Trong số các sách dùng để dạy học sinh bằng chữ Hán và chữ Nôm được biên soạn, in, chép vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã nhắc đến ở trên, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các sách dạy lịch sử, cụ thể là những sách dạy lịch sử Việt Nam. Việc tiến hành một cuộc khảo sát về các sách này có thể cho chúng ta thông tin khái quát về tình hình tồn tại và đặc điểm của những cuốn sách dùng để dạy lịch sử cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Qua đó, chúng ta có thể phần nào trả lời được các câu hỏi: Trước ngưỡng cửa của thời đại mới và những chính sách nô dịch văn hóa của Pháp, việc biên soạn sách dạy lịch sử Việt Nam được quan tâm như thế nào? Các nhà nho ta đã dạy sử như thế nào? Các sách dạy lịch sử Việt Nam có những đặc điểm gì trong phương thức biên soạn?… Hơn nữa, những thông tin thu được qua việc tìm hiểu những sách này có thể có ý nghĩa gợi ý đối với việc dạy lịch sử Việt Nam hiện nay.
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, khi đề cập đến các cuốn sách dành cho người đi học bằng chữ Hán, chữ Nôm, các nhà nghiên cứu chủ yếu quan tâm đến sách dạy chữ Hán mà rất ít đề cập đến những sách dạy lịch sử. Năm 1997, tác giả Thế Anh đã có bài viết(2) đăng trên Tạp chí Hán Nôm giới thiệu sơ lược một số “sách giáo khoa” được dùng làm tài liệu giảng dạy và học tập cho lớp học trò nhỏ tuổi mới bắt đầu bước chân đến “cửa Khổng sân Trình” trong đó cũng chỉ nhắc đến một cuốn sách dạy lịch sử cuối thể kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đó là sách Sơ học vấn tân. Năm 2001, PGS.TS. Phạm Văn Khoái, trong cuốn sách(3) của mình, cũng có điểm qua một số cuốn sách dạy lịch sử trong số các sách dùng dạy học sinh đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong các bài viết, chuyên luận nghiên cứu, vì các lý do khác nhau, các tác giả mới chỉ nhắc tên các sách dạy lịch sử một cách gián tiếp mà chưa đề cập đến chúng như một chủ đề quan tâm.
Qua khảo sát tư liệu hiện có tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi nhận thấy, các sách dạy lịch sử Việt Nam của bậc sơ học, tiểu học và trung học bằng chữ Hán và chữ Nôm chủ yếu là các sách không niên đại, các sách được chép, in vào khoảng thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Vì vậy, việc khảo sát những sách dạy lịch sử Việt Nam bằng chữ Hán và chữ Nôm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX còn có thể cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về sách dạy lịch sử Việt Nam hiện tồn trong kho sách Hán Nôm nói chung.
Từ những vấn đề đã đặt ra như trên, trong bài viết này, chúng tôi muốn tiến hành một khảo sát sơ bộ về các sách dạy lịch sử Việt Nam bằng chữ Hán và chữ Nôm từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX trong kho sách Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, nhằm bước đầu có được những thông tin khái quát về việc biên soạn và tình hình văn bản của những cuốn sách này, tạo tiền đề cho những nghiên cứu về sau.
Cũng trong bài viết này, chúng tôi quan niệm sách dạy lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tức những cuốn sách được biên soạn, in, chép vào khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dùng để dạy lịch sử Việt Nam cho học sinh ở các bậc học. Với tiêu chí trên, chúng tôi đã thống kê được 17 mục sách. Dưới đây là bảng lược thuật sơ bộ về các cuốn sách này theo các tiêu chí: tên sách, tình trạng văn bản, niên đại, tác giả, hình thức thể hiện.
Ở đây, tiêu chí tình trạng văn bản được hiểu là các yếu tố về ký hiệu, số văn bản hiện tồn, tình trạng lưu trữ. Tiêu chí niên đại bao gồm cả niên đại soạn và niên đại khắc in, năm viết tựa (nếu có). Tiêu chí tác giả bao gồm các yếu tố người soạn, người viết đề tựa (nếu có), người nhuận chính (nếu có), nơi tổ chức biên soạn, in ấn (nếu có). Tiêu chí hình thức thể hiện trả lời câu hỏi cuốn sách được soạn theo thể văn xuôi hay văn vần.
