Những góc nhìn Văn hoá

Văn bản là gì?

Ông là nhà triết học Pháp có tưtưởng nằm ởhợp lưu của Hiện tượng học Husserl và triết học hiện sinh, Ricoeur đã phát triển một hướng triết học giải thích luận đối thoại với Hiện tượng học của tôn giáo, ngôn ngữ, phân tâm học và lối chủgiải Kinh Thánh. Nguyên là học sinh của nhà triết học Jean Nabert (1881-1960) và nhà triết học hiện sinh cơ đốc giáo Gabriel Marcel, - người chuyên dịch Husserl, Paul Ricoeur (1913 - ) đã giảng dậy tại các trường Đại học Strasbourg (1950-1955), Sorbonne (từ1956), Nanterre (1966-1978), cuối cùng là ởChicago (nhưmột giáo sưdanh dựvềthần học).

Các ấn phẩm đầu tiên của Ricoeur đều là những nghiên cứu về Edmund Husserl, Martin Heidegger, Karl Jaspers, và Gabriel Marcel. Trong triết học vềý chí, ông cốgắng khoanh vùng với các nghiên cứu về“ý chí” (volontaire), “phi ý chí” (l'involontaire), “sựyếu kém” (faillibilité): “Giới hạn dành riêng cho một Hữu thểvốn không trùng với chính mình là sựyếu kém nguyên khởi, từđó cái xấu xuất hiện” (La limitation propre à un être qui ne coïncide pas avec lui-même est la faiblesse originaire d'où le mal procède).

Ricoeur phát triển trong các công trình Biu tượng vcái Ác (Symbolique du Mal-1960), Tiu lun vcái Ác(l'Essai sur le mal) của Jean Nabert, một lý thuyết giải thích học được gợi ý từdi sản kép của các truyền thống tưtưởng tinh thần và triết học. Ông rất quan tâm tới việc hòa giải giữa các học thuyết rất khác biệt nhau - Hiện tượng học, chủnghĩa hiện sinh, giải thích học, phân tâm học, cấu trúc luận, tựsựhọc và giải cấu trúc. Nếu tưtưởng của ông không thểtạo dựng được thành một hệthống, thì phương pháp của ông lại rất chặt chẽ. Mối quan tâm chủyếu của ông vềmặt tưtưởng là xây dựng một phương pháp có khảnăng quân bình các yêu cầu của tưtưởng hiện đại, tưtưởng vềsựphát lộ. Phương pháp này dường nhưđối với ông là khảnăng duy nhất tránh được một phần những sựquá khích của sựgiáo điều tôn giáo, và mặt khác các giới hạn của một tương lai đầy lý tính, quay lưng lại mọi nguồn cảm hứng tưởng tượng. Chính bằng tưduy lý tính này mà ông gắng suy nghĩ lại “cuộc tranh luận cũ kỹ” (nhưPlaton đã nêu ra) giữa thơca với triết học, giữa niềm tin với lý trí, hay giữa giáo dục sáng tạo với hiểu biết trực giác mang tính tựphê bình.

Triết học giải thích nhưRicoeur hình dung, là nhằm chấp nhậnmọi cái biểu đạt, là đểcắt nghĩa bằng biểu tượng (biểu tượng là nhằm tưduy) ông viết trong Biểu tượng vềcái ác, trong lúc vẫn bảo vệmột tưduy triết học lý trí. Ông đềcao một “mâu thuẫn các cắt nghĩa”, vấn đềchủyếu mà qua đó việc giải thích trởthành triết học. Các văn bản sau này của Ricoeur phát triển các hệquảcủa “giải thích kép” trong những trường đa dạng nhất: phân tâm học trong Vct nghĩaTiu lun vFreud (Essai sur Freud-1965), lý thuyết vềẩn dụ, ghi chép vềlịch sử(historiographie) và đạo đức (nhất là trong Bn thân mình nhưngười khác - Soi-même comme un autre, 1990), lý thuyết chính trịvà triết học vềtrí tueej và tri thức. Tác phẩm quan trọng nhất của ông là Thi gian và truyn k (Temps et Récit) gồm ba tập được xuất bản từ1983tới 1985). Trong công trình đồsộnày, ông đã trình bầy một cái nhìn tổng quát vềnhững hình thức khác nhau, của ý thức con người đối với thời gian: chủquan, khách quan, lịch sửvà hưcấu, lịch biểu và Hiện tượng học được thểhiện, hiển hiện hay ngầm ẩn,qua các công trình của các nhà viết sử, nhà văn, thần học, nghệsĩ phương Tây từthời Aristote tới nay.

Phùng Ngọc Kiên giới thiệu

 

VĂN BN LÀ GÌ?

Giải thích và hiểu

Vềcơbản, tôi dành bài viết này cho cuộc tranh luận giữa hai thái độchính trước vấn đềvăn bản. Người ta đã thâu tóm hai thái độnày trong thời đại của Wilhelm Dilthey vào cuối thếkỷtrước bằng từ“giải thích” và “diễn giải”. Dilthey đã gọi mô hình lấy từkhoa học tựnhiên và được phổbiến ởcác khoa học lịch sửqua các trường phái thực chứng là giải thích, còn sựdiễn giải được ông xem là hình thức của sựhiểu, trong đó ông nhận thấy thái độcơbản của các khoa học tinh thần, cái duy nhất có thểtôn trọng sựkhác biệt cơbản giữa các khoa học tinh thần và khoa học tựnhiên. Qua đây, tôi có ý định xem xét sốphận của sựđối đầu này dưới ánh sáng của những mâu thuẫn giữa các trường phái đương đại. Thực ra, khái niệm giải thích đã được chuyển dịch và chúng ta thừa hưởng nó không phải từcác khoa học tựnhiên mà là từcác mô hình ngôn ngữđích thực. Chúng ta có thểnói vềkhái niệm sựdiễn giải rằng trong tường giải học hiện đại nó đã trải qua những thay đổi sâu sắc, được những thay đổi này đưa ra khỏi khái niệm thuộc vềtâm lý học của sựhiểu, xét trong ý nghĩa mà Dilthey nói đến. Tôi muốn làm rõ cái khía cạnh mới, có lẽít có tính tương phản, nhưng hiệu quảhơn này của vấn đề. Tuy vậy, trước khichuyển sang những khái niệm mới của sựgiải thích và diễn giải, tôi muốn dừng lại ởvấn đềtrước đó đang dẫn dắt những công việc tiếp theo của chúng tôi. Đó là vấn đề: Văn bn là gì?

Văn bản là gì?

Chúng ta gọi tất cảmọi diễn ngôn được ghi lại là văn bản. Trong ý nghĩa của sựđịnh nghĩa này thì sựghi lại bằng chữviết tạo nên văn bản. Nhưng sựviết ghi lại cái gì? Chúng tôi đã nói là tất cảmọi diễn ngôn. Vậy chúng ta có thểnói được rằng cần thểhiện diễn ngôn vềmặt thểchất trước hay vềmặt ý nghĩ? Rằng tất cảmọi sựviết, chí ít ởdạng tiềm năng, trước hết là lời nói? Nói một cách ngắn gọn: chúng ta nhìn nhận mối quan hệgiữa văn bản và lời nói nhưthếnào? Ngay trong sựtiếp cận đầu tiên tôi đã muốn nói rằng tất cảmọi sựviết đều liên hệvới lời nói có trước. Trong thực tế, cùng với Ferdinand de Saussure, nếu chúng ta hiểu ởlời nói việc thực hiện một sựkiện thông báo nào đó của ngôn ngữlà sựsáng tạo thông qua người nói độc nhất của diễn ngôn độc nhất, thì tất cảmọi văn bản đều ởtrong tình thếthực hiện mình trong quan hệvới ngôn ngữ, giống nhưlời nói vậy. Ngoài ra, sựviết nhưlà thiết chếchỉquan hệvới lời nói sau đó, nó ghi lại bằng chữviết tất cảmọi sựthểhiện xuất hiện trong khi nói. Sựquan tâm dành riêng cho các bài viết ngữâm có vẻnhưnhấn mạnh rằng sựviết không mang lại cái gì cho hiện tượng lời nói. Từđây xuất hiện ý nghĩ cho rằng sựviết là lời nói được ghi lại và rằng sựghi lại - dù đó là viết hay ghi âm - bảo đảm nội dung của lời nói bằng tính chất trường tồn của sựghi khắc.

Lai lịch tâm lý học và xã hội học của lời nói quan hệvới sựviết không còn là vấn đềnữa.Chúng ta hoàn toàn có thểhỏi rằng vậy sựxuất hiện muộn màng của chữviết không báo trước một sựthay đổi căn bản nào trong mối quan hệcủa chúng ta liên quan đến việc thểhiện diễn ngôn hay sao? Chúng ta hãy trởvềvới định nghĩa văn bản là diễn ngôn được ghi lại chính là sựbiểu lộmà chúng ta đã có thểnói ra, nhưng sởdĩ chúng ta viết ra một cách chính xác là vì chúng ta không nói. Sựghi lại bằng việc viết ra văn bản đã chiếm vịtrí của lời nói, cái vịtrí mà lời nói lẽra đã xuất hiện. Vậy chúng ta có thểhỏi rằng văn bản có phải là văn bản không trong trường hợp nó không dừng lại ởviệc ghi lại một lời nói có trước, mà trực tiếp viết ra điều diễn ngôn muốn nói.

