Nhìn ra thế giới

Phán quyết PCA: Nước lớn "lưỡng đầu chế", nước nhỏ "tan đàn xẻ nghé"?

Trong phán quyết dày 501 trang, PCA đã dẹp tan sự mơ hồ pháp lý từ lâu đã bao quanh yêu sách của Trung Quốc đòi kiểm soát phần lớn Biển Đông. Cách Nhà Trắng phản ứng với bản án trong những tháng tới sẽ giúp xác định quan hệ của Washington với Bắc Kinh trong nhiều năm tới và ảnh hưởng đáng kể đến địa-chính trị của khu vực. Bắc Kinh không không thể đẩy Mỹ ra khỏi khu vực như ý muốn, còn Washington cũng hoàn toàn không thể chấp nhận để Trung Quốc thống trị phần lớn diện tích Biển Đông. Mới đây nhất, Bắc Kinh công bốviện trợ600 triệu USD cho Phnom Penh ngay sau khi PCA công bốphán quyết vụkiện trọng tài Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc. Trong thời gian trước đó, Thủ tướng Camphuchia  Hun Sen đã lên tiếng tổng cộng 5 lần công khai ủng hộlập trường Bắc Kinh. Sok Touch, Hiệu trưởng Đại học Khemarak bình luận, quan hệchặt chẽgiữa Trung Quốc và Campuchia là do sợi dây lợi ích gắn kết, là sựchấp nhận "ngầm" của Campuchia ủng hộchính sách bành trướng của Trung Quốc.

 “Lưỡng đầu chế” về Biển Đông

Ngày 15/7, nhà nghiên cứu chiến lược và trật tự quốc tế Thomas Wrigth từ Viện Brookings bình luận, phán quyết vụ kiện trọng tài Biển Đông ngày 12/7 là một sự xác minh chính sách lâu dài của Mỹ ở Biển Đông, đó là thành công ngoài cả mong đợi của Washington. Phán quyết của Hội đồng Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, UNCLOS đã cắt đứt "đường lưỡi bò" phi lý của Trung Quốc với kết luận nó không có căn cứ trong luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982. Phán quyết này cũng cung cấp sự hỗ trợ cho lập luận của Mỹ rằng, tất cả tranh chấp hàng hải ở châu Á phải được giải quyết một cách hòa bình và đa phương (đối với các tranh chấp đa phương). Cho dù không thể phủ nhận vai trò của Hoa Kỳ trong việc bảo vệ UNCLOS 1982, nhưng sự thỏa hiệp giữa Mỹ với Trung Quốc nhắc nhở chúng ta phải hết sức tỉnh táo trước mọi diễn tiến của tình hình. Phán quyết của Hội đồng Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982 trong vụ kiện vừa qua là thắng lợi chung của nhân loại văn minh, của luật pháp quốc tế, của UNCLOS 1982 mà các bên liên quan đều được hưởng lợi từ việc giải thích rõ ràng cách áp dụng UNCLOS ở Biển Đông, bao gồm cả Trung Quốc.

Nhưng tầm vóc và quy mô của sự thất bại về pháp lý mà Bắc Kinh phải đối mặt chắc chắn sẽ dẫn đến nhiều nỗi tức giận và phản kháng tại Trung Quốc, làm tăng những lo ngại về những gì sẽ xảy ra tới đây. Chính phủ Trung Quốc có thể phản ứng bằng cách leo thang đáng kể hoạt độngcủa mình ở Biển Đông, dẫn đến những bế tắc nguy hiểm với lực lượng Mỹ. Trong lúc chiến tranh đang hoành hành ở Trung Đông, EU đối mặt với chia rẽ, mối "nguy hiểm" liên tục từ Nga và làn sóng chủ nghĩa khủng bố lan khắp toàn cầu, điều Mỹ cần tránh bây giờ là một cuộc khủng hoảng an ninh thực sự trên Biển Đông. Điều đó không có gì bất ngờ. Vì vậy, giới hoạch định chính sách cấp cao của Mỹ hoan nghênh kết quả của Tòa, nhưng cũng nhấn mạnh rằng họ sẽ cung cấp cho Trung Quốc một không gian để chống lại sự cám dỗ của một phản ứng tiêu cực. Không nghi ngờ rằng Washington sẽ phản ứng mạnh mẽ với bất kỳ hành động khiêu khích nào của Trung Quốc, nhưng Mỹ cũng sẽ quan tâm và tích cực vận đồng các đồng minh cùng đối tác để không đẩy Trung Quốc vào chân tường. Mỹ hiện cũng tránh bất kỳ một hành động nào của Mỹ để bị Bắc Kinh xem là khiêu khích.