TT
|
Tên sách
|
Tình trạng văn bản
|
Niên đại
|
Tác giả
|
Hình thức thể hiện
|
I.
|
An Nam sơ học sử lược
安南初學史略
|
7 bản in, 1 bản viết, chữ Hán.
|
|
Mêbông và Ruxiê (Pháp) soạn bằng tiếng Pháp
|
Văn xuôi
|
VHb. 219,
A.3228,
VHb.230,
A. 935
|
In,144tr., 17x11
|
In: 1911
|
Phạm Văn Thụ, Nguyễn Doãn Thạc dịch ra Hán văn.
|
A.3114 bis, A.3114,
|
In, 172 tr., 26x15
|
In: 1909
|
Cao Xuân Dục, Đỗ Văn Tâm hiệu chính.
|
A. 3191
|
In, 94tr., 26x15, thiếu 16 thiên.
|
In: 1909
|
VHv. 1556
|
Viết, 210tr., 26x16.
|
Chép: 1928
|
Phạm Văn Thụ, Nguyễn Doãn Thạc dịch ra Hán văn.
|
II.
|
Ấu học Việt sử tứ tự幼學越史四字
|
1 bản in, chữ Hán, VHv.51, 38 tr., 23x15
|
Năm soạn
và in: 1907
|
Hoàng Đạo Thành soạn,
Quan Văn đường tàng bản.
|
Văn vần
|
III.
|
Ấu học Hán tự tân thư幼學漢子新書, (quyển IV - Ấu học lịch sử giáo khoa thư 幼學歷史教科書)
|
3 bản in, 3 bản viết (bộ 4Q), chữ Hán
|
Soạn năm 1908
|
Dương Lâm, Đoàn Triển, Bùi Hướng Thành biên tập.
Đỗ Văn Tâm hiệu đính. Đông Dương Nghị học hội đồng kiểm duyệt.
|
Văn xuôi
|
VHv. 1485
|
In, 546tr., 15x21 (thừa Q2)
|
In: 1908
|
VHv. 1507
|
In, 72 tr., 16x22, (thiếu Q1, Q2)
|
VHv. 2394
|
In, 240 tr., 15x22, (thiếu Q1, Q3)
|
VHv. 345
|
Viết, 80 tr., 15x22, (thiếu Q3, Q4)
|
(*)
|
VHv. 346
|
Viết, 127 tr., 15x22.
|
VHv. 469
|
Viết, 151 tr., 16x27.
|
IV.
|
Cải lương mông học Quốc sử giáo khoa thư改良
蒙學國史教科書
|
1 bản in, 1 bản viết , chữ Hán
|
Không ghi
|
Không ghi
|
Văn xuôi
|
A.169
|
In, 128 tr., 25x15
|
VHv. 2145
|
Viết, 130 tr., 27x16.
|
V.
|
Khóa nhi tiểu giản tứ tự quốc âm thể課兒小簡四字國音體
|
1 bản viết, chữ Nôm có chữ Quốc ngữ, AB.646, 40tr., 24.5x14,.
|
Đề tựa: 1952
|
Nguyễn Văn Bình soạn
|
Văn vần
|
VI.
|
Mông học Việt sử tam tự giáo khoa thư
蒙學越史三字教科書
|
1 bản viết, chữ Hán, A.2314,
40 tr., 29x16,5.
|
Viết tựa:
1924
|
Nguyên Tử Thành, hiệu Thụy Hưng Đường ở Thường Châu viết tựa
|
Văn vần
|
VII.
|
Nam sử tổng luận
南史縂論
|
1 bản viết, chữ Hán, VHv.159, 78 tr., 29x16.
|
Không ghi
|
Không ghi
|
Văn xuôi
|
VIII.
|
Quốc sử ấu học giáo khoa thư 史幼
學教科書
|
1 bản viết, chữ Hán, VHv.1589, 38 tr., 28x16
|
Không ghi
|
Không ghi
|
Văn xuôi
|
IX.
|
Quốc sử tiểu học lược biên
國史小學略編
|
1 bản viết (3T), A.1327,
286tr., 29x15.5, 1 phàm lệ.
|
1907
|
Phạm Huy Hổ biên tập
|
Văn xuôi
|
X.
|
Sơ học
vấn tân
初學問新
|
Theo Thư mục đề yếu(4) sách này có 3 bản in, 36tr., 21x14, chữ Nôm, có chữ Hán, không ghi ký hiệu. Theo chỉ dẫn của Tam tự kinh (VHv.2033), cuốn sách này có một ký hiệu AN.231.
|
1874
|
Không ghi
|
Văn xuôi
|
XI.
|
Tam tự kinh三字經
|
1 bản viết, chữ Hán, có Nôm, VHv. 2033, 164tr., 27x15
|
Không ghi
|
Không ghi
|
Văn vần
|
XII.
|
Thiên Nam tứ tự天南四字
|
1 bản viết, chữ Hán, A.238, 50 tr., 31x22.
