1. Tại sao Phần Lan phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế?
Do tác động của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu (2009 – 2015), mô hình tăng trưởng kinh tế của Phần Lan đã tỏ ra không còn phù hợp, nghĩa là không còn khả năng duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Các cân đối vĩ mô (bao gồm cân đối cán cân vãng lai, cân đối ngân sách, cân đối tiết kiệm nội địa và đầu tư xã hội, dự trữ ngoại tệ quốc gia…) chưa vững chắc, nợ công, nợ nước ngoài có xu hướng gia tăng, bất ổn kinh tế vĩ mô ngày càng cao, dư địa tăng trưởng theo theo chiều rộng đang bị thu hẹp dần, thậm chí có yếu tố đã tận khai, nhưng động lực cho tăng trưởng theo chiều sâu (hiệu quả sử dụng nguồn lực, năng suất lao động, năng suất tổng hợp) lại không tăng, không được cải thiện để bù đắp sự suy giảm, bản thân nền kinh tế tự nó không còn khả năng đạt mức tăng trưởng cao như trước cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu (2009 về trước), vì vậy việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế đã trở nên hết sức cấp bách[2].
2. Những mô hình tăng trưởng kinh tế trên thế giới
Cho đến nay, trên thế giới đã có nhiều mô hình tăng trưởng kinh tế. Các mô hình tăng trưởng kinh tế đều hướng tới lý giải nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Để từ đó các nhà hoạch định chính sách chọn lựa mô hình tăng trưởng kinh tế cho phù hợp. Cụ thể như: (1) Mô hình tăng trưởng của Adam Smith. Trong học thuyết về “giá trị lao động”, Adam Smmith cho rằng nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế là lao động, vốn, đất đai, trong đó lao động (chứ không phải đất đai, tiền bạc) được coi là nguồn gốc tạo ra mọi mọi của cải, là nguồn cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Từ đó, cần phải đề cao phân công lao động, chuyên môn hóa lao động. Đó là cơ sở để tăng năng suất lao động, tăng sản lượng; (2) Mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào tài nguyên của David Ricacdo. Ông cũng cho rằng đất đai, lao động, vốn là những yếu tố cơ bản để tăng trưởng kinh tế, nhưng yếu tố quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế là đất đai, đất đai chính là giới hạn của tăng trưởng; (3) Mô hình tăng trưởng kinh tế của John Mayard Keynes. Trong tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ (1936)”, ông cho rằng: chính nhu cầu (cầu đầu tư và cầu tiêu dùng), chứ không phải là cung, là nhân tố quan trọng quyết định sản lượng, và do đó quyết định tăng trưởng. Ông nêu rõ vai trò của chính phủ, thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô ( chính sách tài chính và tiền tệ) đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế; (4) Mô hình tăng trưởng của Robert Solow. Nếu như mô hình của Harrod – Domar chỉ xét đến vai trò của vốn sản xuất (thông qua tiết kiệm và đầu tư) đối với tăng trưởng, thì mô hình của R.Solow đã đưa thêm nhân tố lao động và công nghệ vào phương trình tăng trưởng. Ông đã khẳng định rằng tiến bộ kỹ thuật là yếu tố quyết định đến tăng trưởng, cả ngắn hạn và dài hạn[3]; (5) Mô hình tăng trưởng kinh tế của Kaldor và Sung Sang Park rất phù hợp với bối cảnh hiện đại, vì theo mô hình này, tăng trưởng kinh tế dựa vào tiến bộ khoa học kỹ thuật và nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nguồn nhân lực chất lượng cao bao hàm trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, tính kỷ luật cao và có sức khỏe tốt. Máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất cao cấp hay phần mềm tiên tiến… chỉ có thể phát huy hiệu quả tối đa nếu được sử dụng bởi nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì thế, đây là mô hình tăng trưởng kinh tế phù cho các nước trên thế giới, trong đó có Thụy Điển. Tuy nhiên, để đạt được tăng trưởng kinh tế, theo các nhà kinh tế học hiện đại, cần thiết phải có đủ 4 nhân tố cơ bản của nền kinh tế là lao động, tài nguyên, vốn, công nghệ. Ngoài ra, để các nhân tố này phối hợp được với nhau một cách hiệu quả, cần thiết phải có thể chế để đảm bảo cho những sáng chế, phát minh được bảo vệ và trả công một cách xứng đáng[4]. Những cơ sở lý thuyết của các mô hình tăng trưởng kinh tế trên thế giới kể trên vẫn là căn cứ, chỗ dựa vững chắc để Phần Lan điều chỉnh, chuyển đổi mô hình tăng trưởng sau cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu.
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu (2008), và cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu (2009), quá trình tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế trên thế giới (trong đó có Thụy Điển) có những đặc trưng chủ yếu sau đây: (i) Chuyển đổi tư duy phát triển từ chú trọng tốc độ tăng trưởng kinh tế sang tăng trưởng kinh tế bền vững và toàn diện, (ii) Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở cấp quốc gia, trong đó có ưu tiên các mô hình kinh tế mang tính bền vững và thân thiện với môi trường, ví dụ như kinh tế xanh, các chính sách kinh tế gắn liền với an sinh xã hội và tạo việc làm, (iii) Chuyển dịch các mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị với sự nổi lên của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, (iv) Tăng cường các hình thức liên kết quốc tế và khu vực, chú trọng yếu tố kết nối giữa các nền kinh tế[5].
3. Tác động của cuộc khủng hoảng nợ công đến mô hình tăng trưởng kinh tế của Phần Lan
3.1. Khái quát mô hình tăng trường kinh tế Phần Lan
Phần Lan có dân số khoảng 5,3 triệu người, cùng với bốn nước Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan với dân số khoảng 25 triệu người đã và đang xây dựng mô hình nhà nước phúc lợi Bắc Âu với những đặc điểm chủ yếu như sau:
- Về kinh tế, xây dựng một nền kinh tế thị trường xã hội hỗn hợp, pha trộn giữa sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Chế độ phân phối kết hợp giữa phân phối theo lao động và phân phối theo vốn, phương thức vận hành kinh tế kết hợp giữa nhà nước điều tiết vĩ mô với phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường.
- Về chính trị, xây dựng theo chế độ dân chủ xã hội
- Về xã hội, xây dựng nhà nước phúc lợi được đặc trưng bởi nguyên tắc bình đẳng, phổ quát.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1945), Phần Lan đã tập trung xây dựng đất nước trở thành nền kinh tế công nghiệp phát triển hiện đại, có sức cạnh tranh cao, có tiềm năng phát triển hàng đầu trên thế giới. Với GDP bình quân đầu người ngang bằng với các nước phát triển ở châu Âu: Anh, Pháp, Đức, Thụy Điển, Italia, ... Cơ cấu kinh tế được phân bổ theo hướng hiện đại, nông nghiệp chiếm 2,9% GDP, công nghiệp chiếm 30,0% và dịch vụ chiếm 68,1% (2010). Công nghiệp Phần Lan gồm có các ngành kinh tế chính như: công nghiệp chế tạo gỗ, chế tạo cơ khí, kim loại, đóng tàu, vận tải, điện tử, hóa chất, viễn thông, dược phẩm, ... Nông nghiệp: Phần Lan có 2,504 ngàn héc ta đất trồng trọt chiếm 85% diện tích, tự túc được 85% lương thực. Dịch vụ là lĩnh vực chiếm tỉ trọng lớn nhất trong nền kinh tế (gần 70%), bao gồm các ngành như tài chính, ngân hàng, giao thông, viễn thông, du lịch, ... Thương mại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Kinh tế Phần Lan có độ mở lớn xuất khẩu chiếm hơn 50% GDP. Phần Lan sớm đi đầu trong nghiên cứu, ứng dụng, sử dụng công nghệ xanh, sạch, tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái sinh. Hiện nay, Phần Lan đang có xu hướng tăng cường một số nhà máy điện hạt nhân do vấn đề môi trường và tìm năng lượng thay thế. Phần Lan đứng hàng đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, về hệ thống giáo dục có chất lượng cao. Ở Phần Lan, rừng chiếm 2/3 diện tích vì vậy các sản phẩm gỗ chiếm 45% số ngoại tệ thu được. Điện thoại di động Nokia, tính đến trước năm khủng hoảng 2008-2009 chiếm tỷ trọng đáng kể trong doanh thu của nền kinh tế Phần Lan. Phần Lan do có biên giới chung và quan hệ truyền thống lâu đời hữu nghị với Nga, nên Phần Lan đã thu được hiệu quả lớn trong quan hệ kinh tế với nước Nga. Tuy vậy, nền kinh tế Phần Lan trong những năm gần đây, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu (2008), và cuộc khoảng nợ công châu Âu (2009) đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng theo hướng bất ổn. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (GDP) dao động thất thường, bị suy giảm nghiêm trọng, tỷ lệ thất nghiệp cao, thâm hụt ngân sách vượt quá mức cho phép, các chỉ số kinh tế vĩ mô bị tụt giảm… Những ưu thế trong phát triển ở giai đoạn trước đến nay trở thành gánh nặng, gây hệ lụy lớn cho phát triển kinh tế. Vì bảo vệ môi trường, sử dụng công nghệ xanh, sạch nên công nghiệp gỗ bị suy giảm. Do không kịp thay đổi công nghệ số thông minh nên Nokia không còn phát huy hiệu quả kinh tế. Nga bị Mỹ và Phương Tây cấm vận nên Phần Lan đã bị ảnh hưởng nặng nề trong phát triển quan hệ kinh tế với Nga, ... Vì những lý do trên nên Phần Lan cần phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.