Tuy nhiên về lâu dài, phán quyết vụ kiện trọng tài Biển Đông có lợi cho Mỹ và các đồng minh. Với lập luận logic, kiên quyết và rõ ràng, phán quyết trọng tài cung cấp một hiểu biết tổng thể cho chiến lược của Mỹ đối với Đông Á, xoay quanh việc bảo vệ trật tự dựa trên pháp luật, đồng thời cũng giúp Mỹ giữ gìn và bảo vệ ảnh hưởng của mình trong khu vực. Trật tự dựa trên luật pháp quốc tế cũng thu hút sự quan tâm của các quốc gia ngoài châu Á, đặc biệt là EU. Các nước láng giềng Trung Quốc có thể gây ấn tượng với EU về tầm quan trọng của việc kề vai sát cánh bảo vệ luật pháp quốc tế ở bất cứ nơi nào, từ Đông Âu đến Biển Đông. Tất nhiên Trung Quốc sẽ lập luận rằng Mỹ "đạo đức giả" vì nước này vẫn chưa phê chuẩn việc tham gia UNCLOS 1982. Tuy nhiên, thực tế không thể phủ nhận là phán quyết trọng tài ngày 12/7 sẽ có tác động lớn đến cách thức phần còn lại của thế giới nhận thức về các vấn đề ở Biển Đông. Phán quyết cuối cùng cũng tăng áp lực đối với Mỹ về việc phê chuẩn tham gia UNCLOS 1982, đồng thời cũng là một sự thúc đẩy đối với Thượng viện Hoa Kỳ. Điều này một lần nữa nhấn mạnh vai trò và tầm quan trọng của luật pháp quốc tế trong quan hệ quốc tế hiện đại, đặc biệt là xử lý các tranh chấp bất đồng.

Các quan chức Mỹ coi “xoay trục”, “tái cân bằng” về châu Á là tăng đầu tư vào một khu vực năng động và quan trọng nhất thế giới chứ không phải để kiềm chế Trung Quốc. Bắc Kinh, ngược lại, xem chiến lược này của Mỹ là thách thức lớn nhất đối với chiến lược hải dương của mình. Điều quan trọng nhất là phán quyết trọng tài tạo ra tình thế khó xử đối với Trung Quốc. Trước phán quyết, Bắc Kinh đã ra sức tuyên truyền chống đối để chứng minh rằng Hội đồng Trọng tài không có thẩm quyền. Điều đó dẫn đến những suy đoán Trung Quốc sẽ áp đặt ADIZ ở Biển Đông, phong tỏa hải quân hay một cái gì đó tồi tệ hơn. Nhưng những biện pháp cực đoan này chỉ làm tăng động lực thúc đẩy các nước trong khu vực đoàn kết lại chống Trung Quốc.  Nhưng thực chất, Mỹ có nhu cầu tham gia vào khu vực này ngày một lớn bởi sự cứng rắn của Trung Quốc từ năm 2009, 2010 trở về đây. Nếu Trung Quốc leo thang, Mỹ sẽ ngày càng trở nên cuốn hút ở Biển Đông và sẽ triển khai biện pháp mạnh hơn. Trung Quốc càng cứng rắn thì càng tạo động lực cho Mỹ xoay trục. Hơn nữa, các nước láng giềng Trung Quốc có nhiều lý do hơn để làm việc chặt chẽ với nhau ở Biển Đông cũng như an ninh châu Á nói chung. Trong trường hợp này phán quyết vừa qua sẽ góp phần khôi phục sự ổn định đối với vùng biển đang có nhiều bất ổn này.

ASEAN và EU phản ứng khác nhau

Ngày 14/7, theo Kyodo News, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cho biết khối này đã quyết định không đưa ra bất cứ tuyên bố chung nào về phán quyết ngày 12/7 của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ở The Hague. 10 nước thành viên ASEAN đã được Lào, nước chủ tịch luân phiên 2016, thông báo vào đêm 13/7 rằng hiệp hội này sẽ không ra một tuyên bố chung do thiếu sự đồng thuận. Nguồn tin này khẳng định các quốc gia đã cùng thảo luận nhưng rốt cuộc không đạt được thống nhất. ASEAN hiện đang gặp khó khăn trong việc tìm được tiếng nói chung về các vấn đề liên quan đến Biển Đông. Điều này xuất phát từ lo ngại của một số quốc gia thành viên, cho rằng việc ủng hộ phán quyết của CPA có thể sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ với Bắc Kinh, nước đang viện trợ tài chính lớn cho các nước này. Cho biết phản ứng của Việt Nam trước thông tin nói trên, ngày 14/7, tại cuộc họp báo thường kỳ, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nêu rõ: “Duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông là lợi ích và trách nhiệm chung của các nước trong và ngoài khu vực. Lập trường nhất quán của ASEAN là giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, bao gồm các tiến trình ngoại giao và pháp lý, trên cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982”.