MF.341 (A238)
Paris.EFEO.MF.II/6/991 (A.238)
|
Không ghi
|
Không ghi
|
Văn vần
|
XIII.
|
Thiên Nam tứ tự kinh
天南四字經
|
1 bản viết, chữ Hán,
A.1958, 20 tr., 24x13.
MF.2327 (A.1958)
|
Không ghi
|
Không ghi
|
Văn vần
|
XIV.
|
Quốc sử tiểu học lược biên國史小
學略編
|
1 bản viết (3T), A.1327,
286tr., 29x15.5, 1 phàm lệ.
|
1907
|
Phạm Huy Hổ biên tập
|
Văn xuôi
|
XV.
|
Sơ học vấn tân
初學問新
|
Theo Thư mục đề yếu(4) sách này có 3 bản in, 36tr., 21x14, chữ Nôm, có chữ Hán, không ghi ký hiệu. Theo chỉ dẫn của Tam tự kinh (VHv.2033), cuốn sách này có một ký hiệu AN.231.
|
1874
|
Không ghi
|
Văn xuôi
|
XVI.
|
Tam tự kinh三字經
|
1 bản viết, chữ Hán, có Nôm, VHv. 2033, 164 tr., 27x15
|
Không ghi
|
Không ghi
|
Văn vần
|
XVII.
|
Thiên Nam tứ tự 天南四字
|
1 bản viết, chữ Hán, A.238, 50 tr., 31x22.
MF.341 (A238)
Paris.EFEO.MF.II/6/991 (A.238)
|
Không ghi
|
Không ghi
|
Văn vần
|
XVIII.
|
Thiên Nam tứ tự kinh 天南四字經
|
1 bản viết, chữ Hán,
A.1958, 20 tr., 24x13.
MF.2327 (A.1958)
|
Không ghi
|
Không ghi
|
Văn vần
|
XIX.
|
Thiên Nam tứ tự kinh天南四字經 (Thiên Nam tứ tự kinh chúgiải 天南四字經註解)
|
2 bản in, 1 bản viết tay
|
|
|
Văn vần
|
A.29
|
In, 36 tr., 19x13, có chữ Nôm
|
1874
|
(*)
|
VHv.
2474
|
Viết, 120 tr., 31x20, có chữ Hán, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp viết trên giấy Tây.
|
1889
|
Nguyễn Miễn Hiên soạn. Nguyễn Tử Tế khảo cứu.
|
Paris.BN.B.28Vietnamien
|
1874
|
(*)
|
XX.
|
Tiểu học quốc sử lược biên小學國史略編
|
1 bản viết, chữ Hán, A.239, 248 tr., 29x15
|
Không ghi
|
Phạm Huy Hổ biên tập, Đỗ Văn Tâm hiệu đính.
|
Văn xuôi
|
XXI.
|
Trung học Việt sử biên niên toát yếu 中學越史編年撮要
|
1 bản viết (bộ: 4Q), chữ Hán, A.328, 242 tr.,
28x15. Paris. MF. II/6/1089 22 bản in, 5 bản viết (bộ 5Q: Thủ, Xuân, Hạ, Thu, Đông)
|
Không ghi
|
Ngô Giáp Đậu soạn, Đỗ Văn Tâm nhuận đính
|
Văn xuôi
|
XXII.
|
Trung học Việt sử toát yếu中學越史撮要 (Trung học Việt sử toát yếu giáo khoa 中學越史撮要教科)
|
|
|
Ngô Giáp Đậu soạn, Phạm Văn Thụ duyệt, Đoàn Triển, Phạm Văn Thụ, Cao Xuân Dục đề tựa.
|
|
Bản in
|
In tại 22 phố Hàng Bè, HN, 1911.