Cái có thểnhấn mạnh ý nghĩ vềmối quan hệtrực tiếp giữa việc muốn nói ra điều muốn biểulộvà sựviết, đó chính là chức năng của sựđọc quan hệvới sựviết. Đúng là sựviết gọi chúng ta đến với sựđọc thông qua mối quan hệmà nó nhanh chóng tạo điều kiện đểchúng ta đưa ra khái niệm sựdiễn giải. Chúng ta có thểnói trước rằng người đọc thaythếsựthểhiện và người nói bằng phương pháp đối xứng. Quảthực, mối quan hệviết - đọc không phải là trường hợp riêng của mối quan hệnói - trảlời. Không phải là mối quan hệđối thoại, cũng không phải là lời đối thoại. Không đủnếu chúng ta nói rằng sựđọc là sựđối thoại với tác giảthông qua tác phẩm của anh ta; chúng ta cần phải nói rằng mối quan hệcủa người đọc với quyển sách là hoàn toàn mang tính chất khác. Sựđối thoại là sựthay thếcủa các câu hỏi và trảlời. Còn giữa nhà văn và bạn đọc thì không có khảnăng thay thếnhưvậy: nhà văn không trảlời cho người đọc. Quyển sách phân chia hoạt động viết và đọc làm hai phần không quan hệ, giao tiếp với nhau. Người đọc vắng mặt khi nhà văn viết, và nhà văn không hiện diện khi người đọc đọc. Nhưvậy vănbản làm che khuất cảbạn đọc và nhà văn; và bằng cách đó nó bước vào vịtrí của sựđối thoại, trực tiếp nối liền một trong những giọng nói này với người nghe khác.

Việc thay thếsựđọc vào vịtrí mà sựđối thoại không xảy ra rõ ràng đến mức, trong trường hợp, nếu chúng ta gặp một tác giảvà trò chuyện với anh ta (ví dụvềquyển sách của anh ta), thì lúc đó chúng ta cảm thấy một cách sâu sắc sựsụp đổcủa mối quan hệrất đặc trưng của chúng ta với tác giảtrong tác phẩm và qua tác phẩm của anh ta. Tôi vẫn thường nói rằng đọc một quyển sách nào đó có nghĩa là chúng ta xem tác giảlà người đã chết còn cuốn sách của anh ta là tác phẩm được in sau khi anh ta chết. Mối quan hệcủa chúng ta với quyển sách thực sựtrởnên trọn vẹn và phần nào là nguyên vẹn khi nhà văn chết, anh ta không thểtrảlời được nữa, chúng ta chỉcòn việc đọc tác phẩm của anh ta.

Sựkhác biệt của hoạt động đọc và đối thoại càng khẳng định giảthuyết của chúng tôi rằng sựviết là một sựthực hiện giống nhưlời nói, song hành với lời nói; một sựthực hiện làm thay thếlời nói, bao bọc lấy lời nói. Vì thếchúng tôi mới nói rằng cái gì xuất xứtừsựviết thì đó chính là chủý của diễn ngôn nhưlà chủý của sựphát ngôn, và viết là sựghi khắc trực tiếp chủý này, kểcảkhi vềmặt lịch sửvà tâm lí, sựviết bắt đầu bằng sựhoạlại các ký hiệu của lời nói. Với việc thay thếlời nói bằng sựviết, sựgiải phóng này là hoạt động ra đời của văn bản.

Vấn đềđặt ra là: Điều gì xẩy ra với lời phát biểu khi mà người ta trực tiếp ghi lại thay vì đọc lên? Chúng tôi luôn nhấn mạnh đặc điểm nổi bật nhất là sựviết gìn giữdiễn ngôn và làm cho cái đó trởthành tài liệu có thểtiếp cận đối với ký ức riêng tưvà tập thể: Chúng tôi cũng có thểnói thêm rằng việc làm cho các biểu tượng có đường nét sẽtạo điều kiện cho việc dịch, phân tích và phân biệt mọi yếu tốliên tục và tinh tếcủa ngôn ngữ, làm tăng thêm tính hiệu quảcủa ngôn ngữ. Đấy là tất cảhay sao? Nhưchúng ta đã thấy, sựgìn giữvà tính hiệu quảtăng dần chỉmới đặc trưng cho việc viết các kí hiệu đồhoạcủa ngôn ngữnói. Sgii phóng văn bn ra khi li nói làm đo ln mi quan hgia ngôn ngvà thếgii, cũng ging nhưlàm đo ln mi quan hca ngôn ngvà các chthkhác có liên quan, kcmi quan hgia tác givà người đc (N. D nhấn mạnh). Và chúng tôi nhận ra từsựđảo lộn này một điều gì đó, khi chúng ta phân biệt sựđọc với sựđối thoại. Chúng ta cần phải đi tiếp, xuất phát từsựđảo lộn chạm đến mối quan hệthông báo giữa ngôn ngữvà thếgiới khi văn bản chiếm chỗlời nói.

Chúng ta hiểu gì vềmối quan hệthông báo hay vềchức năng chỉdẫn? Nếu chủthểcủa diễn ngôn quay sang phía một người nói khác, nói gì đó vềđiều anh ta đang nói thì việc đó gọi là sựchỉdẫn điều anh ta thổlộ. Nhưchúng ta biết, chức năng thông báo có trong câu nào là đơn vịlời nói đầu tiên và đơn giản nhất, cái câu chủđịnh nói một sựthật hay hiện thực gì đó, ít ra thì trong diễn ngôn đã xác định. Chức năng thông báo quan trọng đến mức, ởmột chừng mực nào đó, nó làm cân bằng đặc tính khác của ngôn ngữ, chẳng hạn cái đặc tính làm tách biệt các ký hiệu ra khỏi sựvật. Thông qua chức năng thông báo, (nói theo lời Gustave Guillaume, “nó hoàn trảlại cho thếgiới”) ngôn ngữđã tước bỏnhững ký hiệu từcác sựvật khi chức năng biểu tượng ra đời. Bằng cách này tất cảmọi sựthổlộđều liên hệvới một thếgiới nào đó. Bởi vì chúng ta không nói vềthếgiới thì nói vềcái gì?

Nhưng khi văn bản lấy đi vịtrí của lời nói thì xẩy ra điều gì đó quan trọng. Khi thay đổi lời nói, những người nói chuyện đều có mặt vì nhau, cũng giống nhưtình thế, môi trường, đó là vùng phụthuộc vào hoàn cảnh của lời nói. Liên quan đến vùng phụthuộc này, diễn ngôn hoàn toàn là cái biểu đạt, sựám chỉđến hiện thực rốt cuộc đều ám chỉđến cái hiện thực có thểchỉra “xung quanh” lời nói; có thểnói,“xung quanh” yêu cầu của chính lời nói. Mà ngôn ngữthì lại được chuẩn bịrất tốt đểbảo đảm cái nơi bỏneo này: Các đại từchỉđịnh, các trạng từchỉthời gian, vịtrí; đại từnhân xưng, thời của động từvà nói chung tất cảmọi cái biểu đạt “chỉđịnh” hay “nổi bật” đều phục vụcho việc neo lời nói vào cái hiện thực phụthuộc vào hoàn cảnh bao quanh yêu cầu của lời nói. Nhưvậy, trong lời nói trực diện, nghĩa lý tưởng mà người ta nói ra, ám chỉlại sựthông báo hin thc, tức là vcái mà người ta đang nói. Rốt cuộc, cái thông báo hiện thực này gần nhưlẫn lộn với sựbiểu đạt nổi bật nào đó, nơi lời nói thống nhất với cửchỉnhìn thấy. Nghĩa hoà tan vào sựthông báo, và sựthông báo thì chuyển vào sựbày tỏ.

Nhưng khi văn bản chiếm chỗlời nói thì điều đó lại không phải nhưvậy. Lúc này, người ta ngăn chặn sựthông báo vận động vềhướng sựbiểu thị, đồng thời với việc văn bản cắt đứt với sựđối thoại. Tôi nói là ngăn chặn chứkhông phải là chấm dứt, ởđiểm này tôi khoanh vùng lại cái mà qua đó tôi gọi là tưtưởng của văn bản tuyệt đối, xuất hiện trên cơsởnhững nhận xét xác đáng của chúng tôi ởphần trên. Nhưchúng ta sẽthấy, văn bản không phải là cái không thông báo; nói mt cách chính xác thì sđc nhưlà sdin gii scó nhim vthc hin sthông báo. (N. D nhấn mạnh). Ít ra thì sựthông báo bịtrì hoãn trong sựbấp bênh, ởmột chừng mực nhất định, văn bản “lơlửng trong không khí”, nằm ngoài thếgiới hoặc không có thếgiới, phi thếgiới. Việc mờnhạt hoá mối quan hệvới thếgiới giúp cho tất cảmọi văn bản tựdo quan hệvới những văn bản khác, những văn bản đó thay thếcái hiện thực phụthuộc vào hoàn cảnh được thểhiện qua lời nói trực tiếp. Mi quan hca văn bn vi văn bn làm to ra cái thếgii gn nhưhay còn gi làvăn hc, trong sxoá bcái thếgii hin thc mà chúng tôi đã nói đến. (N. D nhấn mạnh).

Đây chính là sựbiến đổi liên quan đến lời nói, trong trường hợp nếu văn bản trì hoãn được sựvận động hướng từsựthông báo đến sựthểhiện. Từngữ, theo cách này,không còn tách rời con đường của các sựvật, từngữđược viết ra trởthành từngữvì chính bản thân chúng.