3.2. Tác động của cuộc khủng hoảng nợ công đến mô hình tăng trưởng kinh tế của Phần Lan
Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu nổ ra bắt đầu từ Hy Lạp (cuối năm 2008) với thâm hụt ngân sách đến 13,9% GDP và nợ công đến 236 tỷ EUR, chiếm 115% GDP (năm 2009). Sau đó, nó lan rộng sang các nước khác như Bồ Đào Nha, thâm hụt ngân sách 9,4% GDP (2009), nợ công 76,6% GDP (2009), Tây Ban Nha, thâm hụt ngân sách lên tới 11,2% (2009), Italia, nợ công 120,1% (2010), Anh thâm hụt ngân sách lên tới 12% GDP (2010)… Như thế, cuộc khủng hoảng nợ công như một trận cuồng phong đã tàn phá đến mọi quốc gia trong liên minh châu Âu (EU), từ những nước có nền kinh tế còn yếu kém như Nam Âu đến những nước giàu có ổn định như Bắc Âu và tới những nước có vai trò dẫn dắt tăng trưởng kinh tế của EU như Đức, Pháp, Anh, Italia. Như thế, cuộc khủng hoảng nợ công đã tác động đến tất cả các nước trong Liên minh châu Âu (EU), không từ bất kể nước nào, dù lớn hay nhỏ, dù trong hay ngoài khu vực Eurozone.
Các nước Bắc Âu nói chung, Phần Lan nói riêng, dã phải chịu nhiều rủi ro từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu. Là những nền kinh tế mở cửa, có quy mô nhỏ, các nước Bắc Âu nói chung, Phần Lan nói riêng đã được hưởng lợi mạnh mẽ từ tăng trưởng thương mại và đầu tư toàn cầu, do vậy, do bối cảnh thương mại và đầu tư quốc tế bị giảm mạnh từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế Bắc Âu nói chung, Phần Lan nói riêng đã chịu tác động nặng nề, tác động tới tăng trưởng GDP, thất nghiệp, ngân sách, các chỉ số kinh tế vĩ mô…
Trước hết, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã tác động đến tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Phần Lan. Từ nước có tỷ lệ tăng trưởng cao từ 4 – 7% trước khủng hoảng, nhưng do tác động của cuộc khủng hoảng, tỷ lệ tăng trưởng GDP của Phần Lan đã lên xuống thất thường, có năm đạt tỷ lệ ÂM -7,8% (2009), và đến nay vẫn liên tục bị suy thoái nặng nề, đạt mức tăng trưởng âm -1,2% (2012), -1,3% (2013), -0,5% (2014) và -0,2% (2015), dự báo năm 2016 là -1%.
Do động lực tăng trưởng kinh tế đất nước chủ yếu dựa vào xuất khẩu (xuất khẩu đóng góp hơn 50% tăng trưởng kinh tế), vì vậy tác động của cuộc khủng hoảng nợ công đã làm cho xuất khẩu của Phần Lan bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Phần Lan như máy móc, thiết bị điện tử, viễn thông, gỗ, giấy, dược phẩm, sắt, thép và thực phẩm đều bị ảnh hưởng giảm sút nghiêm trọng. Hơn 50% hàng hóa xuất khẩu của Phần Lan là vào thị trường nội khối EU. Do EU bị tác động của cuộc khủng hoảng nợ công, nên lượng hàng hóa vào EU đã bị ngưng trệ.
Do xuất khẩu giảm sút, nên tình trạng sản xuất cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Sản xuất bị đình đốn, đã dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Con số thất nghiệp của Phần Lan tuy thấp hơn so với con số bình quân của các nước trong liên minh châu Âu (10,9% năm 2013), nhưng vẫn đạt mức cao: 8,2% (2009), 10,0% (2010), 7,8% (2011), 9,5% (2014-2015).
Là nhà nước phúc lợi xã hội toàn dân dựa trên nguyên tắc: bình đẳng, phổ quát, ưu đãi cao đến mức hào phóng, bởi thế mức chi trả cho hệ thống an sinh xã hội của Phần Lan chiếm đến hơn 25% GDP. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đất nước thấp, chi trả cho an sinh xã hội cao, vì vậy Phần Lan luôn diễn ra tình trạng thường xuyên trong nhiều năm qua là thu không đủ chi. Hệ thống ASXH theo nguyên tắc ĐÓNG – HƯỞNG không diễn ra bình thường, đóng ít, hưởng nhiều đã gây ra mâu thuẫn lớn, lại đặt ra trong bối cảnh tác động của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, vì vậy an sinh xã hội Phần Lan đã là gánh nặng cho sự phát triển của đất nước.