Hội đồng Học chính Bắc Kỳ tọa duyệt cho phép in và phát hành.
|
Văn xuôi
|
VHv.
987/1-4
|
700 tr., 25,5x15
|
|
|
|
VHv.
157/1-4 A.770/1-2
|
700 tr., 25x15
|
VHv.
986/1-2
|
484 tr., 25.5x15 (Thủ, Xuân, Thu, Đông)
|
VHv.
1544/1-2
|
344 tr., 25.5x15 (Thủ, Xuân, Hạ)
|
A.2984/1-2
|
330 tr., 25.5x15 (Thủ, Xuân, Thu)
|
VHv.1906 VHv.2024
|
128 tr., 25.5x15 (Thủ, Xuân)
|
VHv.
988/2,3
|
418 tr., 25.5x15 (Hạ, Thu)
|
VHv.
1557/2,4 VHv.
989/2,4
|
370 tr., 25.5x15 (Hạ, Đông)
|
VHv.1707
VHv.2025
VHv.1583
VHv.990/2
|
216 tr., 25.5x15 (Hạ)
|
VHv.1908 VHv. 2026 VHv.2694
|
202 tr., 25.5x15 (Thu)
|
VHv.988/4
VHv.1701
VHv.1909
VHv.2027
|
154 tr., 25.5x15
|
Paris. EFEO. MF. A.770/1-2
|
|
|
|
Bản viết
|
(*)
|
VHv.1700
|
166 tr., 31.5x18.5 (Thu)
|
VHv.
258/I-II
|
286 tr., 29x17
|
VHv.
992/1-3
|
208 tr., 28x16 (Thủ, Xuân, Hạ, Thu)
|
VHb.120
|
126 tr., 17.5x13
(Thu, Đông)
|
VHv.
991/2
|
88 tr., 28x15.5 (Hạ)
|
Tổng kết:
|
39 bản in, 21 bản viết
|
9 mục sách có ghi niên đại
|
10 mục sách có ghi thông tin tác giả
|
9 văn xuôi, 8 văn vần
|
|
|
|
|
|
|
|
|
(*): Là những sách do nhiều lý do khác nhau như: ký hiệu bận, sách còn ký hiệu nhưng không còn sách trong kho, sách lưu trữ tại Paris v.v… nên chúng tôi tạm thời không có điều kiện khảo sát trong thời gian viết bài viết này. Tuy nhiên, do những cuốn sách này được nhà nước tổ chức biên soạn, nên các bản hiện chưa đọc được có thể là những dị bản của những cuốn sách gốc đã được khảo sát ở trên. Vì vậy, có thể tạm thời xác định năm biên soạn của các cuốn sách này chính là năm sách gốc được tổ chức soạn, in.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, trong số 17 mục sách mà chúng tôi thống kê, có một số mục sách trùng lặp, thường là từ một cuốn sách gốc được chép lại ở nhiều cuốn sách khác nhau, như cuốn Cải lương mông học quốc sử giáo khoa thư 改良蒙學
國史教科書(A.169, VHv.2145) cũng được chép trong Nam sử tổng luận 南史總論 (VHv.159); cuốn Quốc sử ấu học giáo khoa thư 國史幼學教科書được chép với tên Ấu học lịch sử giáo khoa 幼學歷史教科trong sách Ấu học Hán tự tân thư 幼學漢字新書(VHv.1485); cuốn Sơ học vấn tân 初學問新(AB.231) được chép trong Tam tự kinh 三字經 (A.2033), tuy có sự xuất nhập trong cách dịch Nôm; và các cuốn Thiên Nam tứ tự kinh 天南四字經 (A.238), Thiên Nam tứ tự kinh 天南四字經 trong Tam tự kinh 三字經 (A.2033), Thiên Nam tứ tự kinh chú giải 天南四字經註解 (VHv.2474) có cùng nguồn gốc văn bản là một tác phẩm có tên Thiên Nam tứ tự kinh天南四字經được biên soạn để dạy trẻ em về lịch sử, được biên chép và cho in ở các thời kỳ khác nhau, có biên tập lại.