Sựche lấp cái thếgiới phụthuộc vào hoàn cảnh thông qua cái thếgiới gn như của các văn bản, có thểtrọn vẹn nhưchính thếgiới trong nền văn minh của sựviết: không còn là điều chúng ta thểhiện bằng lời nói, nó thu hẹp lại ởcái vầng sáng được mởra nhờcác tác phẩm. Trong ý nghĩa này mà chúng ta nói vềthếgiới Hi lạp hoặc thếgiới Byzance. Chúng ta có thểnói thếgiới này thuộc vềtrí tưởng tượng trong ý nghĩa là sựviết làm cho nó hin hu chính ởnơi mà lời nói đưa vào. Nhưng cái thếgiới tưởng tượng này lại cũng chính là sáng tác văn học, nó vừa thuộc vềthếgiới văn học lại vừa thuộc vềthếgiới tưởng tượng.

Sựsụp đổcủa mối quan hệgiữa văn bản và thếgiới lại chính là chìa khoá của sựsụp đổkhác mà chúng tôi đã nói đến, một sựsụp đổđụng chạm đến mối quan hệgiữa tác giảvà chủthểđọc. Chúng tôi nghĩ “cái gì” là tác giảcủa văn bản, bởi lẽkhái niệm tác giảđược chúng ta cho xuất xứtừngười nói: chủthểcủa lời nói là người gọi bản thân mình là “tôi” - Benveniste nhấn mạnh. Một khi văn bản chiếm chỗlời nói thì chúng ta không còn có thểnói vềngười nói trong ý nghĩa thực nữa, ít ra chúng ta không thểnói vềanh ta trong ý nghĩa là người tựđềcửbản thân tức thì và trực tiếp, là người lên tiếng trong sựđòi hỏi được thổlộ. Mối quan hệphức tạp, tác giả- văn bản bước vào vịtrí gần gũi với lời nói riêng tưcủa chủthểnói, nó tạo điều kiện đểvăn bản thiết lập nên tác giảvà chính tác giảcũng ngụtrong không gian nghĩa mà sựviết đã chỉđịnh và chỉdẫn. Chính văn bản là nơi xy ra tác giả. Nhưng có thểxẩy ra trong nó cách khác, nhưlà người đọc đầu tiên? Sựtách rời tác giảra khỏi văn bản của anh ta đã là hiện tượng đọc đầu tiên, nó đặt ra ngay lập tức toàn bộnhững vấn đềmà chúng ta sẽphải đem đối chứng với các mối quan hệcủa sự gii thích và din gii. Các mối quan hệnày ra đời trong quá trình đọc.

Gii thích hay là hiu

Không bao lâu nữa, chúng ta thật sựthấy trong sựđọc hai thái độnằm sau hai tên gọi là gii thích và din gii.Lần đầu tiên chúng ta nhận ra hai thái độnày ởDilthey. Thật ra, sựphân biệt này ởDilthey là đại diện cho một sựlựa chọn mà một trong những thành viên này cần phải loại bỏthành viên kia: hoặc là “chúng ta giải thích” theo phương pháp của khoa học tựnhiên, hoặc là “chúng ta diễn giải” theo phương pháp của nhà sửhọc. Xuất phát điểm của những lập luận tiếp theo của chúng tôi dựa trên việc lựa chọn sựloại bỏnày. Tôi có ý định chỉra rằng khái niệm văn bản mà chúng tôi đã xác lập ởphần đầu của bài viếtlà muốn đổi mới khái niệm giải thích và diễn giải, muốn có quan niệm ít mâu thuẫn vềmối quan hệgiữa giải thích và diễn giải nhờsựđổi mới đó. Chúng tôi phải nói ngay rằng chính việc tìm kiếm sựbổsung và tương tác lẫn nhau một cách chặt chẽgiữa giải thích và diễn giải đã thúc đẩy những lập luận của chúng tôi.

Sựđối đầu nguyên khởi ởDilthey không hoàn toàn do hai khái niệm gii thích và din gii mà là do hai khái niệm gii thích và hiu, sau khi sựdiễn giải tạo nên vùng riêng của sựhiểu. Chúng tôi cần xuất phát từmâu thuẫn giữa giải thích và hiểu. Giờđây, mâu thuẫn đã được loại bỏ, bởi vì trong trường hợp của Dilthey thì hai khái niệm chỉra hai vùng ảnh hưởng khác nhau của hiện thực mà chúng muốn chia sẻ. Một trong hai vùng ảnh hưởng đó là của khoa học tựnhiên, vùng còn lại là của các khoa học tinh thần. Lĩnh vực tựnhiên là lĩnh vực của các sựvật phụthuộc những quy phạm lô gích quy nạp có từJohn Stuart Mill, lĩnh vực của sựgiải thích toán học có từGalilei dành cho sựchú ý khoa học. Lĩnh vực tinh thần là lĩnh vực của những tính cách tâm lý, nơi mọi chủnghĩa tâm lý đều có khảnăng rời bỏvịtrí của nó. Sựhiểu được chuyển sang một thứchủnghĩa tâm lý xa lạnào đó. Vậy có thểcó các khoa học tinh thần, nghĩa là có thểcó nhận thức khoa học của các cá thể, có thểcó sựhiểu của cái phi thường, khách quan theo cách của nó? Có thểlàm cho sựhiểu nhưthếcó hiệu lực rộng khắp? Dilthey trảlời rằng những điều đó đều có thể, bởi vì cáibên trong được xẩy ra trong những dấu hiệu bên ngoài có thểnắm bắt và hiểu được giống nhưnhững dấu hiệu của chủnghĩa tâm lý xa lạnào đó. Trong một bài viết rất nổi tiếng, Vngun gc tường gii hc, in năm 1900, Dilthey đã viết rằng “Chúng ta gọi sựhiểu là quá trình mà thông qua nó chúng ta nhận biết được cái tâm lý gì đó nhờcác dấu hiệu nhạy cảm là những biểu hiện của tâm lý đó”. (tr. 320) Vùng đặc trưng của sựhiểu này là sựdiễn giải. Giữa những dấu hiệu của chủnghĩa tâm lý xa lạ, chúng ta bắt gặp “những biểu hiện được ghi lại một cách lâu bền, “những bằng chứng thuộc vềcon người được ghi lại qua sựviết”, và “những tượng đài kỷniệm bằng văn bản”. Nhưvậy, diễn giải là sựhiểu được vận dụng cho các biểu hiện, các bằng chứng và đài kỉniệm mà yếu tốphân biệt chúng là sựviết.

Trong cảhai mặt hiểu - diễn giải thì sựhiểu tạo ra cơsở, đó là sựtiếp xúc với chủnghĩa tâm lý xa lạthông qua các ký hiệu. Và sựdiễn giải mang theo mức độkhách quan hoá nhờviệc ghi lại và gìn giữcái mà sựviết mượnlàm các ký hiệu.

Sựkhác biệt giữa giải thích và diễn giải lúc đầu có vẻrõ ràng, thếnhưng nó trởnên mơhồkhi chúng ta quan tâm đến những điều kiện khoa học của sựdiễn giải. Chúng ta đã giới hạn sựgiải thích ởlĩnh vực khoa học tựnhiên, nhưng mâu thuẫn lại nảy sinh ởchính khái niệm sựdiễn giải: giữa một đằng là tính chất trực quan, không thểkiểm soát của khái niệm tâm lí học hoá của sựhiểu và một đằng là nhu cầu khách quan hoá liên quan đến khái niệm khoa học tinh thần. Sựphân đôi bên trong này của tường giải họcgiữa ý muốn tâm lí học hoá và sựtìm kiếm lô gích diễn giải, rốt cuộc đặt ra mối quan hệgiữa sựhiểu và sựdiễn giải. Sựdiễn giải không phải là một loại của sựhiểu, nó phá vỡtính thống nhất của kiểu loại? Phải chăng, sựkhác biệt đặc trưng, sựghi khắc văn bản là quan trọng hơn so với đặc điểm chung của mọi ký hiệu là lấy hình thức bên ngoài nào đó thểhiện đời sống bên trong? Cái gì là quan trọng nhất trong tường giải học: Vùi vào vùng ảnh hưởng của sựhiểu hay là tách rời sựhiểu. Trước Dilthey, Schleiermacher là người đã cho thấy vềsựmâu thuẫn bên trong của ý đồtường giải học, người đã vượt qua mâu thuẫn này một cách may mắn bằng việc cho hôn phối thiên tài lãng mn với trình đngvăn bc thy. Với sựxuất hiện của Dilthey, những nhu cầu thuộc vềkhoa học luận càng trởnên đáng lo hơn. Nhiều thếhệđã đưa ông, một người được rèn luyện qua tưduy khoa học luận, ra khỏi nhà bác học lãng mạn; và nhưvậy đối với ông, mâu thuẫn là điều hoàn toàn rõ. Chúng ta hãy xem Dilthey đã giải thích Schleiermacher nhưthếnào: “Mục đích cuối cùng của thao tác tường giải học là đểchúng ta hiểu hơn tác giảso với cách anh ta hiểu chính mình” [1]. Luận đềnày liên quan đến tâm lý học của sựhiểu. Luận đềtiếp theo thì lại liên quan đến lô gích diễn giải: “Vềmặt lý luận, tường giải học cần phải tạo dựng tính hiệu lực chung của sựdiễn giải đối diện với sựxâm thực thường xuyên của chuyên chếlãng mạn và sựchủthểhoá hoài nghi vào lĩnh vực lịch sử, nơi kết thúc mọi sựchắc chắn của lịch sử” [2]. Tức là tường giải học chỉcắt đứt với tính chất trực tiếp của sựhiểu khác - Có thểnói là cắt đứt khỏi những giá trịđối thoại - thì mới có thểthực hiện những mong muốn của sựhiểu. Sựhiểu muốn nhập làm một với cái bên trong của tác giả, muốn trởnên bình đẳng với anh ta, muốn sáng tạo lại quá trình tạo thành tác phẩm. Nhưng chúng ta không thểtìm được dấu hiệu của ý định này và của tác phẩm ởnơi khác mà chỉởnơi mà Schleiermacher gọi là “hình thức bên ngoài và hình thức bên trong” và “sựliên kết”, “mối quan hệ”, là những yếu tốlàm cho tác phẩm trởthành cái toàn thểcó tổchức. Những bài viết cuối cùng của Dilthey (chẳng hạn như Xây dng thếgii lch strong các khoa hc tinh thn) càng làm cho tình hình thêm căng thẳng. Một mặt chịu ảnh hưởng của côngtrình Nhng nghiên cu lô gích của Husserl, ông nhấn mạnh mặt khách quan của tác phẩm. (Nhưchúng ta biết, đối với Husserl, “nghĩa” của cái thông báo đại diện cho một thứ“lí tưởng hoá” không tồn tại trong hiện thực tâm lý: nó là chỉnh thểnghĩa thuần tuý, không có ràng buộc với vịtrí có thực. Giống với cách thức trước đó, tường giải học có từsựkhách thểhoá các năng lượng sáng tạo của đời sống có trong các tác phẩm. Chính chủnghĩa tâm lý, tính năng động của nó, đã lưu ý chúng ta đến sựchuyển tiếp thông qua “các nghĩa” “giá trị” và “mục đích”. Nhưvậy, cảsựdiễn giải và sựhiểu đều cần đến tính khoa học. Có lẽnó hối thúc đến cảsựphi tâm lí học hoá ngày càng tiến bộhơn cho việc xem xét nội quan, nếu đúng là kỷniệm đi theo những nội dung không phảilà các hiện tượng tâm lý. Sựngoại hiện của đời sống ngày càng đòi hỏi tính chất gián tiếp và phụthuộc hơn của sựdiễn giải cái tôi và người khác. Thếnhưng, nói theo khái niệm tâm lý học, sựdiễn giải muốn đồng hành cùng cái tôi và người khác, nó luôn luôn hướng tới mục đích tái tạo những kinh nghiệm đã sống.

Sựcăng thẳng không thểchịu đựng nổi mà Dilthey là nhân chứng này, kích thích chúng tôi quan tâm đến hai vấn đềđịnh hướng những lập luận tiếp theo của mình: Chúng ta có cần bỏqua mối liên hệcủa sựhiểu đối với sựdiễn giải? Có cần phải đểcho sựdiễn giải các tượng đài kỷniệm bằng văn bản nhưlà sựhiểu các ký hiệu bên ngoài của đời sống nội tâm nào đó; nói chính xác hơn, chúng ta phải quan niệm đó là những trường hợp riêng của sựhiểu đời sống nội tâm? Nhưng nếu sựdiễn giải không tìm kiếm nữa chuẩn mực hiểu ởtrong sựhiểu khác thì phải chăng không cần phải đặt lại vấn đềmối quan hệcủa nó với sựgiải thích?

Văn bn và gii thích cu trúc

Chúng ta hãy xuất phát từsựphân tích văn bản và từvịthếtựtrịmà chúng ta thừa nhận nhưlà đặc điểm của văn bản so với lời nói và sựthay thếtừngữ. Cái mà chúng ta gọi là sựche khuất thếgiới thực nhờthếgiới giảđịnh của các văn bản, tạo ra cho chúng ta hai khảnăng: Chúng ta có thểnhưlà những người đọc trước sựbấp bênh của văn bản, có thểứng xửvới văn bản nhưlà cái không thếgiới, không tác giả; và nếu làm nhưvậy là chúng ta giải thích văn bản theo các mối quan hệbên trong của nó, tức là theo cấu trúc văn bản. Hoặc là chúng ta có thểtriệt tiêu sựbấp bênh của văn bản, làm cho văn bản hoàn thành, trởnên trọn vẹn bằng từngữqua đó đưa văn bản trởlại với sựgiao tiếp trực tiếp. Đây là lúc chúng ta diễn giải văn bản. Cảhai khảnăng đều thuộc vềsựđọc, và sựđọc là biện chứng của hai thái độtrên.

Chúng ta phải xem xét những thái độnày riêng rẽ, trước khi bắt đầu thảo luận vềchúng. Trước hết, chúng ta đảm nhận một lối đọc với nhận thức rằng văn bản loại bỏtất cảcác mối quan hệvới cái thếgiới mà chúng ta có thểchỉra, với cảnhững chủthểcó thểtiếp tục sựđối thoại. Sựchuyển tiếp vào “vịtrí” này - mà thực ra không phải là vịtrí - đại diện cho ý đồriêng vềmặt văn bản: nó kéo dài việc đình chỉsựthông báo của thếgiới và chủthểnói. Thông qua ý định riêng này, người đọc quyết định rằng ở“vịtrí của văn bản” trong “sựkhép kín” của nó, có một “tu viện khép kín”. Trên cơsởcủa sựlựa chọn này, văn bản không có cái bên ngoài, chỉcó cái bên trong; không có mục đích tiên nghiệm nhưlẽra lời nói nhận được phải có trên cơsởmột điều gì đó của ai đó.

Ý định này không chỉhoàn toàn có thểmà còn hợp lý nữa: trong thực tếvăn bản nhưlà văn bản và sựhiện thân của các mạng lưới văn bản nhưlà văn học làm cho sựtrì hoãn yếu tốtiên nghiệm hai mặt này của lời nói hướng tới thếgiới và thếgiới khác, trởnên hợp lý. Thái độgiải thích có xuất phát điểm nhưthếnày trước văn bản là có thểđược.

Khác với suy nghĩ của Dilthey, chúng tôi không lấy thái độgiải thích từmô hình nhận thức luậnkhác vềlĩnh vực nhận thức khác, mà từchính lĩnh vực ngôn ngữ. Mô hình này không phải là mô hình khoa học tựnhiên được lan rộng sang các khoa học tinh thần một cách muộn màng. Sựđối đầu tựnhiên - tinh thần không đóng vai trò gì trong nó cả. Nếu chúng ta nói vềsựvay mượn thì điều đó xảy ra ngay trên lĩnh vực đó, bên trong các ký hiệu ngôn ngữ. Chúng ta xem xét các văn bản theo những nguyên tắc giải thích mà ngôn ngữhọc đã vận dụng thành công đối với những hệthống đơn giản của các ký hiệu giống nhưởví dụngôn ngữ(langue) đối diện với lời nói (parole). Nhưchúng ta biết, ngôn ngữ- lời nói (langue - parole) là sựphân biệt cơbản tạo nên đối tượng thống nhất cho ngôn ngữhọc. Trong khi lời nói thuộc vềtâm lý học, sinh lý học, xã hội học, thì ngôn ngữchỉthuộc vềngôn ngữhọc, giống nhưtrò chơi mà các quy tắc của nó được người ta thực hiện trong lời nói. Chúng ta cũng đều biết rằng ngôn ngữhọc chỉbiết đến cái hệthống của những đơn vịbịtước bỏkhỏi các nghĩa thuần khiết, mỗi một đơn vịchỉcó thểxác định được qua sựtách biệt của nó ra khỏi toàn bộnhững đơn vịcòn lại. Các đơn vị, - cứcho là chúng khác biệt, nhưlà các đơn vịcủa sựkết nối âm vịhọc hay là những cái mang nghĩa nhưlà các đơn vịtừvựng - là những đơn vịđứng đối diện. Cái trò chơi hỗn hợp các mâu thuẫn và những mâu thuẫn bên trong nội bộcác đơn vịnghĩa thầm kín, đã quyết định khái niệm cấu trúc trong ngôn ngữhọc.

Mô hình trên đây dẫn đến thái độgiải thích mà dưới đây chúng tôi vận dụng vào văn bản.

Có thểnêu những nhận xét phản bác lại điều đó trước khi chúng ta cho vận dụng: Không thểdùng những quy luật chỉcó hiệu lực đối với ngôn ngữqua những phẩm chất khác biệt của lời nói đểgiải thích văn bản. Văn bản - thay cho lời nói - phải chăng không đứng cùng một phía giống nhưlời nói so với ngôn ngữ? Phải chăng không cần phải đối chứng diễn ngôn với ngôn ngữmà rốt cuộc cũng chính là trình tựcủa các câu? So với sựphân biệt diễn ngôn - ngôn ngữthì sựphân biệt giữa nói - viết phải chăng là thứyếu, bởi vì cảlời nói và sựviết đều cùng ởphía diễn ngôn? Những nhận xét này đều hoàn toàn hợp lý, chúng cho phép chúng ta suy nghĩ rằng mô hình gii thích cu trúc không tn dng nhng thái đcó thcó trước văn bn. (N. D. nhấn mạnh). Tuy vậy, trước khi chỉra những giới hạn của thái độgiải thích, chúng ta cần nắm bắt được sựphong phú của nó. Giảthuyết làm việc của giải thích cấu trúc vềmọi văn bản là cho dù sựviết giống nhưlời nói quan hệvới ngôn ngữ, đều ởphía diễn ngôn, thì đặc trưng của sựviết - so với lời nói thực thụ- được xác lập trên những đặc điểm cấu trúc có thểnhận biết qua những tương đồng bên trong của sựthểhiện ngôn ngữ. Giảthuyết này hoàn toàn xác đáng, nhờviệc xác định được rằng với những điều kiện nhất định, các đơn vịlớn của ngôn ngữ, tức là các đơn vịphía trên câu - thuộc vùng ảnh hưởng của ngôn ngữhọc - được tổchức giống với các đơn vịnhỏhơn câu của ngôn ngữ.

Trong tác phẩm Nhân chng hc cu trúc, Levi - Strauss đã diễn đạt cái giảthuyết làm việc trên nhưsau, liên quan đến một phạm trù văn bản là thần thoại: “Cũng nhưtất cảmọi sựtồn tại ngôn ngữ, thần thoại cũng được các đơn vịcấu thành tạo nên. Các đơn vịcấu thành này giảthuyết vềsựhiện diện của các đơn vịvẫn xuất hiện một cách bài bản trong cấu trúc ngôn ngữ, đó là các âm vị, hình vịvà nghĩa vị. Các đơn vịcấu thành của thần thoại quan hệvới các nghĩa vịgiống nhưcác nghĩa vịvới các hình vịvà cũng nhưcác hình vịvới các âm vị. Mỗi một hình thức tách khỏi hình thức đi trước nó trong sựphức tạp ởmức cao nhất của nó. Do đó ta gọi những yếu tốthuộc vềthần thoại (là yếu tốphức tạp nhất trong tổng sốcác yếu tố) là những đơn vịlớn cấu thành”. (tr. 233). Trong ý nghĩa của giảthuyết này thì ít ra những đơn vịlớn ởmức câu, được xếp cạnh nhau tạo nên câu truyện kểcó đặc điểm thần thoại, đều có thểứng xửnhưlà các đơn vịnhỏhơn đã quen thuộc của các nhà ngôn ngữhọc. Lévi Strauss nhấn mạnh sựtương đồng này khi nói vềthần thoại, giống nhưchúng ta nói vềâm vị, hình vịvà nghĩa vị. Tuy nhiên, đểsựtương đồng giữa thần thoại và các đơn vịngôn ngữhọc ởbình diện thấp còn lại trong khuôn khổcủa nó thì sựphân tích văn bản cần phải quan tâm nhưnhà âm vịhọc. Đối với nhà âm vịhọc thì âm vịkhông phải là âm có trong thực thểkhông cụthể, vang lên một cách độc lập mà là chức năng được xác định bằng phương pháp giao hoán, hoà tan trong giá trịmâu thuẫn với tất cảchức năng khác. Trong ý nghĩa này, nói nhưSaussure, không phải là “thực thể”, mà là “hình thức”, là toàn bộtrò chơi của các mối quan hệ. Tương tự mitémakhông phải là một câu của thần thoại, mà là giá trịđối diện liên quan với nhiều câu đặc trưng; cái giá trịmà nói theo Lévi Strauss tạo nên “cái bọc quan hệ”: “Các đơn vịcấu thành chỉđến được với chức năng thông báo trong hình thức của những sựkết hợp tương tự”. (tr. 234). Cái mà ởđây người ta gọi là chức năng thông báo, hoàn toàn không phải tất cảđều có nghĩa là thần thoại; không phải sức nặng triết học hay sinh tồn mà là sựsắp xếp, phân chia mitema, nói một cách ngắn gọn là cấu trúc thần thoại.

Bây giờtôi dẫn ra một cách ngắn gọn sựphân tích theo phương pháp trên đây mà Lévi Strauss đềnghịdành cho thần thoại Oidipusz. Các câu của thần thoại được chia làm bốn cột. Ởcột thứnhất, ông đưa vào những yếu tốnói vềmối quan hệhọhàng được đánh giá quá cao (ví dụOidipusz lấy mẹlà Iokasztét làm vợ; Antigoné chôn cất em là Poluneikész, bất chấp sựcấm đoán. ) Chúng ta cũng gặp ởcột thứhai mối quan hệđó, nhưng là mối quan hệhọhàng được đánh dấu ngược lại, bịcoi thường hoặc hạthấp (Oidipusz giết cha là Laiosz; Eteoklesz thì giết em là Poluneikész. ) Còn cột thứba nói đến quỷsứvà sựtiêu diệt chúng. Cột thứtưlà nơi tái phân nhóm các tên riêng mà nghĩa của chúng nói đến những khó khăn của việc đi lại (chân thọt, vụng về, hoặc bịsưng to). So sánh cảbốncột với nhau, ta sẽthấy được mối liên hệ. Giữa cột một và cột hai là mối quan hệthân thuộc được đềcao quá hoặc bịhạthấp quá; ởcột ba và cột bốn chúng ta bắt gặp sựđồng tình và sau đó là sựphủđịnh nguồn gốc của con người. “Từđây tôi rút ra kết luận rằng cột thứtưcũng quan hệvới cột thứba giống nhưcột thứnhất với cột thứhai. . . sựđánh giá quá mức mối quan hệruột thịt tỉlệthuận với sựhạthấp nó, giống nhưnỗlực trốn chạy trước nguồn gốc xuất xứ, sựbất thành của việc đềcao mối quan hệthân thuộc”. Nhưvậy, thần thoại xuất hiện nhưlà công cụlogic kéo các mâu thuẫn lại gần nhau hơn đểrồi vượt lên những mâu thuẫn đó. “Việc không thểđưa các nhóm quan hệvào mối liên hệchung đã bịvượt lên bởi tuyên bốcho rằng hai mối quan hệmâu thuẫn bộc lộsựtương đồng nếu nhưtừng mối quan hệcó mâu thuẫn tựthân”. (tr. 239). Chúng ta sẽtrởlại với kết quảnày của Lévi Strauss không bao lâu nữa; trước hết, chúng ta chỉgiới hạn ởtuyên bốcủa ông.

Có thểnói rằng chúng ta đã giải thích thần thoạinhưthếnào, nhưng đáng lẽra chúng ta phải diễn giải nó. Với sựgiúp đỡcủa phân tích cấu trúc, chúng ta đã làm nổi bật cái lô gíchcủa những hoạt động liên kết “các gói quan hệ” nhất định với những người khác. Cái lô gích này tạo nên “quy luật cấu trúc thần thoại đã nói đến” (tr. 241). Chúng tôi không quên ghi nhớrằng cái tuyệt vời của quy luật này là sựđọc và nó không phải là đối tượng của lời nói, trong ý nghĩa của sựthuyết trình, nơi quyền uy của thần thoại lại hoạt động trong tình thếđặc trưng. Ởđây văn bản chỉlà văn bản và sựđọc chỉnhưphủlên văn bản trong sựbấp bênh của nghĩa đối với chúng ta, là cái phụthuộc vào sựthực hiện lời nói bất kì nào đó.

Vừa rồi, tôi đã lấy ví dụtừlĩnh vực thần thoại. Tôi đã có thểlấy ví dụtừnhững lĩnh vực kềcận, vềtruyện kểdân gian mà các nhà hình thức Nga của trường phái Propp và các chuyên gia phân tích cấu trúc truyện kểngười Pháp, là Barthes và Greimas, từng nghiên cứu. Chúng ta có thểgặp những điều kiện cơbản tương tựởcác tác giảnày giống nhưởLévi Strauss: Các đơn vịphía trên câu đều có cùng kết cấu nhưcác đơn vịdưới câu; nghĩa của truyện kểtựcó trong sựsắp xếp các yếu tố, trong quyền uy của sựhội tụvà hợp nhất hoá tất cảcác đơn vịthứyếu. Và ngược lại: nghĩa của một yếu tốnào đó tức là cái cho thấy khảnăng của yếu tốđó, cái khảnăng mà qua đó yếu tốđó quan hệvới các yếu tốkhác và với toàn bộtác phẩm. Trên cơsởđó, những điều kiện cơbản quyết định quá trình kểchuyện. Nhưvậy, nhiệm vụcủa phân tích cấu trúc là phát động sựphân đoạn đểxác lập các cấp độkhác nhau của đơn vịthuộc bộphận nằm trong cái toàn thể. Vậy là khi nhà phân tích tách biệt các đơn vịcủa hành động thì những đơn vịđó không phải là những đơn vịtâm lý học có thểtrải nghiệm, hoặc những đơn vịlôi cuốn sựvận dụng chủnghĩa hành vi của ứng xử, những thái cực của các bộphận tiếp theo nhau chỉlà những vịtrí của người lính gác, đểnếu chúng ta thay đổi một yếu tốthì toàn bộsựtiếp tục sẽkhác đi. Trong phương pháp này, chúng ta có thểnhận biết sựchuyển dịch của phương pháp giao hoán từbình diện âm vịhọc đến bình diện của các đơn vịtruyện kể. Lôgích hoạt động có từmắt xích của các điểm nối, chúng cùng tạo nên tính liên tục của cấu trúc truyện kể. Việc vận dụng kỹthuật này dẫn đến “sựloại bỏtrật tựthời gian” bằng cách làm nổi bật lôgích tựsựẩn sau thời gian tựsự. Rốt cuộc, truyện kểcó thểquay vềvới tổhợp của một vài đơn vịmang kịch tính (hứa hẹn, phản bội, cản trở, giúp đỡv. v. . . ), qua đó, các đơn vịcũng là những bệbiến hoá của hànhđộng. Nhưvậy, mỗi điểm nối của hành động đều khép lại khảnăng khác đã được mởcủa cái trước nó. Những đơn vịnhỏsát nhập vào các đơn vịlớn hơn bằng sựkết nối các mắt xích của chúng. Ví dụsựgặp gỡche lấp những hoạt động nhỏhơn nhưđến gần, gọi tên, chào hỏi v. v. . . Giải thích một câu chuyện nào đó có nghĩa là chúng ta nắm bắt sựkết nối, cái kết cấu dễthay đổi của quá trình các hành động sát nhập vào nhau.

Các mối quan hệcó tính chất giống nhau của những người hành động “trong truyện kểphù hợpvới hàng loạt các đơn vịvà sựhoà nhập vào nhau của các hoạt động. Ởđây, chúng tôi không hiểu các nhân vật nhưlà các chủthểtâm lý học có sựtồn tại riêng, mà đó là các vai phù hợp với những hoạt động đã được hình thức hoá trong bản thân chúng. Chỉcócác vịngữcủa hoạt động, các trục ngữnghĩa của câu và truyện kểlà quyết định những người hành động: người hành động là người. . . , người có. . . , người bị. . . , người cùng. . . v. v. . . Hành động xảy ra đó là việc có người hứa hẹn, người chấp nhận điều hứa hẹn, là người cho, người nhận v. v. . . Nhưvậy, sựphân tích cấu trúc làm nổi bật cái tôn ti phụthuộc lẫn nhau của người hành đng và hành đng.

Bằng cách này chỉcòn lại việc chúng ta phải sắp xếp truyện kểvà đưa nó trởlại sựgiao tiếp tựsự.Nhưvậy có nghĩa là diễn ngôn được gửi đến người nhận thông qua người kểchuyện. Tuy nhiên, sựphân tích cấu trúc phải tìm trong văn bản những người đối thoại; chỉcó những dấu hiệu thuộc vềviệc xây dựng truyện kểlà có thểgiúp nhận ra người kểchuyện. Vượt qua ba bình diện (hành động, chủthểhành động và truyện kể) thì không có gì thuộc vềkhoa ký hiệu học, chỉcó người sửdụng truyện kểlà có thếgiới của mình, cái thếgiới có thểthuộc vềnhững ngành ký hiệu học khác (các hệthống xã hội, kinh tế, tưtưởng), nhưng những ngành này lại không mang tính chất ngôn ngữhọc. Việc chuyển dịch sang lý luận truyện kểcủa mô hình ngôn ngữnào đó đã chứng thực một cách chính xác điều chúng tôi nhận định từđầu: ngày nay, sựgiải thích không còn là khái niệm lấy từkhoa học tựnhiên đưa sang lĩnh vực xa lạ, lĩnh vực của những ký ức được viết ra. Khái niệm giải thích cũng xuất xứtừlĩnh vực ngôn ngữ, từsựchuyển dịch tương tựcủa những đơn vịnhỏhơn của ngôn ngữđến các đơn vịlớn ởtrên câu nhưlà truyện kể, folklore, thần thoại. Do đó, chúng ta không đối lập sựdiễn giải với mô hình nằm ngoài các khoa học tinh thần, nếu ta cho nó ý nghĩa đi chăng nữa. Nó sẽgây tranh luận với mô hình dễhiểu mà chúng ta có thểnói rằng ngay từkhi ra đời đã thuộc vềcác khoa họctinh thần, thuộc vềmột trong những đỉnh cao của các khoa học này là ngôn ngữ học.

Do vậy, sựtranh luận giữa giải thích và diễn giải đều ởtrên lĩnh vực đó, lĩnh vực ngôn ngữ.

Hướng tới khái niệm diễn giải mới

Bây giờchúng ta hãy xem xét thái độkhác đối diện với văn bản mà ta gọi là sựdiễn giải. Trước tiên chúng ta đối chứng với khái niệm giải thích đểđưa ra khái niệm diễn giải, theo cách làm của Dilthey. Tuy nhiên, nhưchúng ta sẽthấy ởnhững phần tiếp theo, từng bước chúng ta đến với mối quan hệbổsung và tương tác chặt chẽhơn giữa giải thích và diễn giải.

Một lần nữa, chúng ta hãy xuất phát từsựđọc. Chúng ta từng nói có hai phương thức đọc dành cho chúng ta. Thông qua việc đọc, chúng ta kéo dài và làm gia tăng sựbấp bênh liên quan đến sựthông báo của văn bản dành cho thếgiới bên ngoài và của chủthểnói dành cho công chúng đọc.Đây là thái độgiải thích. Nhưng chúng ta cũng có thểcắt đứt sựbấp bênh này và làm cho văn bản được trọn vẹn trong lời nói thật sự. Thái độthứhai này là mục đích chính của sựđọc. Điều này cho thấy bản tính đích thực của sựbấp bênh, cái phẩm chất làmcho văn bản vận động hướng tới nghĩa. Ngay cảphương thức đọc thứhai này cũng không có được nếu nó không cho thấy, trước hết, văn bản nhưlà cái được viết ra, nó chờđược đọc và mời gọi đọc. Có được sựđọc là vì văn bản không khép lại mà là mởra sựviệckhác. Đọc có nghĩa là kết nối sựbiểu lộmới với sựbiểu lộcủa văn bản. Sựkết nối của sựbiểu lộnào đó với một sựbiểu lộkhác thểhiện trong kết cấu văn bản vềcái khảnăng bắt đầu lại mang tính nguyên khởi, là tính chất mởcủa văn bản. Sựdiễn giải văn bản là kết quảcụthểcủa sựkết nối và bắt đầu này.

Thoạt đầu chúng tôi có ý nghĩ rằng cần phải tạo ra khái niệm svn dng đối lập với khái niệm gii thích. Thao tác này không đẩy chúng tôi ra khỏi Dilthey một cách đáng kể, ngoại trừcái bối cảnh là khái niệm giải thích đứng đối diện đã vững vàng, vì nó xuất xứtừngôn ngữhọc và ký hiệu học thay vì được chúng tôi lấy từcác khoa học tựnhiên.

Trong ý nghĩa nguyên khởi này thì sựdiễn giải giữlại tính chất chiếm hu mà Schleiermacher, Dilthey và Bultmann đã nhận ra. Thực ra, chúng tôi không rời bỏý nghĩa này, mà chỉlàm cho nó trởnên gián tiếp nhờsựgiải thích thay vì chúng tôi đối chứng với nó một cách ngây thơ, trực tiếp. Tôi hiểu sựchiếm hữu là sựdiễn giải văn bản đến cùng, đạt tới đỉnh điểm trong sựdiễn giải chính mình của một chủthểnào đó, người mà qua sựdiễn giải văn bản càng hiểu hơn, hiểu khác đi hoặc mới bắt đầu hiểu chính bản thân. Sựhoàn hảo trong việc hiểu chính bản thân thông qua sựhiểu văn bản là đặc trưng cho loại triết học ngẫm nghĩ mà tôi gọi là tưduy cụthểtrong những trường hợp khác nhau. Tường giải học và triết học ngẫm nghĩ, bằng cách này, đã bổsung lẫn nhau. Một mặt, việc hiểu bản thân xẩy ra với người né tránh sựhiểu các kí hiệu văn hoá thông báo làm hình thành cái tôi, mặt khác, sựhiểu văn bản không phải là sựkết thúc chính nó (văn bản), mà đó là sựchuyển tiếp mối quan hệcủa chủthểđến với cái tôi, người không tìm thấy ý nghĩa của đời sống trong giới hạn của tưduy tựphát. Tức là bên cạnh những điều kiện nhưnhau, chúng ta cần phải nói rằng không có sựchuyển tiếp các dấu hiệu nghĩ ngợi và các tác phẩm thì sựgiải thích văn bản cũng không là cái gì cả, nếu nó không bắt rễvào quá trình tựhiểu bản thân nhưlà yếu tốquá độ. Nói một cách ngắn gọn, trong nghiền ngẫm tường giải học - hoặc trong tường giải học ngẫm nghĩ - thì sựthiết lập của cái tôi và của ý nghĩa là một.

Tôi xin nhấn mạnh hai đặc điểm nữa khi nói đến khái niệm chiếm hu. Một trong những mục đích cuối cùng của mọi loại tường giải học là tiếp tục sựtranh đấu chống lại khoảng cách văn hoá. Chỉcó thểnắm bắt được cuộc tranh đấu này bằng những khái niệm thời gian nhưlà cuộc chiến chống lại sựrời xa thếkỷ,hoặc nói một cách tường giải học hơn nhưlà cuộc chiến của ý nghĩa và hệthống giá trịchống lại sựrời xa của cái mà ởđó văn bản được thiết lập. Trong ý nghĩa này thì văn bản “đưa đến gần hơn”, “làm cho cân bằng”, “giống với người đương thời và trởthành người đương thời”. Điều đó có nghĩa là văn bản làm thay đổi cái lúc đầu còn xa l trởthành shu, ca riêng.

Phân tích sựdiễn giải nhưlà sựchiếm hữu, chủyếu chúng tôi muốn nhấn mạnh “thời gian tính”: sựđọc giống nhưsựtrình diễn bảng tổng phổâm nhạc; nó đánh dấu việc thực hiện những khảnăng ngữnghĩa của văn bản và sựcó mặt của nó. Đặc điểm sau cùng là quan trọng nhất bởi vì điều kiện của cảhai đặc điểm khác là: chiến thắng khoảng cách văn hoá và sựnhất thểhoá giữa văn bản và sựdiễn giải bản thân của người đọc. Trong thực tế, đặc điểm của việc thực hiện sựdiễn giải cho thấy diện mạo xác định của sựđọc, nghĩa là sựđọc làm cho sựthểhiện của văn bản trởnên trọn vẹn trong chiều kích giống với lời nói. Cái mà chúng tôi giữlại từkhái niệm lời nói không phải là lời nói được phát âm, nói ra, mà là cái sựkiện của sựthểhiện, đúng nhưBenveniste khẳng định. Các câu của văn bản thểhiện hic et nuce (ởđây, bây giờ- N. D). Nhưthế, cái văn bản đã được làm cho “cập nhật”, tìm đến môi trường và người nghe, lấy lại sựvận động thông báo của nó đã bịgiữlại và trì hoãn đểhướng tới thếgiới và các chủthểtiếp nhận. Thếgiới này là thếgiới của người đọc, và chủthểchính là người đọc. Trong sựdiễn giải, sựđọc trởnên giống lời nói. Tôi không nói là nó trởthành lời nói, bởi vì không bao giờsựđọc đạt tới bằng việc thay đổi từngữbằng sựđối thoại, nhưngsựđọc thật sựđạt tới độđỉnh điểm trong hành vi quan hệvới văn bản giống nhưlời nói với ngôn ngữ; nó là sựkiện, cái sựkiện của diễn ngôn.