Phần Lan là thành viên của khu vực đông tiền chung Eurozone vì vậy những chính sách tiền tệ trong khu vực đồng tiền chung vừa qua chưa linh hoạt, do ngân hàng hạ tỷ lệ lãi suất thấp để kích thích các doanh nghiệp vay tiền để phát triển sản xuất, nhưng sản xuất lại không xuất khẩu được, nên tỷ lệ nợ khó đòi lớn, thâm hụt ngân sách Phần Lan lớn, vượt mức quy định do châu Âu đề ra là thâm hụt ngân sách dưới 3% GDP và nợ công dưới 60% GDP. Kinh tế Phần Lan hiện nay đang rơi vào tình trạng: lạm phát thấp (dễ rơi vào tình trạng giảm phát), tiết kiệm lớn, đầu tư giảm, tăng trưởng thấp, thất nghiệp cao, sản xuất trì trệ. Vì vậy gần đây, cũng như các nước trong khu vực đồng tiền chung Châu Âu, Phần Lan đã đưa ra các gói kích thích kinh tế (nới lỏng định lượng QE) nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu điều đó không có sự kiểm soát chặt chẽ, cũng rất dễ dàng dẫn đến nguy cơ gây ra nợ công cao, nợ khó đòi lớn, làm gia tăng gánh nặng nợ công và thâm hụt ngân sách. Vấn đề kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của Phần Lan sau cuộc khủng hoảng nợ công vì vậy phải luôn được đặt ra một cách cấp bách.
4. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Phần Lan dưới tác động của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu hiện nay
Trong những năm gần đây, Phần Lan luôn đặt ra nhiệm vụ phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế nhằm cắt bỏ những khối u trong nền kinh tế, khắc phục những tác động xấu của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, nhằm tạo ra những bước tiến mới, đạt mục tiêu tăng tỷ lệ tăng trưởng GDP, giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định kinh tế vĩ mô, giữ tỷ lệ nợ công dưới 60% GDP và đảm bảo bội chi ngân sách dưới 3% GDP như Hiệp ước tăng trưởng ổn định của EU đã đặt ra.
Việc đầu tiên Phần Lan cần phải chuyển đổi“mô hình nhà nước phúc lợi xã hội hào phóng” sang “mô hình nhà nước đầu tư xã hội”. Nghĩa là trong mô hình mới này nhà nước phải sử dụng mô hình quản trị mới, với sự kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả, chống “hào phóng”, đưa quản trị kinh doanh của doanh nghiệp vào quản lý xã hội, hoạch toán chặt chẽ. Đó là, đảm bảo chi trả phúc lợi xã hội đúng đắn, hợp lý, không gây thất thoát cho ngân sách, có hiệu quả với đồng tiền thuế cao của người dân bỏ ra đóng góp. Bên cạnh đó, Phần Lan vẫn phát huy và đề cao hơn vai trò quan trọng của nhà nước trong các vấn đề phát triển bền vững như vấn đề bình đẳng giới, lồng ghép giới trong mọi dự án, công việc kinh tế đất nước. Phần Lan vẫn phải đi đầu thế giới trong việc đề cao “chủ nghĩa nữ quyền nhà nước” (State Familism). Người phụ nữ được tham gia vào mọi công việc kinh tế xã hội của đất nước. Vợ nghỉ đẻ, chồng được nghỉ từ 2 tháng (trước kia) lên 3 tháng (hiện nay) để chăm sóc vợ. Trong 3 trụ cột của hệ thống an sinh xã hội Phần Lan: (1) Bảo hiểm xã hội, (2) Phúc lợi xã hội và (3) Chính sách lao động tích cực, thì Phần Lan phải đi đầu thực hiện những nội dung cơ bản trong trụ cột thứ 3 - “chính sách lao động tích cực”. Nghĩa là Phần Lan đưa ra rất nhiều cải cách nhằm tạo công ăn việc làm cho người dân, đặc biệt cho nhóm dễ bị tổn thương như: người già, thanh niên, người tàn tật, người lao động nhập cư bằng các chính sách lao động tích cực như tạo điều kiện đào tạo lại,thực thi các hình thức làm việc mới nhằm giúp đỡ cho người lao động như: làm việc ngoài giờ, làm việc ở độ tuổi già, trợ giúp từ các quỹ xã hội bù vào tiền công làm việc của nhóm người này… Phần Lan đã phát huy hiệu quả tăng trưởng kinh tế với đảm bảo thị trường lao động nhân bản, phân phối thu nhập công bằng và đề cao cố kết xã hội. Hiện nay Phần Lan vẫn cố gắng thúc đẩy kết hợp thực hiện chế độ an sinh xã hội cao, có kiểm tra, kiểm soát, với sự linh hoạt (tích cực). Linh hoạt (tích