung cấp dịch vụ hàng hải ghé vào căn cứ này để tiến hành các hoạt động bảo đảm cho hoạt động của họ. Trong bối cảnh bang giao Việt—Mỹ ngày càng mạnh lên, quan hệ đang gia tăng hàng tuần (như lời đại sứ Ted Osius), hải quân Hoa Kỳ muốn cho các chiến hạm được sử dụng dễ dàng và thường xuyên hơn cảng Cam Ranh. Việc cho phép Mỹ được tiếp cận lâu dài với Cam Ranh sẽ là một sự khẳng định mạnh mẽ biểu tượng của mối quan hệ đối tác đang nảy nở giữa chính quyền Mỹ và Việt Nam, cùng lúc có thể vô hiệu hóa nhiều cơ sở quân sự mà Trung Quốc xây dựng phi pháp ở Biển Đông. Mặt khác, khi xảy ra điều này, ấy sẽ là dấu hiệu cho thấy một “pha” mới trong thế quân bình tại khu vực xuất hiện. Không chỉ Mỹ, mà cả hải quân Nhật, Ấn Độ hay Úc châu sẽ tiếp cận quân cảng. Sau chuyến thăm này, Việt Nam có thể thỏa hiệp ra sao trong vấn đề tế nhị này sẽ có ý nghĩa quan trọng. Việt Nam đã có kế hoạch nhiều mặt đối với quân cảng này. Về quân sự, quân này sau khi được nâng cấp, cảng sẽ đóng vai trò to lớn trong việc triển khai lực lượng hải quân ra khu vực có tranh chấp trên Biển Đông. Quan trọng hơn, bằng việc cho các nước tiếp cận cảng này, chúng ta có cơ hội để tăng cường mối quan hệ quân sự với các nước đó, củng cố vị thế “chất lượng bang giao” và “thế quân bình” trong những nỗ lực nâng cao vai trò của Việt Nam ở khu vực.

KHÔNG QUAY LƯNG LẠI TRUNG QUỐC, dù Việt Nam sẽ xích gần hơn về phía Mỹ. Ấy là tinh thần bình luận hôm 19/5 của Hoàn cầu Thời báo (Trung Quốc) khi thừa nhận việc Việt Nam tiến lại gần hơn Mỹ là một tiến trình tự nhiên đối với việc phát triển nền kinh tế dựa vào xuất khẩu ở Đông Nam Á, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc Hà Nội có ý định xa lánh Trung Quốc[6]. Nếu để điều ấy diễn ra sẽ tổn hại tới mối quan hệ kinh tế của Việt Nam với một đối tác thương mại quan trọng. Ấn phẩm của tờ Nhân dân Nhật Báo thừa nhận: “Phát triển mối quan hệ với Hoa Kỳ có thể giúp Việt Nam thúc đẩy hơn nữa các lợi ích quốc gia… Không có bất kỳ lý do gì khiến Trung Quốc ghen tị hoặc hoảng sợ về mối quan hệ gần gũi hơn giữa Việt Nam và Hoa Kỳ”. Tuy nhiên, các sự kiện đã/đang diễn ra trước chuyến thăm khiến dư luận hoài nghi “thiện chí” của Trung Quốc đối với quan hệ Việt—Mỹ. Thậm chí họ còn  muốn phá quan hệ Việt—Mỹ, giở trò đơm đặt chuyện kể cả việc giải quyết sự cố môi trường biển ở miền Trung hòng làm nản quyết tâm của Mỹ về việc “hội nhập” Việt Nam vào các định chế khu vực trong chiến lược “xoay trục” sang châu Á của Hoa Kỳ. Nhưng những gì chúng ta thấy trong chuyến đi của Tổng thống Obama đã chứng tỏ quan hệ Việt – Mỹ đã vượt qua những chướng ngại đó.