Ngoài ra, Thư mục đề yếu có thống kê một cuốn sách có tên Tứ tự huấn mông 四咨訓蒙, có ký hiệu Paris. BN. A.79 Vietnamien, sách chữ Hán, viết theo thể thơ bốn chữ. Nội dung là những câu danh ngôn của các bậc thánh hiền biên thành sách học, khoảng 2000 chữ, có chép lịch sử Việt Nam tóm lược. Thư mục đề yếu không đề cập đến niên đại cũng như tác giả của cuốn sách này. Do cuốn sách hiện lưu trữ tại Paris, chúng tôi không có điều kiện tiếp cận để biết thêm thông tin. Vì vậy, chúng tôi tạm thời không đưa cuốn sách này vào danh mục này.
Bên cạnh đó, thời gian từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX cũng có rất nhiều sách sử được biên soạn, nhưng qua tìm hiểu, những cuốn này không thỏa mãn tiêu chí là sách dùng để dạy cho học sinh, cho nên, chúng tôi không đưa vào danh mục này.
Qua phân tích kết quả khảo sát, chúng tôi có một số nhận xét bước đầu sau đây:
Về tình trạng văn bản, 17 mục sách được thống kê tương ứng với số lượng 39 bản in và 21 bản viết. Bản in có niên đại sớm nhất được biết là 1874, bản chép tay có niên đại sớm nhất được biết là 1889. Những thông tin này cho thấy, việc tổ chức in các sách này mới chỉ bắt đầu vào cuối thế kỷ XIX, khi Pháp đã thiết lập trên đất nước ta một nền giáo dục mới, nền giáo dục Pháp Việt(5). Số lượng bản in nhiều hơn số lượng bản viết tay cũng thể hiện điều kiện in ấn cũng như việc tổ chức biên soạn sách giáo dục đã bước đầu có tính quy mô.
Về mặt niên đại nói chung, trong số 17 mục sách được thống kê, có 8 mục sách không ghi niên đại, 7 mục ghi niên đại thế kỷ XX, 2 mục ghi niên đại cuối thế kỷ XIX.
Trong số các sách không ghi niên đại, qua khảo sát về mặt văn bản và nội dung, chúng tôi nhận thấy đều là sách được soạn, chép, in vào khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cuốn Cải lương mông học giáo khoa thư 改良蒙學教科書 (A.169, VHv.2145) không ghi niên đại nhưng nội dung chép lịch sử Việt Nam từ Hồng Bàng đến Duy Tân, điều đó cho thấy việc biên soạn cuốn sách này phải hoàn thành từ sau thời điểm có niên hiệu vua Duy Tân. Cuốn Nam sử tổng luận 南史總論 (VHv.159) chép lại Cải lương mông học quốc sử giáo khoa thư 改良蒙學國史教科書ở trên, hơn nữa còn chép lại cuốn Việt sử tân ước toàn biên 越史新約全編vốn là cuốn sách được khắc in năm Thành Thái Bính Ngọ (1906) cho nên về mặt văn bản, nó phải hoàn thành vào khoảng nửa đầu thế kỷ XX. Cuốn Quốc sử ấu học giáo khoa thư 國史幼學教科書 (VHv.1589) có một dị bản với tên Ấu học lịch sử giáo khoa thư 幼學歷史教科書 trong Ấu học Hán tự tân thư 幼學漢字新書, nội dung lịch sử(6) được đề cập trong sách cũng thể hiện nó là sách được biên soạn vào đầu thế kỷ XX. Cuốn Tam tự kinh 三字經 (VHv.2033) không ghi niên đại nhưng có chép Sơ học vấn tân 初學問新là cuốn sách được in năm 1874, lại chép cuốn Khải đồng thuyết ước 啟童說約là cuốn sách được biên soạn vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, in lần đầu vào năm Tự Đức thứ 31 (1881), vì vậy có thể xác định Tam tự kinh 三字經 là cuốn sách được chép lại vào khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Riêng hai sách Thiên Nam tứ tự kinh 天南四字經 được chép trong Tam tự kinh 三字經 (VHv.2033) và Thiên Nam tứ tự 天南四字(A.238), chép lịch sử Việt Nam từ họ Hồng Bàng đến đời Lê Chiêu Thống; tác giả của cuốn sách này theo như lời tựa của Nguyễn Miễn Hiên trong Thiên Nam tứ tự kinh chú giải (VHv.2474 - soạn năm 1889) là một bậc tiền bối triều Nguyễn. Như vậy, rất có khả năng cuốn sách này được hoàn thành vào thời gian khoảng giữa thế kỷ XIX. Do sự chính xác chỉ mang tính tương đối, chúng tôi tạm xếp hai cuốn này thuộc khoảng thời gian nửa cuối thế kỷ XIX nửa đầu thế kỷ XX. Hai cuốn Tiểu học quốc sử lược biên 小學國史略編, Trung học Việt sử biên niên toát yếu中學越史編年撮要 dựa vào thời đại của tác giả biên soạn có thể xác định là sách được biên soạn vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX.
Cũng qua khảo sát số sách trong bảng nói trên, chúng tôi thu được thông tin về tác giả như sau: có 10 mục sách là có ghi tác giả biên soạn, nhuận chính, dịch; 7 mục sách không có thông tin về tác giả, người biên soạn, nhuận chính v.v... Các tác giả của những cuốn sách này chủ yếu là quan lại dưới triều Nguyễn và những người làm việc trong các Hội đồng học chính, dưới sự chỉ đạo của chính quyền bảo hộ.
Có thể thấy, các sách này phần nhiều do tư nhân tổ chức biên soạn, có 3 cuốn là được tổ chức biên soạn dưới sự chỉ đạo của nhà nước, hay chính quyền đô hộ, đó là các cuốn: 1. An Nam sơ học sử lược 安南初學史略, 3. Ấu học Hán tự tân thư 幼學漢字新書, 16. Trung học Việt sử toát yếu 中學越史撮要(Trung học việt sử toát yếu giáo khoa).
Về mặt hình thức thể hiện, có 9 cuốn viết theo thể văn xuôi, dùng chữ Hán, không có chú giải chữ Nôm. Có 8 cuốn dùng dạng văn vần hay còn gọi là thơ trong đó có 1 cuốn theo thể 3 chữ (Mông học Việt sử tam tự giáo khoa thư 蒙學越史三字教科書 A.2314), còn lại 7 cuốn đều viết theo thể thơ 4 chữ. Trong số 8 cuốn viết theo dạng văn vần này, có 1 cuốn viết bằng chữ Nôm có xen Quốc ngữ (Khóa nhi tiểu giản tứ tự quốc âm thể 課兒小簡四字國音體AB.646), 3 cuốn viết bằng chữ Hán nhưng có dịch lại câu thơ chữ Hán và chú giải sự kiện bằng chữ Nôm (gồm Sơ học vấn tân 初學問新 AB.231 và Sơ học vấn tân tân 初學問新 (Tam tự kinh 三字經VHv.2033), Thiên Nam tứ tự kinh chú giải 天南四字經註解 A.2474). Qua khảo sát những sách viết theo dạng văn vần, chúng tôi thấy đây là những cuốn sách được biên soạn súc tích, ngắn gọn dễ hiểu, dễ thuộc, phù hợp với việc dùng để dạy trẻ em ở bậc sơ học, là tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà sư phạm hiện nay trong khi soạn sách dạy về kiến thức lịch sử cho học sinh cấp 1.
Về mặt nội dung, các cuốn sách đều trình bày khá tóm lược các sự kiện lịch sử từ thời thượng cổ (Kinh Dương Vương) đến Nguyễn. Riêng có cuốn An Nam sơ học sử lược安南初學史略, là cuốn sách vốn do người Pháp biên soạn, được các quan lại Việt Nam dịch lại ra Hán văn, có trình bày riêng một mục lịch sử thời kỳ Pháp thuộc. Ở bậc sơ học, chủ yếu các tác giả chỉ trình bày khái quát về các thời đại trong phân kỳ lịch sử Việt Nam cũng như các đời vua, các vị danh thần, anh hùng nổi tiếng. Các sự kiện được lựa chọn có tính tiêu biểu cao, chủ yếu đi vào tính chất khái quát của sự kiện, không đi vào tiểu tiết. Điều này rất thuận lợi cho học sinh bậc sơ học khi tiếp cận với bộ môn lịch sử. Ở bậc tiểu học và trung học, người soạn sách trình bày nội dung các sự kiện, các vấn đề tỉ mỉ hơn, bắt đầu chú tâm đến phân tích, bình luận các sự kiện. Ví dụ như cuốn Quốc sử tiểu học lược biên 國史小學略編 trình bày lược sử Việt Nam từ Hồng Bàng đến Gia Long thứ 18. Tuy nhiên, bên cạnh đó có bàn rất kỹ về quốc sử cũng như tầm quan trọng của quốc sử. Phần quốc hiệu, quốc giới có giới thiệu tên nước Việt Nam, cương vực Việt Nam qua các triều đại rất tỉ mỉ, kỹ càng. Cuốn Trung học Việt sử toát yếu 中學越史撮要 bên cạnh trình bày các thời đại trong lịch sử Việt Nam theo các tiết mục, các tác giả còn đưa vào những phần luận bàn về thế biến, về quan hệ bang giao v.v…
Qua những thông tin về nội dung, chúng ta cũng có thể thấy được đôi điều về quan điểm lịch sử. Có thể nói các tác giả biên soạn sách đều thể hiện thái độ coi trọng lịch sử Việt Nam, như tác giả cuốn Cải lương mông học quốc sử giáo khoa thư 改良蒙學國史教科書, trong lời tựa sách đã thể hiện những trăn trở của mình trước thực trạng hiểu biết lịch sử còn hạn chế của người dân Việt Nam nói chung, cũng như thanh niên đương đại nói riêng. Bên cạnh đó, việc sắp xếp các nhân vật, các sự kiện vào các tiết mục khác nhau của sách cũng thể hiện phần nào quan điểm lịch sử của tác giả, như việc tác giả cuốn Ấu học lịch sử giáo khoa thư 幼學歷史教科書 trong Ấu học Hán tự tân thư 幼學漢子新書đã xếp Quang Trung - Nguyễn Huệ vốn là nhân vật bị các sử gia triều Nguyễn gọi là “Ngụy Tây” vào mục các vị anh hùng trong lịch sử. Tác giả cũng có biện luận rằng “Tuy có mạo phạm lăng tẩm, đắc tội với bản triều, nhưng cũng có thể cho là anh hùng ở đời vậy” (NTH dịch từ nguyên văn chữ Hán, tr.17b).
Như vậy, thông qua một số khảo sát bước đầu kể trên, chúng ta có thể có một cái nhìn một cách khái quát về tình hình văn bản cũng nhưng các thông tin nội dung, hình thức của các sách dạy lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX viết bằng chữ Hán, chữ Nôm. Chúng tôi rất hy vọng những nghiên cứu bước đầu này có thể làm tiền đề cho những nghiên cứu về sau.
Chú thích:
(1) Phạm Văn Khoái: Một số vấn đề chữ Hán thế kỷ XX, Nxb. ĐHQG, H. 2001, 339tr.
(2) Thế Anh: “Sách học chữ Hán cho học sinh nhỏ tuổi ngày xưa”, Tạp chí Hán Nôm, số 1/1997 tr.70-72.
(3) Phạm Văn Khoái. Sđd.
(4) Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Trần Nghĩa và François Gros đồng chủ biên, Bộ 3 tập, Nxb. KHXH, H. 1993. Từ đây, chúng tôi gọi tắt là Thư mục đề yếu.
(5) Năm 1861, Pháp ra nghị định thành lập trường thông ngôn lấy tên là Bá Đa Lộc. Học viên là những tên Ngụy quân và Việt gian quyết tâm làm tay sai cho Pháp.
Năm 1864, Pháp thành lập một sổ trường tiểu học ở các tỉnh để dạy chữ Quốc ngữ và dạy toán.
Năm 1871, ra nghị định thành lập trường sư phạm thuộc địa để đào tạo giáo viên và nhân viên công sở, những tên tay sai đầu tiên về mặt văn hóa. Học chữ Pháp là chính, chữ Nho và chữ Quốc ngữ là phụ. Với chính sách mua chuộc dụ dỗ, đến năm 1874 đã có số đông làm nhiệm vụ giảng dạy ở hơn 20 trường tiểu học.
Năm 1873, Pháp đã thay thế các trường học chữ Nho bằng trường mới gọi là trường Quốc ngữ, dạy chữ Quốc ngữ và một ít chữ Pháp, một ít kiến thức khoa học.
(Theo Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Đăng Tiến chủ biên, Nxb. Giáo dục, H. 1996.)
(6) Nội dung sách phản ánh lịch sử Việt Nam từ Kinh Dương Vương đến vua Tự Đức (năm Tự Đức cuối cùng năm thứ 36, 1883)./.
.....................................
Nguồn: Thông báo Hán Nôm 2008