cực) trong thị trường lao động, mở rộng hơn là sự linh hoạt trong đào tạo nguồn nhân lực. Phần Lan là nước có tỷ lệ học sinh đậu tú tài cao nhất thế giới, “vô địch” về mô hình “học tập suốt đời”. Trong cải cách giáo dục hiện nay, học sinh vẫn làm chủ việc học tập của họ, đề cao “học sinh là trung tâm”, các em học sinh được tham gia vào hầu hết các mặt của quá trình học tập từ việc lập kế hoạch, đánh giá và cả tiêu chuẩn của việc đánh giá. Nghĩa là học sinh làm chủ việc học tập của mình. Các tiêu chuẩn và chương trình học quốc gia có tính cách hướng dẫn hơn là chỉ thị áp đặt độc đoán. Các chiến lược giảng dạy theo chủ thuyết xây dựng kiến thức góp phần tăng quyền tự chủ cho học sinh. Nền giáo dục Phần Lan không buộc học sinh vâng lời một cách mù quáng, mệnh lệnh của người lớn, mà luôn khơi dậy tính tự giác chấp hành những tiêu chuẩn hành xử dân chủ mà chính học sinh đã tham gia thiết lập vì lợi ích chung và công bình của con người trong cộng đồng. Phần Lan đề cao sự rèn luyện tinh thần dân chủ và sự trao quyền hợp pháp cho học sinh, nhà trường luôn trang bị cho học sinh những hành trang để có khả năng lao động trong nền kinh tế toàn cầu[6]…
Trong vài năm gần đây, trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế về lĩnh vực giáo dục, Phần Lan đã đặt vấn đề và đã bắt đầu xây dựng “động cơ lợi nhuận trong nền giáo dục Phần Lan”, họ xây dựng hàng loạt các “trường học sinh lời”, đặt là “trường tri thức”. Từ con số nhỏ nhoi (năm 2000) đến nay đã có hàng chục trường phổ thông trung học. Đây là những công ty học đường lớn nhất Phần Lan, có chất lượng cao, nó được xây dựng trên nền tảng quan hệ đối tác công – tư trong thị trường lao động, góp phần đảm bảo sự phát triển kinh tế, thịnh vượng của khu vực tư nhân và lợi ích xã hội. Hiện nay, nó đang phát triển thành “mô hình Phần Lan mới”. Dựa trên quan hệ đối tác công – tư, liên quan đến cách thức phân phối lợi ích xã hội. Các khoản tài trợ của nhà nước bảo đảm quyền bình đẳng cho tất cả mọi người trong việc nhận được những dịch vụ như chăm sóc y tế, giáo dục,... đã phát huy tạo nguồn vốn mới từ khu vực tư nhân trên các loại hình khác như y tế, chăm sóc trẻ em, nhà mẫu giáo, chăm sóc người già… Hiện nay, xu thế già hóa dân số đang đe dọa nền kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế Phần Lan nói riêng. Dự báo từ năm 2010 đến 2050, tỷ lệ người già sống nhờ lương hưu và trợ cấp ở Phần Lan chiếm khoảng gần 70%, mặc dù chỉ có trên 12% số người trên 65 tuổi vẫn đi làm, nhưng Phần Lan vẫn là 1 trong 10 nước có tỷ lệ chi phí lương hưu cao vào loại bậc nhất thế giới, và cũng giống như Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan đã dành cho chi phí giáo dục, chăm sóc sức khỏe, cộng đồng đến trên 80%. Điều đó đòi hỏi Phần Lan phải tăng tích lũy, cải cách mạnh mẽ hệ thống an sinh xã hội, theo nguyên tắc “đóng – hưởng”, đảm bảo phúc lợi hiệu quả cho mọi người dân.
Trong quá trình chuyển đổi từ mô hình “nhà nước phúc lợi xã hội hào phóng” sang “mô hình nhà nước đầu tư xã hội”, đầu tiên Phần Lan đã tiến hành chuyển đổi “mô hình phát triển kinh tế trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo” nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ cải cách kinh tế đất nước. Những cải cách giáo dục của Phần Lan hiện nay đang thu hút được sự chú ý rất lớn trên thế giới. Phần Lan đang cải cách theo hướng xây dựng các môn học tích hợp nhằm gắn giáo dục với nghiên cứu và sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế, trong đó tập trung vào các lĩnh vực mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, ... Các cuộc điều tra vừa qua được tiến hành ở Phần Lan để đo sức cạnh tranh về kinh tế được dựa trên sự kết hợp về hiệu quả của nền giáo dục, áp dụng tiến bộ công nghệ, phát huy chất lượng các cơ sở công cộng và môi trường kinh tế vĩ mô...