AN NINH TẬP THỂ CHÂU Á có được đề cập trong dịp này? Rời Việt Nam, ngày 25/5 Tổng thống Obama bay sang Hiroshima để dự Cấp cao G7. Liền kề với tin này là chuyến thăm Tokyo vào ngày 1/6 tới đây của Tổng trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton B. Carter. Lần này, Hoa Kỳ và Nhật Bản sẽ tiếp tục cân nhắc “hợp tác chi viện” cho các nước như Việt Nam và Philippines để đối phó với yêu sách chủ quyền vô lý và phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Sau đó, Tổng trưởng Quốc phòng của Nhật Bản và Mỹ—ông Gen Nakatani và ông Ashton B. Carter—sẽ tham dự Hội nghị An ninh châu Á tổ chức ở Singapore (Đối thoại Shangri-La) vào ngày 3/6/2016. Hợp tác an ninh ba bên Mỹ-Nhật-Úc sẽ tiếp tục phát triển trong thập kỷ tới và mức độ can dự của Hà Nội sẽ được điều chỉnh một cách phù hợp với chiến lược an ninh của Việt Nam và các nước ASEAN khác. Đây là một mô hình sẽ được nhân rộng với các hình thức khác nhau trong khu vực. Ba đồng minh hiệp ước này không chỉ đầu tư vào hợp tác dựa trên liên minh của họ, mà còn cùng nhau hợp tác để xây dựng một cấu trúc an ninh lấy ASEAN làm trung tâm trong khung khổ “Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng” (ADMM+) nhằm thuyết phục Bắc Kinh rằng các lợi ích an ninh quốc gia của nước này sẽ được phát huy tốt nhất khi tham gia vào quá trình xây dựng các quy tắc trong khu vực, tuân thủ các quy định quốc tế, đồng thời sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự để thúc đẩy an ninh và ổn định khu vực.

Năng động và tự cường

CUỘC CHẠY ĐUA TRÊN BIỂN ĐÔNG ngày càng hun nóng bầu không khí chính trị khu vực. Trong số ít những vấn đề đau đầu của thế giới hiện nay, tham vọng tìm kiếm bá quyền của Trung Quốc đã được đưa lên hàng đầu cùng với biến đổi khí hậu, thánh chiến Hồi giáo và virus Ebola[7]. Đây là một vấn đề vô cùng nan giải song nó đã trở thành một phép thử quan trọng cho việc liệu trật tự quốc tế có thể dung hòa lợi ích của một “Trung Quốc đang trỗi dậy” hay không. Mục tiêu chính của Trung Quốc, từ việc việc bồi đắp các đảo đá chiếm phi pháp cho đến đẩy mạnh quân sự hóa trên Biển Đông, là muốn chứng tỏ sự hiện diện và xác định quyền kiểm soát toàn thể Biển Đông trong tương lai. Trong một cuộc trò chuyện với Hãng tin Reuters (19/10/2015), Tập Cận Bình nhấn mạnh, từ xa xưa, các đảo và bãi đá ở biển Đông vốn đã thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Đó là tài sản do tổ tiên của người Trung Quốc để lại[8]. Về phần mình, ngoài việc kiên trì và mở rộng cuộc đấu tranh trên mặt trận pháp lý và truyền thông, chúng ta phải nổ lực nhiều hơn và chủ động nhiều hơn trong việc tìm phấn đấu để trở thành một quốc gia về biển. Đặc biệt, cần tìm được nguồn lực tài chính và công nghệ bảo đảm cho chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với kinh tế biển? Ngày 4/5/2016, trong chuyến công tác tại các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nhấn mạnh, phát triển kinh tế biển phải gắn với bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Các “chất lượng bang giao” và “thế quân bình” mới sẽ là giá đỡ cho Việt Nam triển khai công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên biển một cách hiệu quả nhất.

Những ngày này, dư luận trong nước và quốc tế cũng không bỏ qua việc Trung Quốc đang dùng mọi chiêu trò để gây thiệt hại về tính mạng và tài sản cho ngư dân Việt Nam. Hai cuốn sách nổi tiếng gần đây của hai nhà học giả Mỹ cùng chủ đề, Robert Kaplan với “Chảo dầu Châu Á: Biển Đông và Sự kết thúc của một Thái Bình Dương ổn định” và Bill Hayton với “Biển Đông: Cuộc chiến Quyền lực ở Châu Á” đã phân tích một cách khá đầy đủ tình trạng hiện nay trên Biển Đông. Đây là hai cuốn sách rất khác nhau. Ông Kaplan khái quát sơ lược về bản sắc dân tộc, lợi ích quốc gia và nỗi ám ảnh có chủ đích của các lãnh đạo Châu Á về trật tự. Theo ông Kaplan, tất cả đều quy về sự cân bằng quyền lực, một cuộc tranh hùng diễn ra “trong bối cảnh mới có phần ảm đạm của thế kỷ 21”. Đông Nam Á mà ông Kaplan nhắc đến là khu vực mà Trung Quốc trỗi dậy hướng tới việc đưa các nước chư hầu ngày xưa trở lại đúng quỹ đạo của họ và là nơi, nếu Washington thực dụng trong các đánh giá của mình, thì cần phải khéo léo nhường nhịn Bắc Kinh. Ngược lại, Hayton đi vào giải thích sự việc. Câu chuyện của Hayton có sức hấp dẫn riêng, nhưng điều quan trọng mà ông cẩn thận đúc kết từ đó là: Yêu sách lịch sử của Trung Quốc đối với vùng biển phía nam của Hồng Kông và đảo Hải Nam đa phần là vô giá trị. Bằng chứng của Trung Quốc đơn giản không thể đứng vững trước biên niên sử thời chúa Nguyễn của Việt Nam. Vào khoảng năm 1750, các chúa Nguyễn hàng năm đều phái người đi đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Người Việt thực hiện các chuyến đi này chủ yếu để thu gom đồ vật từ các con tàu đắm​​, chắc chắn là như vậy, nhưng họ đã lưu lại các dấu mốc và ghi chép sự việc cẩn thận.