Cũng trong cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao ngày 14/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình đã cho biết phản ứng của Việt Nam về việc ngày 12/7 vừa qua Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố thực hiện thành công việc hạ cánh máy bay dân sự xuống các sân bay ở Vành Khăn và Xu Bi của quần đảo Trường Sa và trước đó ngày 11/7, Bộ Giao thông Trung Quốc khẳng định đã hoàn thành 4 hải đăng và động thổ thêm hải đăng thứ 5 trên các cấu trúc thuộc ​quần đảo Trường Sa. Ông Hải Bình nói: "Việt Nam một lần nữa khẳng định có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử, khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bất chấp phản đối của Việt Nam và sự quan ngại của cộng đồng quốc tế, những hoạt động nêu trên của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam, là phi pháp và không thể thay đổi sự thực về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, nghiêm túc tuân thủ luật pháp quốc tế là UNCLOS 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và không có các hành động làm phức tạp tình hình ở Biển Đông".

Tại Hội nghị ASEM lần thư 11 (ngày 15—16/7 tại Mông Cổ), các nhà lãnh đạo cũng khẳng định cam kết cùng nỗlực đảm bảo hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tựdo hàng hải, hàng không, kiềm chếkhông sửdụng hoặc đe dọa sửdụng vũ lực và các hành động đơn phương, giải quyết các tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình trên cơsởluật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS1982. Anh và Pháp đã bày tỏ sự quan tâm trong việc thực hiện các sứ mạng ở Biển Đông. Quyết định của Hague trùng hợp với hội nghị thượng đỉnh ở Bắc Kinh giữa EU và Trung Quốc. Trong nhận xét chính thức lúc khai mạc, Donald Tusk, Chủ tịch Hội đồng châu Âu, nói tới “phán quyết quan trọng” đang sắp đưa ra và nói với Thủ tướng Trung Quốc, Lý Khắc Cường, rằng “trật tự quốc tế dựa trên luật lệ nằm trong lợi ích chung của chúng ta, cả Trung Quốc lẫn EU phải bảo vệ nó”. Trung Quốc dẫ tỏ ra rất bực tức vì Tusk nêu vấn đề công khai. Trong một phổ biến tóm tắt về các cuộc đàm phán EU – Trung Quốc, nguồn tin này cho biết, người châu Âu chưa bao giờ thấy phía Trung Quốc tức giận đến như vậy. Một cuộc họp báo được lên lịch của ông Lý và ông Tusk đã bị hủy bỏ, chỉ báo trước một thời gian ngắn, khi phía EU nhấn mạnh rằng các nhà báo được phép đặt những câu hỏi mà các quan chức Bắc Kinh biết sẽ bị chi phối bởi việc tranh chấp lãnh thổ.

*

Phán quyết PCA trong vụ Trung Quốc-Philippines là một bước ngoặt quan trọng đối với cuộc đấu tranh về Biển Đông. Từ nay, thiết nghĩ một sự đánh giá toàn diện, tổng hợp hơn để có thể dự báo tình hình là điều hết sức cần thiết. Trong bối cảnh nội lực chưa đủ mạnh để bảo vệ và đòi lại chủ quyền vốn có ở Hoàng Sa-Trường Sa, Việt Nam chọn lựa đa phương hóa tranh chấp Biển Đông cũng như tìm kiếm một sự đoàn kết từ ASEAN để đề “kháng Trung” là một việc có thể hiểu được. Tuy nhiên, tình hình hậu CPA cho thấy lựa chọn này ngày càng thiếu tính khả thi trong bối cảnh khối ASEAN rời rạc, thiếu đồng nhất, vì lợi ích riêng rẽ của từng quốc gia ở Biển Đông là khác nhau, chưa kể chính sách đối ngoại của từng quốc gia cũng khác nhau. Do đó, nếu nhìn nhận một cách tỉnh táo, từ nay, Việt Nam chỉ có khoảng 3-4 quốc gia trong ASEAN có thể coi là đồng minh trong tranh chấp Biển Đông hậu PCA, còn lại thì không hi vọng gì nhiều. Việc dựa vào ASEAN để “kháng Trung” với tỷ lệ chỉ được một phần ba ủng hộ, nhiều khả năng là sẽ rất khó khăn. Tuy nhiên, nếu Việt Nam xác định được vị thế “cân bằng động” của mình trong tình trạng “lưỡng đầu chế” trên vấn đề Biển Đông và thế liên lập Á-Âu nói chung, chúng ta vẫn chưa mất hết hy vọng./.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578810

Hôm nay

217

Hôm qua

2318

Tuần này

22009

Tháng này

225867

Tháng qua

130677

Tất cả

114578810