Những góc nhìn Văn hoá

Một công trình thông tuệ về nghệ thuật design

Công trình “Nguyên lý Design thị giác” của Nguyễn Hồng Hưng (612 trang, NXB Đại học quốc gia TPHCM, tái bản 11/2016) là công trình đầu tiên của Việt Nam viết khá dày dặn với 18 chương và 1.056 hình minh họa in màu công phu, một công trình  về học thuật của bộ môn nghệ thuật mới mẻ - nghệ thuật design.

Tác giả công trình là hoạ sỹ điêu khắc, người đầu tiên đề xuất chương trình giảng dạy môn Nguyên lý thị giác tại trường Đại học kiến trúc TP HCM từ năm 1998. Sau đó hai năm môn học Nguyên lý thị giác được “Bộ giáo dục và Đào tạo” xét duyệt, chính thức công nhận là môn học chính trong chương trình đào tạo của hệ đạo tạo Đại Học thuộc các ngành Mĩ thuật Công nghiệp Việt Nam hiện nay.

 Đặt tên công trình là “ Nguyên lý design thị giác”, Nguyễn Hồng Hưng dường như chỉ định viết một giáo trình sư phạm dạy cho sinh viên một cách hệ thống những kỹ năng  sáng tạo design dựa trên những tập tính và những năng lực của thị giác. Nhưng phương pháp tiếp cận và trình  bày vấn đề uyên bác, sắc sảo, thông tuệ của tác giả đã nâng tầm vóc công trình này vượt quá những nhiệm vụ sư phạm kỹ năng, để trở thành một công trình nghiên cứu tích hợp và thuyết trình những vấn đề nền tảng trong giảng dạy “Nguyên lí THị giác”, và tiềm năng phát triển của nghệ thuật Design. Người đọc là sinh viên hay là những người làm nghệ thuật design, sẽ tiếp thu được nhiều kiến thức nền tảng, sâu sắc của nguyên lí thị giác, một môn học nghiên cứu những tập tính thị giác con người biểu hiện qua cái nhìn(hay thói quen nhìn). Nếu người đọc là người yêu nghệ thuật nói chung cũng sẽ nhận được nhiều món quà quý làm giàu tâm hồn duy mĩ lãng mạn, và được sẽ lôi cuốn vào một tua du lịch trong thế giới design, một thế giới nghệ thuật về mặt kiến thức lí thuyết còn mới mẻ ở Việt Nam. Bạn đọc sẽ được tìm hiểu những cội nguồn thị giác của ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù, được tác giả viết bằng ngôn ngữ giản dị mà sâu sắc, sinh động và hấp dẫn, bạn đọc sẽ ngắm nghía những công cụ sáng tạo đa dạng được tác giả sắp xếp một cách hệ thống trên giá đỡ của các tri thức khoa học liên ngành, và xem xét những tiềm năng phát triển đồng thời cùng sự phát triển con người, của bộ môn nghệ thuật thứ Tám hay Nghệ thuật Design. 

Nếu mục đích của tác giả  chỉ là xây dựng một giáo trình giảng dạy về các nguyên lý design thị giác để sáng tạo ra những vật phẩm vừa có công năng sử dụng trong đời sống, vừa có giá trị thẩm mỹ cao như một tác phẩm tạo hình độc lập thì công trình “Nguyên lí design thị giác” cũng đã rất thành công. Cách trình bày mười tám chương sách với tính  hệ thống chặt chẽ, mạch lạc và hàm súc, vừa sinh động, sắc sảo và hấp dẫn, cuốn sách đã đưa đến cho người đọc một khối lượng kiến thức đồ sộ với những vấn đề và những khái niệm hết sức mới lạ như  “Cội nguồn design”, “Quỹ nhớ thị giác”, “Cảm thụ không gian”, “Tâm lý thị giác và không gian ước lệ”, “Design mô phỏng”, “Trường nhìn thị giác”, “Hiệu quả rung và cảm thụ ảo thị giác””, Cái nhìn và lực hút thị giác”, “Những đặc tính thị giác”, và viễn tưởng về một nền“ hội họa siêu thực với con mắt thứ ba…thứ năm…hay nhiều mắt hơn.v.v…”

Mỗi vấn đề, mỗi nguyên lý, mỗi kỹ năng lại được tác giả mô tả bằng văn phong hóm hỉnh nhẹ nhàng ngắn gọn nhưng hấp dẫn, khối lượng thông tin lớn, hàm lượng nghệ thuật cao. Chỉ riêng kênh hình trong sách với số lượng 818 hình ảnh minh họa in màu khá chuẩn, có nhiều phiên bản những kiệt tác của nhân loại từ thời hồng hoang tới tận thời “ nghệ thuật hậu hiện đại”ngày nay, kèm với lời bình khoa học cho từng phiên bản, đã cung cấp mảng lớn kiến thức cho bạn đọc.  Bởi tác giả đã diễn giải song song lịch sử phát triển nghệ thuật design bằng hình ảnh cùng với bằng chữ viết. Bắt đầu từ hình ảnh cái rìu tay của thời đồ đá sớm, đến kiệt tác của nhưng thiên tài của muôn đời, và những kiến trúc hiện đại nhất ngay trong thập kỉ này.

Cuốn sách là một công trình kép, vừa trình bày lý thuyết, vừa diễn giải lịch sử mĩ học, lịch sử phát triển design vừa có những nghiên cứu học thuật độc lập của tác giả, cuốn sách đã giúp ta hình dung rõ những bước phát triển kỳ thú của môn nghệ thuật thị giác này từ khi nó  chỉ là một bộ môn tạo hình bị bó hẹp trong khuôn khổ công nghệ có tên gọi là Mỹ thuật công nghiệp và thủ công mĩ nghệ đến khi nó được coi là Nghệ thuật thứ 8, đứng sau nghệ thuật điện ảnh và đứng trước nghệ thuật truyện tranh. Đây chính là vấn đề những loại hình nghệ thuật của mĩ học. Ngay những trang đầu tiên tác giả đã dẫn sử liệu cho biết thủa ban đầu kể từ cội nguồn mĩ học Aristotle (384-322TCN) đã không xếp hội họa vào danh mục loại hình nghệ thuật ở thượng tầng kiến trúc, đỉnh có trí tuệ nhân loại. Còn design chỉ là thứ thủ công khéo tay. Nhân loại được các tiền bôi thời cổ đại minh định về mