Tri thức của khoa học lịch sử ở Việt Nam đem phổ vào học đường cũng bị lâm vào tình cảnh đó. Cho đến nay, thay vì lịch sử đã diễn ra như thế nào thì dạy cho học sinh như thế đó, tức là nhận rõ sự thật, viết rõ sự thật và nói rõ sự thật lịch sử, thì nhiều thầy cô giáo vẫn dạy cho học sinh bằng những tri thức, những quan điểm chưa được đổi mới.
Nhiều chuyện lắm. Riêng Việt Nam đấu tranh bảo vệ chủ quyền mà phản ánh vào trong các tác phẩm sử học sao mà khó thế! Đưa những tri thức lịch sử đó vào dạy và học ở các bậc của hệ thống giáo dục quốc dân sao mà trục trặc thế! Đụng đến việc viết và dạy cho học sinh những sự kiện liên quan tới quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong lịch sử hiện đại, như là chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía bắc Việt Nam năm 1979, miêu tả những hành động ăn cướp của Trung Quốc năm 1974 rồi những năm 80 thế kỷ trước cũng như những thập niên đầu thế kỷ XXI ở các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông nói chung cứ như húc phải những vấn đề húy kỵ.
Chạm húy ở đây đích thị là động đến vấn đề chính trị hành vi rồi. Có lẽ ở đây liên quan đến vấn đề khoa học vị khoa học hay khoa học vị nhân sinh chăng?
Trong thế giới 3.0 hiện nay, không thể nào bưng bít "miệng thế gian" được. Nhất là thời bây giờ "miệng thế gian" đã được mở hết cỡ thông qua mạng internet toàn cầu. Lớp trẻ đã và đang đi thẳng vào mạng internet để nhận được nhiều thông tin mở hơn, phong phú hơn, có chiều sâu hơn, đa chiều hơn và cũng phức tạp hơn.
Không bưng bít được còn bởi trong họ có cả gen văn hóa Việt Nam để họ thấm và cảm được hơi thở của lịch sử mà một số người lớn cứ cố tình che đậy. Ở đâu cũng thế, ở nước nào cũng vậy, có cả những người tốt và những người xấu xí. Người Việt Nam đang bị mang tiếng xấu khi bị nhiều nơi ở nước ngoài khinh rẻ vì hay đánh nhau, vào ăn cắp, chôm đồ ở cửa hàng…Đó mới chỉ là một mặt thôi. Người Việt Nam vẫn có tiếng thơm để đời. Những trang sử bi hùng của người Việt Nam vẫn còn đó. Người Việt Nam ngẩng cao đầu vì những chiến tích hào hùng chống các thế lực xâm lược. Một bàn tay không thể che nổi mặt trời.
Những người nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử ở Việt Nam đang đứng trước những thách thức và cũng là trách nhiệm cực lớn trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tình hình nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử trong các bậc học của Việt Nam nên được nhìn từ cả hai phía.
Nhiều khi những người nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử nước ta chưa vượt qua nổi chính mình. Trèo và vượt được đỉnh núi Fansipan của dãy Hoàng Liên Sơn thì khó nhưng mà làm được, kể cả tận dụng cáp. Nhưng ngọn núi cao nhất, đường lên ngọn núi đó hiểm trở nhất, thách thức với lim vô cực, thì chính lại là nằm trong bản thân những người nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử. Trách nhiệm của đội ngũ này không phải là làm theo sự sai khiến của tổ chức nào đó, của ai đó, mà phải thấy rằng, những người này cần làm đúng trách nhiệm công dân và làm đúng đòi hỏi của nghề nghiệ. Sinh viên y khoa chắc phải học lời thề của ông tổ Hypôcrát, chắc phải học những lời vàng ngọc của cụ Hải Thượng Lãn Ông, của Hồ Chí Minh về nghề y, về đạo đức nghề nghiệp. Thế còn nghề sử? Chẳng lẽ lại rời xa nguyên tắc rất cơ bản là phản ánh sự thật lịch sử?
Tôi viết như trên là cũng tự phê bình đấy, bởi vì tôi là người nằm trong số người đó, nghĩa là người đang nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử ở nhiều cơ sở đào tạo.
Còn phía quản lý? Quản lý nhà nước là thượng tôn pháp luật. Trong việc này, nên chỉ là đưa ra và chỉ dẫn bởi hành lang pháp lý cho khoa học lịch sử và giáo dục phát triển một cách tự nhiên, hợp quy luật. Đó là sự phát triển bảo toàn cho nó với nghĩa nó là một khoa học, không được phép can thiệp vào bản chất của khoa học. Hiện nay, Việt Nam đang tổ chức viết bộ "LỊCH SỬ VIỆT NAM" chính thức, ở tầm quốc gia, được đầu tư tiền từ ngân sách nhà nước (mà nhiều người quen gọi là "QUỐC SỬ"). Bộ quốc sử này phải phản ánh đúng lịch sử. Không thế thì vừa có tội với tiền nhân, vừa có tội đối với các thế hệ sau, sẽ tạo ra một nguồn nhân lực méo mó về nhân cách.
Mấy tháng nay, rộ lên cái việc tích hợp môn lịch sử hay không tích hợp trong chương trình tổng thế giáo dục phổ thông. Ý kiến không gặp nhau giữa một bên là tuyệt đại đa số những người nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy môn lịch sử với một bên là người của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhiều cuộc hội thảo bàn về vấn đề này đã diễn ra. Căng thẳng lắm. Đến mức báo chí đưa tin đậm và dày. Nhiều người gọi cuộc hội thảo do Hội Sử học Việt Nam đứng ra tổ chức là "Hội nghị Diên Hồng". Vấn đề này đã làm nóng tại một phiên họp Quốc hội. Sau cái đận ấy, thì vấn đề này được ngã ngũ theo hướng ủng hộ quan điểm của những người nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy chứ không ủng hộ quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Năng lực lắng nghe, kỹ năng lắng nghe của Bộ Giáo dục và Đào tạo được cải thiện phần nào sau cái đận ấy. Vì vậy, bây giờ rộ lên cái chuyện Bộ Giáo dục và Đào tạo đồng ý chủ trương đưa những tri thức bảo vệ chủ quyền vào sách giáo khoa lịch sử để dạy cho học sinh. Người ta đã mổ xẻ (chưa đến nơi đến chốn) tại sao các sách giáo khoa lịch sử hiện hành lại viết về vấn đề này "yếu ớt" thế (có sách như sách giáo khoa môn LỊCH SỬ lớp 12 chỉ có 11 dòng). Người biên soạn cuốn giáo khoa này thổ lộ rằng, viết những mấy chục trang, nhưng cuối cùng bị cắt còn chừng đó, chừng đó. Truy ra tại sao? Tại sao thì là tại vì…Đừng hỏi khó nhau. Đừng hỏi những điều mà người hỏi ai cũng đã biết rồi.
Trên báo chí, trên mạng xã hội, tôi thấy rộ lên nhiều nhà khoa học - nhà giáo hoan nghênh chủ trương ấy của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhiều người còn nói rõ hơn: Việc này tuy có chậm, nhưng chậm còn hơn không!
Nghe thấy cũng mừng vì phần nào ở Việt Nam mình, đã bước đầu đã gỡ được nút thắt tư duy để cho nó đi theo đường tự nhiên như vốn như nó thế.
Nhưng, cũng gờn gợn thế nào ấy!
Quản lý giáo dục ư? Để đưa những gì của môn LỊCH SỬ vào trong học đường, thì sự quản lý đó là thông qua được một cái khung. Sự quản lý ở đây đừng nên "cầm tay chỉ việc". Tạo ra cái khung, cái hành lang pháp lý, mọi cái rồi sẽ đi tới đích thôi. Có gì mà ngại. Cái khung đó không có nghĩa là Bộ Giáo dục và Đào tạo cầm cái gậy chỉ huy (như chỉ huy trong giàn nhạc) phải viết chương này như thế này, chương kia như thế kia; phải viết sự kiện năm 1979 ở biên giới phía bắc Việt Nam như thế này, Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông như thế nọ. Đừng quản lý theo kiểu đồng ý hay không đồng ý cho biên soạn và đưa vào giảng dạy những tri thức đó cho học sinh. Công việc này là công việc tác nghiệp cụ thể của người thầy.
Người thầy tác nghiệp trong cái khung chương trình, còn cụ thể là của các trường học, của các cơ sở đào tạo, và như trên tôi đã nói, cụ thể nữa, ở cái rốn cuối cùng trong tác nghiệp là của chính bản thân người thầy. Giáo trình, giáo khoa là thế, chương trình là thế, nhưng ai cấm được người thầy trên bục giảng hôm đó nói gì! Người thầy, và chỉ có người thầy mà thôi, mới là người chịu trách nhiệm truyền thụ tri thức và tạo cảm hứng cho tư duy cũng như kỹ năng cho học trò. Lâu nay, nhiều người nói rằng, giáo dục không phải là đổ đầy bình tri thức (không bao giờ đầy được), mà giáo dục là thắp lên trong tim người học ngọn lửa, ngọn lửa tiếp cận sự thật, ngọn lửa đam mê tri thức, ngọn lửa của năng lực sáng tạo. Đúng vậy. Cũng có nhiều người nói rằng, giáo dục trên thế giới, và nay Việt Nam cần phải áp dụng, là lấy học sinh làm trung tâm. Không sai. Nhưng, người thầy ở đâu? Người thầy muôn đời vẫn là trung tâm. Đến bây giờ nhận thức có thêm một trung tâm nữa mà thôi. Nhiều trung tâm chứ không chỉ có học sinh mới là trung tâm duy nhất.
Ý muốn nhắn nhủ cho những đồng nghiệp mà tôi viết ở bài này còn là và chính là ở chỗ: trên bục giảng môn LỊCH SỬ, hãy thắp lên ngọn lửa cho người học những sự thật lịch sử. Người ta có thể cấm đoán. Người ta có thể chưa cho phép. Sách giáo khoa lịch sử có thể không viết hoặc viết rất ít về điều đó. Nhưng, trên bục, người thầy như tôi và các thầy khác vẫn cứ phải nói về sự thật lịch sử. Không thể khác được.
Điều này cũng giống như tôi đã có lần nói trên một diễn đàn sử học rằng: Khoa học lịch sử là sự phản ánh sự thật. Hư cấu là điều tối kỵ với sử học. Xuyên tạc là gây tội với sử học. Như thế, sự thật là nguyên tắc tối thượng của sự phản ánh trong khoa học lịch sử. Chẳng thế mà đọc "Sử ký" của Tư Mã Thiên bên Trung Quốc, tôi thấy rằng, có câu chuyện thời Xuân Thu, ba anh em quan Thái sử Bá, Thái sử Trọng, Thái sử Thúc lần lượt bị chém đầu chỉ vì dám viết sự thật "Tướng quốc nước Tề là Thôi Trữ giết vua", chứ không chịu viết như lệnh của Thôi Trữ là “Tiên Vương chết vì bệnh nặng”. Đến người em thứ tư là Quý, vào triều thay các anh làm quan Thái sử, người em này vẫn viết: “Hạ ngũ nguyệt Thôi Trữ thích quân”. Thái sử Quý đã có câu nói khảng khái với Thôi Trữ để muôn đời sau phải nghĩ về cái nguyên tắc bất di bất dịch đó trong việc hành nghề sử: "Ông có thể giết chết Thái sử nhưng không thể giết chết được sự thật". Sự thật lịch sử là thế. Nó hiên ngang giữa Trời. Chữ Dũng thách thức cái chết. Nó mạnh hơn cả cái chết! Đó là chuyện của đời xưa ở Trung Quốc. Không biết là có đúng như thế không. Chứ nói về sự thật thì khó có nhà sử học ở bất cứ nước nào trên thế giới lại không lấy "nhận rõ sự thật, nói rõ, viết rõ sự thật" làm điều răn hành trong học tập và trong hành nghề, giống như sinh viên ngành y phải "thuộc" lời thề của ông tổ nghề y trên thế giới là Hypôcrát và những lời dạy của Hải Thượng Lãn Ông, của Hồ Chí Minh.
Viết đến đây, tôi thấy ở bên Pháp, người ta đã hành xử, đã giải quyết mối quan hệ giữa khoa học lịch sử với những nhà sử học và sự quản lý của nhà nước rất đáng để suy ngẫm. Ở Việt Nam mình có nên như thế không thì tùy người đọc phán xét.
Chuyện thế này.
Bây giờ nhìn nhận lại vấn đề chủ nghĩa thực dân thì nhiều người dễ nhất trí đánh giá rằng, chủ nghĩa thực dân là vết nhơ lớn nhất trong lịch sử nhân loại; nhưng trong những năm đầu thế kỷ XX, nhận thức về vấn đề này không đơn giản. Thực ra, cho đến những năm 20 của thế kỷ XX ở Pháp, người ta vẫn hiểu không đúng vấn đề đó. Dưới con mắt của nhiều người châu Âu, nhất là ở Pháp trong cuối thế kỷ XIX và cả phần lớn thế kỷ XX, nhiều người vẫn coi việc Pháp đưa quân đội và công chức ra nước ngoài, đi xâm lược, chiếm đóng, biến những nước đó thành thuộc địa của mình như là để thực hiện "sứ mệnh khai hoá văn minh".
Đã có cả đạo luật của Pháp cố tình bênh vực chủ nghĩa thực dân. Ngày 23-2-2005, Quốc hội Pháp, dựa theo Hiến pháp ngày 4-10-1958, đã thông qua dự án luật số 2005 - 158 nói Về việc Quốc gia tri ân những đóng góp cho dân tộc của những người hồi hương. Quốc hội đã biểu quyết không có sửa đổi trong lần trình bày thứ hai, dự án luật đã được Thượng viện điều chỉnh, và tháng 11-2005 lại được Quốc hội xác nhận lại.
Trong đạo luật đó, Điều 4 viết rằng: “Các chương trình nghiên cứu bậc đại học phải đặt sự hiện diện của nước Pháp ở hải ngoại, cụ thể là ở Bắc Phi, vào vị trí xứng đáng. Các chương trình giáo khoa đặc biệt phải thừa nhận vai trò tích cực của sự hiện diện nước Pháp ở hải ngoại, cụ thể là ở Bắc Phi, và đặt lịch sử và sự hy sinh của những chiến binh trong quân đội Pháp trên những lãnh thổ đó vào vị trí cao như nó có quyền được hưởng” (Theo Tạp chí Xưa và Nay, số 255, tháng 3-2006, tr. 27).
Vấn đề đặt ra trong Điều 4 của đạo luật trên đây không chỉ liên quan đến tình hình nội bộ nước Pháp, không chỉ liên quan đến các nước ở Bắc Phi, mà còn liên quan đến sự đánh giá đối với chủ nghĩa thực dân nói chung và đối với những cuộc chiến tranh đàn áp phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa Pháp, trong đó có Việt Nam, nói riêng.
Nhiều nhà sử học Pháp và Việt Nam đã lên tiếng phê phán đạo luật này. Ngày 12-12-2005, 19 nhà sử học Pháp và ngày 9-1-2006, 444 nhà sử học Pháp khác đã gửi lời kêu gọi “Tự do cho lịch sử” đến các nhà hoạt động chính trị. Trong Lời kêu gọi, có đoạn viết rằng:
“Xúc động trước sự can thiệp chính trị ngày càng tăng trong việc đánh giá các sự kiện thuộc quá khứ và những thủ tục pháp lý liên quan đến các nhà sử học và nhà tư tưởng, chúng tôi muốn nhắc lại những nguyên tắc sau đây:
Lịch sử không phải là một tôn giáo. Nhà sử học không chấp nhận bất kỳ một tín điều nào, không coi trọng bất cứ sự cấm đoán nào, không biết đến sự kiêng kỵ. Họ có thể làm cho người khác phiền lòng.
Lịch sử không phải là đạo đức. Nhà sử học không có vai trò ca ngợi hay lên án, họ chỉ giải thích.
Lịch sử không bị kẹt vào thời sự. Nhà sử học không gắn lên quá khứ những sơ đồ tư tưởng thời hiện đại và không lồng vào những sự kiện trước kia những cảm xúc của ngày nay.
Lịch sử không phải là ký ức. Nhà sử học, trong thao tác khoa học, thu thập hồi ức của con người, so sánh chúng với nhau, đối chiếu với tư liệu, hiện vật, dấu vết và xây dựng nên sự kiện. Lịch sử coi trọng ký ức, nó không thu nhỏ ký ức.
Lịch sử không phải là một công cụ pháp lý. Trong một quốc gia tự do, sự thật lịch sử không thuộc quyền giải thích của Quốc hội và các cơ quan tư pháp. Đường lối chính trị của Nhà nước, dù có thiện chí đến đâu, cũng không phải là đường lối của lịch sử.
Chính vì vi phạm đến những nguyên tắc đó mà những điều của các luật sau đây – cụ thể là luật ngày 13-7-1990, luật ngày 29-1-2001, luật ngày 21-5-2001, luật ngày 23-2-2005 – đã hạn chế tự do của nhà sử học, đã quy định những điều họ phải nghiên cứu và phải phát hiện nếu không sẽ bị truy tố, đã áp đặt cho họ những phương pháp và ấn định giới hạn. Chúng tôi yêu cầu bãi bỏ những quy định pháp lý không xứng đáng đó đối với một chế độ dân chủ” (Theo Tạp chí Xưa và Nay, số 255, tháng 3-2006, tr. 28).
Bà Francoise Chandernagor, một luật sư Pháp, đã trả lời phỏng vấn của Tạp chí L’Histoire (Lịch sử) phê phán đạo luật này. Nhà sử học, nhà Việt Nam học người Pháp Alain Ruscio đang là Giám đốc Trung tâm tư liệu về thuộc địa ở Pháp, đã có một bài viết đăng trên báo L’Humanité số ra ngày 3-12-2005 và viết cho Tạp chí Xưa và Nay của Hội sử học Việt Nam bài Chủ nghĩa thực dân: một bộ luật phi lịch sử, những con người vô trách nhiệm. Alain Ruscio cho rằng, nhiều người phẫn nộ trước đạo luật đó, nhưng “nói phẫn nộ hãy còn là nhẹ…Làm sao không phẫn nộ được trước sự tiến công của con quái vật thực dân tiền sử, từ nay đang ngang nhiên câu kết với những chủ đề yêu thích của phái cực hữu? Làm sao không choáng váng khi đọc, dưới ngòi bút của các chính khách, của những nhà trí thức, những lời biện minh muôn thuở cho công cuộc thực dân bằng những con số về số kilômét đường sá, bằng số học sinh tới trường…Bàng hoàng vì những ngôn từ đó, chúng tôi, những người nghiên cứu, đã được đọc hàng ngày, chúng tôi, những chuyên gia, đã được đọc những bài viết trần tình của những kẻ chủ trương mở rộng thuộc địa, từ năm 1885 (Jules Ferry trước Hạ viện) đến năm 1931 (Paul Reynaud ở Vincennes). Theo nghĩa đó, nói cuộc tiến công hiện nay là phản động hoàn toàn không có gì quá đáng; là phản động, theo ngôn từ chính trị, có nghĩa là chủ trương quay trở lại những giá trị của quá khứ”.(Theo Alain Rucio: “Chủ nghĩa thực dân: một bộ luật phi lịch sử, những con người vô trách nhiệm”, Tạp chí Xưa và Nay, số 255, tháng 3-2006, tr. 30 -34).
Còn một số vị sau đây ở Pháp: Claude Liauzu, Giáo sư ưu tú Đại học Denis Diderot Paris 7; Gilbert Maynier, Giáo sư ưu tú Đại học Nacy; Gerard Noiriel, Giám đốc nghiên cứu Trường Cao học Khoa học xã hội EHESS; Frédéric Régent, Giáo sư Đại học Anlilles và Guyane; Trịnh Văn Thảo, Giáo sư Đại học Aix-en-Provence; Lucette Valénsi, Giám đốc nghiên cứu EHESS, đã gửi một bản Kiến nghị lên Quốc hội Pháp nhan đề Chế độ thực dân: không thể có việc giáo dục lịch sử chính thức. Bản Kiến nghị có đoạn viết:
“Phải cấp tốc hủy bỏ luật này, vì:
nó đặt một lịch sử chính thức, đi ngược với tính trung lập của học đường và tôn trọng tự do tư tưởng, là trung tâm của đường lối giáo dục phi tôn giáo,
vì nó chỉ giữ lại “vai trò tích cực” của chế độ thuộc địa, nên đã áp đặt một sự nói dối chính thức về các tội ác, về những vụ thảm sát đôi khi đi đến diệt chủng, về chế độ nô lệ, về chủ nghĩa chủng tộc thừa hưởng của quá khứ,
vì nó hợp thức hoá một cộng đồng dân tộc chủ nghĩa, kích thích phản ứng chủ nghĩa cộng đồng của các nhóm này, cũng như ngăn cấm mọi việc của quá khứ.
Các nhà sử học đặc biệt có trách nhiệm trong việc thúc đẩy nghiên cứu và thúc đẩy một nền giáo dục đặt đúng vào vị trí chế độ thuộc địa và di dân, và những hậu quả đa dạng của nó, bằng một việc làm chung, bằng sự tiếp xúc giữa các nhà sử học các xã hội có liên quan, để nhận thức về tính phức tạp của hiện tượng này, cuối cùng, đặt nhiệm vụ giải thích những quá trình hướng tới một thế giới ngày càng thống nhất và càng bị chia rẽ” (Theo Tạp chí Xưa và Nay, số 255, tháng 3-2006, tr. 33).
Ở Việt Nam, nhiều nhà sử học cũng lên tiếng. Tạp chí Xưa và Nay của Hội sử học Việt Nam đã đưa thông tin và đăng nhiều bài viết của các nhà sử học Pháp cũng như Việt Nam bày tỏ quan điểm không đồng tình với đạo luật đó. Giáo sư Vũ Dương Ninh đã có một bài viết đăng trên Tạp chí Xưa và Nay, số 259, tháng 5-2006, với nhan đề Chủ nghĩa thực dân – hồ sơ chưa khép lại. Giáo sư Vũ Dương Ninh cho rằng, cứ theo đạo luật trên đây của Pháp thì “nghĩa là phải viết lại lịch sử chủ nghĩa thực dân đầy tội ác thành những trang sách ngợi ca, chối bỏ sự thực, lừa dối hậu thế. Các nhà sử học chân chính của nước Pháp đã lên tiếng phản đối. Ngòi bút không thể bẻ cong, lương tri không thể nhuốm bẩn. Hãy để cho lịch sử tự nó nói lên sự thực. Vì thế, chủ nghĩa thực dân, đến hôm nay, hồ sơ chưa khép lại” (Theo Tạp chí Xưa và Nay, số 255, tháng 3-2006, tr. 4-6).