Về lĩnh vực kinh tế, Phần Lan vốn có cơ cấu kinh tế 3 khu vực theo hướng hiện đại: dịch vụ chiếm 68,1% GDP, công nghiệp chiếm 30,0% và nông nghiệp chiếm 2,9 (2010). Tuy vậy, do tác động của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, nên hiệu quả kinh tế Phần Lan những năm vừa qua không cao. Do kinh tế có độ mở lớn nên Phần Lan có tỷ lệ xuất khẩu chiếm đến hơn 50% GDP, trong đó có hơn 50% thương mại với EU. Khi EU chịu tác động lớn của khủng hoảng nợ công, nên Phần Lan cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy, Phần Lan hiện nay đang nỗ lực tìm kiếm các thị trường mới nổi khác ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Myama và các thị trường khác như Argentina, Brazil, Chile, Mehico, và các nước ở châu Phi… để bổ sung sự thiếu hụt của thị trường nội khối EU. Phần Lan tiếp tục quan hệ thương mại với nước Nga, vẫn coi Nga là đối tác thương mại hàng đầu của mình. Vì vậy, Phần Lan luôn đề xuất quan điểm dỡ bỏ lệnh cấm vận của Mỹ và phương Tây đối với Nga.
Hiện nay, Phần Lan đang triển khai công tác nghiên cứu, ứng dụng, sử dụng công nghệ xanh, công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái sinh, đi đầu trong đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, vì vậy sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế đất nước cũng tập trung nhằm hướng vào những mục tiêu nhiệm vụ kể trên. Phần Lan thực hiện các kế hoạch giảm dần các ngành công nghiệp khai khóang, hóa chất, khai thác rừng… đã làm ô nhiễm môi trường để chuyển dần sang các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, đảm bảo xanh, sạch, có hàm lượng tri thức cao. Phần Lan và các nước Bắc Âu đã đi đầu thế giới trong đóng thuế môi trường đến 5,9% GDP (trong khi đó Pháp là 2,16% GDP). Đó là các loại thuế đánh từ nhiên liệu (xăng dầu, điện, khí đốt…) và thuế đánh vào khí thải CO2, thuế đánh vào các phương tiện giao thông (mua, sử dụng xe hơi), thuế ô nhiễm và khai thác tài nguyên thiên nhiên… Phần Lan đang tiến hành cải cách mạnh mẽ, sử dụng phổ biến thương mại điện tử trong kinh doanh, dùng máy móc thay thế cho con người trong các dịch vụ ở sân bay và các cơ sở dịch vụ công cộng khác. Phần Lan cũng đang mở rộng xây dựng trụ sở các công ty đa quốc gia của thế giới trên đất nước mình. Đồng thời tiếp tục hỗ trợ và đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của đất nước. Ra đời từ rất sớm, đến thập kỷ 1990 Nokia trở thành nhà sản xuất điện thoại di động hàng đầu thế giới đã góp phần đưa quy mô nền kinh tế Phần Lan tăng gấp 3 lần. Năm 2000, Nokia góp 4% GDP của đất nước và thu hút lực lượng lao động rất lớn. Tuy vậy, do chậm cải tiến kĩ thuật, không sử dụng công nghệ số thông minh trong sản xuất ứng dụng vì vậy Nokia đã bị đối thủ là Apple tung ra sản phẩm Iphone với hàng loạt các ứng dụng phần mềm hấp dẫn. Kết quả là giá trị vốn của Nokia đã bị thất thoát đến 75% trong cuộc cạnh tranh với Apple. Sau nhiều năm thua lỗ đến tháng 9 năm 2013, Nokia đã bị Microsoft mua lại với giá 7,5 tỷ USD. Bộ phận thiết bị và dịch vụ công ty Phần Lan đã chính thức trở thành một phần của Microsoft. Trước tình trạng đó, Nokia cần phải tái cấu trúc lại, tiến hành những cải cách, quản trị kinh doanh mới để tiếp tục tồn tại, giữ lại cấu phần sản phẩm mà thế giới vẫn ưa chuộng. Đến cuối năm 2013, thị phần của Nokia trên toàn cầu vẫn giữ ở mức 15% nhờ có một loạt các sản phẩm điện thoại “ngu”, giá rẻ. Và trên thị trường smartphone, thị phần của Nokia vẫn ở khoảng 5%[7].