Văn bản đã có ý nghĩa là những mối quan hệbên trong, cấu trúc của nó; chỉbây giờnó mới có nghĩa, và sựthực hiện nghĩa này có trong lời nói riêng của chủthểđọc. Thông qua ý nghĩa, văn bản chỉcó trước chiều kích ký hiệu học, và giờđây thông qua nghĩa của nó, văn bản có được sựmởmang ngữnghĩa.

Chúng ta hãy dừng lại ởđây. Chúng tôi đã đạt tới điểm nhạy cảm của các lập luận, nơi sựdiễn giải được hiểu nhưlà sựchiếm hữu trong ý nghĩa của phân tích cấu trúc, nó còn nằm ngoài sựgiải thích. Ởnhững phần tiếp sau đây, chúng tôi sẽđối chứng sgiithích với sdin gii nhưlà hai thái độ; phải có sựlựa chọn rõ ràng giữa hai thái độđó.

Tôi những muốn vượt lên mâu thuẫn tương phản và làm nổi bật sựchia tách làm cho sựphân tích cấu trúc và tường giải học bổsung lẫn nhau.

Chính vì vậy, tôi cần phải cho thấy rằng cảhai thái độđối đầu nhau này dựa vào nhau nhưthếnào thông qua những đặc điểm riêng.

Chúng ta lấy lại những ví dụcủa phân tích cấu trúc từlý thuyết thần thoại và truyện kể. Chúng tôi đã cốgắng gắn bó bản thân với khái niệm ý nghĩa phù hợp với sựsắp xếp các yếu tốsáng tạo nên văn bản nào đó một cách nghiêm túc, theo nhưcách hành động và các phân đoạn của người hành động hoà hợp với toàn bộtruyện kểđược xem là khép kín ởchính nó. Thực ra không ai dừng lại ởquan niệm hình thức đến mức đó vềý nghĩa truyện kểhay thần thoại. Ví dụ, cái mà Lévi Strauss gọi là mitema, và cái mà trong mắt ông có nghĩa là đơn vịxây dựng nên thần thoại, nó được thểhiện trong câu mang nghĩa riêng: Oidipusz giết cha, Œdipe lấy mẹlàm vợv. v. . . Chúng ta có thểnói rằng giải thích cấu trúc đã làm trung tính hoá ý nghĩa thực của các câu, rằng nó chỉgiữlại vịtrí đã có của chúng trong thần thoại? Tuy nhiên, cái gói quan hệmà Lévi Strauss đưa mitéma trởlại, vẫn còn thuộc vềbình diện câu và nghĩa; và cái trò chơi đối chứng xuất hiện ởbình diện rất trừu tượng này vẫn còn thuộc vềphạm vi của câu và nghĩa. Nếu chúng ta nói về“họhàng huyết thống” đã được đánh giá quá cao hoặc quá coi thường, vềtính bản địa hay không phải tính bản địa của con người, thìnhững mối quan hệnày vẫn còn có thểmô tảtrong hình thức của câu: tính huyết thống ởtrên tất cả, nhưng lại thấp hơn mối quan hệxã hội, ví dụtrong việc nghiêm cấm sựloạn luân v. v. . . Rốt cuộc, cái mâu thuẫn mà theo Lévi Strauss, thần thoại có vẻgiải quyết được, chính nó cũng thểhiện trong các mối quan hệthông báo nhưtác giảbuộc phải thừa nhận, khi ông viết: “Nguyên nhân của những sựlựa chọn này lộdiện, nếu chúng ta thừa nhận rằng tưduy thần thoại bắt nguồn từsựnhận biết những mâu thuẫn nhất định và nó cốgắng đạt tới sựhoá giải hài hoà những mâu thuẫn đó. ” (tr. 248). Ông còn viết: “Thần thoại là công cụlô gíchcó năng lực đối với sựchuyển tiếp giữa cuộc sống và cái chết”. (tr. 243). Phía sau thần thoại là câu hỏi có ý nghĩa, liên quan đến cuộc sống và cái chết. “Chúng ta sinh ra từmột hay hai nơi?” “Con người sinh ra từmột nơi hay từnơi khác?” Vềcơbản, vẫn là câu hỏi của sựlo âu ởtrên cảsựxuất xứcủa con người: Con người từđâu đến? Con người sinh ra từđất hay từbốmẹ? Cũng không có mẫu thuẫn, kểcảthểnghiệm hướng tới giải pháp cho câu hỏi đó, nếu không có những câu hỏi, những câu nói có ý nghĩa vềnguồn gốc và cái chết của con người. Chúng tôi cũng đã muốn cho vào ngoặc đơn cái chức năng của thần thoại nhưlà chức năng truyệnkểvềnguồn gốc con người. Phân tích cấu trúc không tránh được chức năng này, nó chỉđẩy ra xa hơn. Thần thoại không phải là bất kì cái gì, mà là người thực hiện lô gíchgiữa các câu hướng đến tình thếgiáp ranh, đến nguồn gốc và cuối cùng là đến cái chết,sựchịu đựng và hoạt động tình dục. Phân tích cấu trúc, chẳng những không làm cạn kiệt những câu hỏi chiều sâu mà còn làm việc đó ởmức sâu sắc hơn. Vậy phải chăng vai trò của phân tích cấu trúc là bác bỏcái ngữnghĩa bềmặt nào đó của thần thoại đã kểđểlàm nổi lên cái ngữnghĩa sâu xa nào đó, cái ngữnghĩa sống của thần thoại? Tôi muốn tin rằng nếu đấy không phải là chức năng của phân tích cấu trúc thì tôi đã giới hạn ởtrò chơi vô bổ, ởcái tổhợp buồn cười; và tôi tước đoạt thần thoại khỏi cái chức năng mà Lévi Strauss cũng thừa nhận, khi ông công bốrằng tưduy thần thoại toát lên từý thức của những mâu thuẫn nhất định và nó cốgắng có giải pháp đi trước cho những mâu thuẫn đó. Sựý thức này là ý thức vềsựtồn tại, nơi tưduy thần thoại quay quanh.Loại bỏý định có ý nghĩa này có nghĩa là chúng ta giới hạn lý thuyết thần thoại ởlời cáo phó của diễn ngôn vô vịcủa nhân loại. Nếu ngược lại, chúng ta xem phân tích cấu trúc là giai đoạn cần thiết nào đó giữa những sựdiễn giải ngây thơvà phê phán, hời hợt và sâu sắc, thì lúc đó sựgiải thích và diễn giải có thểcó sựchuyển dịch trởlại duy nhất, phụthuộc vào tường gii hc; và chúng ta hội tụthái độmâu thuẫn của gii thích và hiu vào sựđọc nhưlà hội nhập vào khái niệm chinh phục lại ý nghĩa.

Nếu ởđiểm này chúng ta quay vềvới thành viên thứhai của cặp đối lập khởi đầu thì tức là chúng ta có thểđi được một bước nhiều hơn theo hướng hoà hợp giữa giải thích và diễn giải. Cho đến lúc này, chúng tôi đã làm việc bằng khái niệm diễn giải, một khái niệm rất mang tính chủquan. Chúng tôi nói, diễn giải có nghĩa là sựchiếm hữu hic et nunc (ởđây bây giờ) của ý đồvăn bản. Với nhận định này, chúng tôi đã ởlại trong vùng “sựhiểu” của Dilthey. Nhưng điều mà vừa rồi chúng tôi khẳng định vềngữnghĩa sâu xa của văn bản, vềcái ngữnghĩa mà sựphân tích cấu trúc nhắc đến, nó lưu ý chúng tôi hiểu rằng ý định hay mục đích của văn bản, trước hết không phải là ý đồgiảthiết của tác giả, không phải là cái mà nhà văn đã sống trải hoặc là nơi mà chúng ta có thểchuyển dịch vào, mà là cái văn bản muốn, cái mà văn bản muốn nói cho người tuân lệnh nó. Văn bản muốn chúng ta chuyển dịch vào ý nghĩa của nó, theo nội dung khác của từý nghĩa, vào cái hướng đồng nhất với nó. Nếu ý định là ý định của văn bản và ý định này là hướng mà nó mởcho tưduy, thì lúc đó chúng ta, vềcơbản, cần phải hiểu cái ngữnghĩa sâu xa một cách năng động. Vậy tôi nói rằng: Gii thích nghĩa là chúng ta gii phóng cu trúc, tc là các mi quan hphthuc bên trong to nên stĩnh ti ca văn bn; còn din gii có nghĩa là chúng ta la chn con đường suy tưđngca văn bn, chúng ta lên đường vnơi mà văn bn hướng ti. (N. D nhấn mạnh). Nhận định này lưu ý chúng ta phải sửa đổi khái niệm diễn giải khởi thuỷcủa mình, phải tìm kiếm ởhoạt động chủquan của sựdiễn giải nhưlà tìm kiếm hoạt động diễn giải khách quan vềvăn bản, nó là hoạt động của văn bản.