Tổng thống Obama thăm Việt Nam trong ba ngày được cho là “dài khác thường” cũng là để đối diện với các bóng ma của chiến tranh trong bối cảnh hỗn loạn của những căng thẳng mới. Trưa 24/5, Tổng thống Barack Obama đã có bài phát biểu quan trọng về mối bang giao Việt—Mỹ tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội. Tổng thống Obama đã điểm lại những cột mốc quan trọng trong mối quan hệ giữa hai quốc gia cũng như những tiến bộ mà hai bên đạt được. Tổng thống dẫn lời bài thơ thần Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt ngay trong phần mở đầu trước 4.000 sinh viên, trí thức Việt Nam. Ông Obama cũng không né tránh đề cập đến những khác biệt còn tồn tại giữa hai nước cũng như hướng giải quyết những khác biệt này và nêu ra định hướng thúc đẩy hợp tác và phát triển giữa hai bên trong tương lai. Về phần mình, qua chuyến thăm lịch sử vừa rồi của Tổng thống Hoa Kỳ, người Việt Nam ý thức sâu sắc hơn rằng, cả Mỹ, Nhật lẫn châu Âu, không quốc gia nào có thể giúp giải quyết một cách rốt ráo cuộc tranh chấp hiện nay trên Biển Đông, cũng như những vấn nạn tuyệt chủng và diệt chủng về môi trường và con người trên giải đất chữ S này. Xin nhắc lại, không một nước nào đủ nguồn lực và động cơ chiến lược, ngoại trừ con cháu của Việt tộc hãy tỉnh thức, tự đứng lên, một cách năng động và tự cường, từ Bắc đến Nam, từ trong ra ngoài, bắt tay nhau vì một tương lai xứng đáng.

*

THIÊN ĐỊA VẠN VẬT NHẤT THỂ là một nguyên lý cổ xưa nhưng luôn luôn mới. Trật tự quốc tế ngày nay cũng giống với vũ trụ càn khôn, nhìn trên một số bình diện, biến hóa theo quy luật tuần hoàn. Người xưa gọi tình thế ấy là “nhất tán vạn, vạn qui nhất”[9]. Con đường tiến thoái tuần hoàn ấy, nếu đi đúng hướng thì cấu trúc an ninh khu vực có thể thực hiện tương đối nhanh, có thể chứng kiến trong một đời người. Còn nếu không tìm ra được hướng chuẩn, thì sẽ lạc lõng, muôn đời cũng chưa thấy được hình hài. Tin rằng trong tương lai gần đây, chúng ta sẽ chứng kiến một cuộc chuyển thế huy hoàng. Chúng ta hãy chuẩn bị để đón nhận tương lai và ngay từ bây giờ hãy giúp nhau mở rộng nhãn giới minh triết, hãy biết người biết ta mà hòa đồng, lấy từ bi, bác ái làm phương châm, lấy sự suy tư tìm hiểu, chứng nghiệm làm phương pháp hoạt động và luôn luôn cố gắng phát huy các tiềm năng trong khu vực, coi tứ hải là nhà, bốn biển là anh em. Hãy cùng nhau thắp sáng đuốc tuệ, để “trăm Việt trên miền định mệnh” được tưới tắm trong ánh sáng của hòa bình và thịnh vượng đang lan tỏa nhiều nơi trên trái đất./.

 



[9] Theo Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ, Nhất tiến ra Vạn, rồi Vạn lại qui về Nhất, theo nhịp điệu thời gian. Cho nên trong trời đất đâu đâu cũng tràn đầy lẽ biến dịch. Biến dịch theo hai hướng: hoặc là phân tán đào thải, hoặc là kết tụ, súc tích để tiến tới tinh hoa, trở về Nguyên Bản. Như vậy dưới những lớp lang biến thiên của vũ trụ, có một thực thể viên mãn, vĩnh hằng, bất diệt.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578751

Hôm nay

2276

Hôm qua

2293

Tuần này

21950

Tháng này

225808

Tháng qua

130677

Tất cả

114578751