Hiện nay, Phần Lan đang xây dựng mô hình kinh tế dựa trên sự đồng thuận cao và nhất quán trong dài hạn giữa chính trị gia, giới doanh nghiệp với công đoàn, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Trong đó, các doanh nghiệp làm việc với công đoàn để cân bằng lương bổng, đảm bảo việc làm cho người lao động. Còn chính phủ thực thi các chính sách trợ cấp xã hội hợp lý, kết hợp giữa phúc lợi xã hội hợp lý với quản lý, quản trị chặt chẽ. Trước đây, Phần Lan tập trung củng cố nền tài chính công vững mạnh, nhưng hiện nay họ thực hiện các gói kích thích kinh tế, nới lỏng định lượng (QE), dựa trên sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước.
Trước khủng hoảng, Phần Lan là đất nước “đánh thuế và chi tiêu” nghĩa là đánh thuế cao và chi tiêu công cao, cụ thể, chi tiêu công ở Phần Lan lên đến 67% GDP từ năm 1993 đến 2005. Hiện nay, Phần Lan đang thay đổi mô hình kinh tế theo hướng “nhà nước đầu tư xã hội”, nghĩa là nhà nước hạch toán đầu tư nghiêm ngặt các vấn đề xã hội. Cụ thể, từ năm 2006 đến 2014, chính phủ Phần Lan đã nỗ lực giảm chi tiêu công xuống mức 52% GDP. Và thuế cũng được cắt giảm mạnh, thuế suất doanh nghiệp giảm còn 22% (thấp hơn Mỹ nhiều)[8]. Tài chính công ở Phần Lan sẽ được tăng cường bằng biện pháp điều chỉnh doanh thu và chi phí trong suốt nhiệm kỳ của quốc hội đương nhiệm. Để đạt mục tiêu này, chính phủ Phần Lan đã áp dụng hàng loạt các biện pháp có tác động ngay vào việc giảm chi tiêu và tăng thu nhập. Các biện pháp này sẽ được thực hiện trong nhiều giai đoạn từ 2012 đến 2015 và dự trù sẽ mang lại khoảng 5,1 tỷ Euro ròng cho ngân sách chính quyền trung ương từ năm 2016 trở đi. Ngoài ra, chính phủ đã cam kết áp dụng thêm một số biện pháp điều chỉnh thu hẹp tỉ lệ nợ so với GDP và thu hẹp ngân sách sẽ lên trên 1% GDP. Với sự điều chỉnh chính sách hợp lý và kịp thời, chính phủ Phần Lan hy vọng sẽ đứng vững trong cơn bão tài chính đầy khó khăn và ổn định tăng trưởng kinh tế đất nước[9].
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm từ sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ thế giới (2008) và khủng hoảng nợ công châu Âu (2009), hàng loạt các vụ bê bối ngân hàng ở châu Âu đổ bể do quản trị ngân hàng yếu kém, do mất lòng tin của khách hàng và Phần Lan không phải là ngoại lệ. Vì vậy, Phần Lan quyết định tái cấu trúc hệ thống ngân hàng theo hướng cải cách quản trị kinh doanh, lấy lại niềm tin của khách hàng. Nghệ thuật kinh doanh của ngân hàng là thay vì cắt giảm chi phí bằng cách tập trung kinh doanh ở một số trụ sở lớn, thì cần tập trung phần lớn hoạt động kinh doanh ở các mạng lưới chi nhánh ở địa phương, các nước. Những nhà quản lý này không nhận tiền thưởng nếu các món nợ đó được đánh giá là nợ xấu. Ngân hàng chỉ đặt mục tiêu duy nhất là tạo ra lợi nhuân trên vốn chủ sở hữu cao hơn so với mức trung bình của các đối thủ cạnh tranh. Không nhân viên nào thực hiện các quyết định cho vay của ngân hàng được tính tiền thưởng bởi điều này có thể tạo ra rủi ro. Thay vào đó, ngân hàng sẽ chia 1/3 lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và phân chia bình đẳng cho các nhân viên. Số tiền này chủ yếu được dùng để đầu tư vào cổ phiếu ngân hàng và chỉ được nhận khi nhân viên bước sang tuổi 60.