Ví dụsau đây tôi lấy từbài viết của mình vềsựchú giải câu chuyện Đấng sáng tạo. (Sách Sáng thếI - II, 4a): qua đó, sựchú giải nêu lên trò chơi của hai câu chuyện bên trong văn bản, một Tatberich mà trong đó sựsáng tạo được thểhiện nhưlà hành động kểchuyện: “Đức Chúa trời sáng tạo nên. . . và một Wortberich là lời nói kểchuyện: “Đức Chúa trời phán rằng. . . ” Chúng ta có thểnói rằng câu chuyện đầu tiên thực hiện vai trò truyền thống, câu chuyện thứhai thểhiện vai trò của sựdiễn giải. Trong trường hợp này điều đáng chú ý là sựdiễn giải trước khi là hoạt động chú giải thì đã là hoạt động của văn bản: mối quan hệcủa truyền thống và sựdiễn giải làmi quan hnm trong văn bn. Sựdiễn giải đối với sựchú giải có nghĩa là sựchuyển dịch được định hướng nhờmối quan hệdiễn giải mà văn bản có được.

Nhưchúngta đã thấy, trong khái niệm sựdiễn giải khách quan nằm trong văn bản trên đây không có gì là lạlẫm. Thậm chí, nó cũ đến mức xứng đáng cạnh tranh với khái niệm chủquan vềsựdiễn giải mà nhưchúng ta biết, nó liên hệvới vấn đềhiểu cái khác thông qua những ký hiệu nói vềđời sống ý thức riêng của cái khác đó. Vềphần mình, tôi liên hệmột cách quảquyết khái niệm diễn giải mới này với khái niệm Vsdin gii, cũng là tựa đềcủa một công trình của Aristole. Hermenetia của Aristole - khác với kỹthuật chú giải học của những thầy bói và những người diễn giải sấm truyền - bản thân nó là hoạt động của ngôn ngữđược thực hiện bằng các sựviệc. Diễn giải đối với Aristole không phải là cái mà chúng ta thực hiện ởmột ngôn ngữthứhai trong sựliên đới đầu tiên, mà là cái mà ngôn ngữđầu tiên thực hiện trong khi nó chuyển tiếp mối quan hệcủa chúng ta đối với các sựviệc thông qua các ký hiệu. Tức là sựdiễn giải, theo ý nghĩa của lời bình luận của Boethius, chính là tác phẩm củavox significativa per se ipsam aliquid significans, sive complexa, sive incomplexa. Nhưvậy, tên, động từ, diễn ngôn là cái diễn giải ởmức mà nó có nghĩa.

Đúng là sựdiễn giải theo quan niệm của Aristole không chuẩn bịcho việc hiểu mối quan hệnăng động giữa nhiều bình diện nghĩa của văn bản. Trong thực tế, ông đặt điều kiện tiên quyết vềlý thuyết lời nói chứkhông phải lý thuyết văn bản:. . . “Những gì vang lên trong lời nói là những dấu hiệu của nội dung tâm hồn, còn những điều mà chúng ta mô tảlà dấu hiệu của những gì đã vang lên trong lời nói” [3]. Chính vì thếmà sựdiễn giải bịhoà lẫn với chiều kích ngữnghĩa của lời nói: sựdiễn giải chính là diễn ngôn, hoàn toàn là diễn ngôn. Do đó, tôi giữlại ý nghĩ có từAristole, rng sdin gii là sdin gii trên ngôn ngtrước khi nó là sdin gii vngôn ng. (N. D nhấn mạnh).

Tôi tìm ởCharles Sanders Peirce khái niệm diễn giải gần hơn với cái mà sựchú giải làm cho nó trởnên cần thiết, nó làm cho sựdiễn giải liên quan với truyền thống ởbên trong văn bản. Theo Pierce, mối quan hệcủa ký hiệu đối với sựvật giống nhưmột mối quan hệkhác, mối quan hệcủa người diễn giải đối với ký hiệu, và nó có thểquan hệvới cái trước đó. Đối với chúng tôi, điều quan trọng là mối quan hệcủa ký hiệu đến người diễn giải là mối quan hệmở, trong ý nghĩa là luôn luôn có người diễn giải khác, thích hợp cho việc chuyển tiếp mối quan hệđầu tiên. Giống nhưG. G. Granger trong tác phẩm Tiu lun vtriết hc phong cách được xác lập một cách rất chính xác rằng: “Người diễn giải xuất hiện trong tâm hồn chúng ta thông qua ký hiệu không thểlà kết quảcủa sựsuy diễn vô điều kiện cái lấy khỏi ký hiệu điều gì đó mà lẽra nó đã chứa đựng. Diễn giải là sựbình luận, định nghĩa, giải thích ký hiệu trong mối quan hệvới đối tượng. Bản thân nó cũng là sựthểhiện tượng trưng. Chỉcó đặc điểm chung ít nhiều không hoàn thiện của kinh nghiệm người nói và người tiếp nhậnlà làm cho sựliên kết ký hiệu - người diễn giải trởthành có thể, dù nó phải thực hiện thông qua quá trình tâm lý nhưthếnào đi nữa. . . Kinh nghiệm luôn luôn là cái không giới hạn hoàn toàn vào ý nghĩa của ký hiệu hoặc vào đối tượng mà chúng tôi đã nóilà cấu trúc. Từđây xuất hiện tính không xác định của “dòng diễn giải” kiểu Peirce.

Chắc chắn chúng ta cần phải vận dụng một cách thận trọng khái niệm người din gii của Peirce đối với sựdiễn giải các văn bản. Người diễn giải của Peirce diễn giải các kýhiệu, trong khi các nhà diễn giải của chúng ta diễn giải những điều thổlộ. Tuy nhiên, sựvận dụng sựdiễn giải chuyển từcác đơn vịnhỏđến các đơn vịlớn ít nhiều cũng không giống với việc chuyển sang các đơn vịcó đẳng cấp ngang bằng hoặc cao hơn ởcácnhà cấu trúc. Kết cấu âm vịhọc của ngôn ngữởchủnghĩa cấu trúc nhưlà mô hình mã hoá phục vụcho các cấu trúc biểu hiện ởmức cao hơn. Trong trường hợp của chúng tôi thì đặc điểm của các đơn vịtừvựng được chuyển sang bình diện của những điều thổlộvà các văn bản. Nếu chúng ta hoàn toàn có ý thức vềtính chất tương đồng của sựtiếp biến thì chúng ta có thểnói rằng sựdiễn giải là mở, nó được xây dựng trên mối quan hệgiữa ký hiệu và đối tượng, đưa mối quan hệcủa bộba đối tượng - ký hiệu - người diễn giải đến với sựthểhiện. Và đây có thểlà mô hình cho một bộba khác được xây dựng trên bình diện văn bản: văn bản chính là đối tượng, ký hiệu, và cái ngữnghĩa được giải phóng bởi phân tích cấu trúc; còn những người diễn giải là do cộng đồng diễn giải tạo nên, là những sựdiễn giải gắn liền với tính năng động của văn bản, nhưlà công việc liên quan đến ý nghĩa của văn bản. Những diễn giải đầu tiên của loạt diễn giải này tạo nên truyền thống cho những diễn giải đến sau, chúng tạo nên sựdiễn giải đích thực.

Nhờđược chuẩn bịbằng khái niệm sựdiễn giải của Aristole và cơbản là khái niệm diễn giải kiểu Peirce, chúng tôi có khảnăng đưa khái niệm diễn giải của mình ra khỏi tâm lý học, - trong khảnăng có thể- đểcho nó quan hệvới sựviệc đang diễn ra trong văn bản. Sựdiễn giải từđây đối với sựchú giải có nghĩa là nó chuyển dịch vào hướng mối quan hệdiễn giải của văn bản.

Chúng tôi vẫn chưa loại bỏý nghĩ vềsựdiễn giải được hiểu nhưlà sựchiếm hữu, mà chỉđưa nó sang khái niệm quá trình. Sựdiễn giải chuyển dịch ởranh giới bên ngoài, cái mà ởtrên chúng tôi gọi là vòng tường phải học, nó tạo nên cái trụcuối cùng của chiếc cầu, sựbám chặt vào lòng đất có thực của vòm đỡ. Tuy nhiên, toàn bộlý luận của tường giải học nằm trong sựchuyển tiếp sựchiếm hữu thông qua hàng loạt diễn giải thuộc vềhoạt động hướng tới chính nó của văn bản. Tức là sựchiếm hữu mất đi tính chuyên chếmột khi đó là sựkhởi đầu lại của cái đang hoạt động, đang làm việc, tức là sựsinh thành của nghĩa trong văn bản. Lời tường giải giống nhưnói lại, làm cho lời của văn bản trởnên mới mẻ.

Cuối bài viết chúng tôi mới thấy rằng sựđọc là hoạt động thật sựmà ởđó sốphận của văn bản được hình thành trọn vẹn. Chính ngay ởtrung tâm sựđọc có sựđối diện và hoà hợp đến vô cùng giữa giải thích và diễn giải.

 

Trương Đăng Dung dịch

từbản tiếng Hungary: Paul Ricoeur, Nhng bài viết lý lun văn hc chn lc 
trong sách của Jeneyéva (Nhiều người dịch, Nxb. Osiris, Budapest, 1999)

 

 


[1] Wilhelm Dilthey: Xây dng thếgii lch strong các khoa hc tinh thn. (Erdély Ágnes dịch, Budapest, 1974, Nxb. Gondolat, trang 493).

[2] Wilhelm Dilthey: Sđd. trang 493.

[3] Aristole: Hermeneutika. Ronafalv Ödön dịch, Nxb. Kossuth, Budapest, 1994, trang 5-11. 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578803

Hôm nay

210

Hôm qua

2318

Tuần này

22002

Tháng này

225860

Tháng qua

130677

Tất cả

114578803