Nói tóm lại, cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu (2008) và khủng hoảng nợ công châu Âu (2009) đã tác động mạnh mẽ và làm cho nền kinh tế Phần Lan bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy buộc Phần Lan phải có sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc lại nền kinh tế đất nước theo xu hướng: chuyển đổi mô hình “nhà nước phúc lợi hào phóng” sang “nhà nước đầu tư xã hội” với sự kiểm soát chặt chẽ, hạch toán kinh doanh của nhà nước đối với hệ thống phúc lợi xã hội. Phần Lan lấy “tăng trưởng xanh” làm trung tâm trong tái cơ cấu kinh tế, duy trì vị thế cạnh tranh của đất nước sau khủng hoảng. Phần Lan đầu tư nhiều tiền của trong các gói kích thích kinh tế để đầu tư cho các dự án năng lượng sạch, tăng thuế bảo hiểm môi trường, có kế hoạch giảm dần các ngành kinh tế công nghiệp khai khoáng, hóa chất, khai thác rừng… gây ô nhiễm môi trường sang các ngành có giá trị gia tăng cao, đảm bảo xanh sạch, có hàm lượng tri thức cao. Bên cạnh đó, Phần Lan đang tiến hành cải cách cơ cấu thị trường hàng hóa, đa dạng hóa các thị trường ở châu Á, Phi, Mỹ La tinh, cải cách mạnh mẽ thị trường lao động,nghiên cứu và phát triển, giáo dục và đào tạo. Phần Lan còn đẩy mạnh cải cách quản lý kinh tế vĩ mô, kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ một cách linh hoạt. Phần Lan đã tìm ra các giải pháp tốt nhất để đối phó với vấn đề già hóa dân số, vấn đề lao động việc làm, lao động nhập cư, những nhóm người yếu thế dễ bị tổn thương trong xã hội. Những cải cách đó của Phần Lan đã ít nhiều khắc phục những tác động nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng nợ công châu Âu đã gây ra cho đất nước Phần Lan.
Tài liệu tham khảo
1. Đinh Công Tuấn, “Mô hình phát triển Bắc Âu”, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, 2011.
2. Đinh Công Tuấn, “Liên minh châu Âu hai thập niên đầu thế kỉ XXI”, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 2011.
3. Đinh Công Tuấn, “Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến hệ thống ASXH các nước Bắc Âu”, Tạp chí Cộng sản điện tử, 2/57, 20/9/2012.
4. “Chuyển đổi mô hình kinh tế ở một số nước Bắc Âu dưới tác động của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu”, đề tài NAFOSTED năm 2014.
5. Ban Quan hệ Quốc tế VCCI, “Hồ sơ Phần Lan”.
6. Hoàng Thị Tư, “Kinh tế thế giới sau khủng hoảng, tình hình nợ công và tái cấu trúc nền kinh tế”, Vụ Kinh tế văn phòng Trung ương Đảng.
7. Nguyễn Thanh Đức, “Đổi mới mô hình tăng trưởng của Việt Nam – tiếp cận từ góc độ lý thuyết”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 6 (141) 2012.
8. Nguyễn Đình Cung, “Tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam”, http://www.mofahcm.gov.vn/
9. Đào Duy Hân, “Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam phù hợp với hội nhập quốc tế”, Tạp chí phát triển và hội nhập, số 5 (15) tháng 7, 8 (2012).
10. Vụ Tổng hợp kinh tế, Bộ Ngoại giao CHXHCNVN, “Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững ở Việt Nam”, http://www.mofahcm.vn/.
11. Lê Tự Hỷ, “Nền giáo dục Phần Lan tiên tiến nhất thế giới hiện nay”, http://tusach.thuvienkhoahoc.com
16. Ole Settergren, “Impact of the Financial an Economic Crisis on the Swedish Pension System”, Director of Research an Development, Swedish Pensions Agency, 2010.
17. Ministry of Employement and the Economy – “Demark: Labor market reform and Performance in Denmark, Germany, Sweden and Finland”, 2012.
18. European Council, “Europe 2020: a new European Strategy for Job and Growth”. Conclusion, 25/26 March 2010.
.......................................................................................................
[1]Đinh Công Tuấn, “Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến hệ thống ASXH các nước Bắc Âu”, Tạp chí Cộng sản điện tử, 2/57, 20/9/2012, http://www.tapchicong san.org.vnvà các số liệu do tác giả tự sưu tập.
[2] Nguyễn Đình Cung, “Tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam”, http://www.mofahcm.gov.vn/
[3] Đinh Công Tuấn, Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến hệ thống ASXH các nước Bắc Âu”, Tạp chí Cộng sản điện tử, 2/57, 20/9/2012.
[4] Đào Duy Hân, “Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam phù hợp với hội nhập quốc tế”, Tạp chí phát triển và hội nhập, số 5 (15) tháng 7, 8 (2012)
[5] Vụ Tổng hợp kinh tế, Bộ Ngoại giao CHXHCNVN, “Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững ở Việt Nam”, http://www.mofahcm.vn/
[6] Lê Tự Hỷ, “Nền giáo dục Phần Lan tiên tiến nhất thế giới hiện nay”, http://tusach.thuvienkhoahoc.com
[7] Lê Hoàng, Nhìn lại 20 năm lịch sử Nokia: Từ ngai vàng đến quên lãng, 29/04/2014, http://vnreview.vn.
[8] Quế Viên, “Thụy Điển – bản đồ chính trị hoàn toàn mới”, http://tuoitre.vn
[9] Vụ Thị trường Châu Âu, Một số nét về kinh tế Phần Lan 2012, http: //moit.gov.vn.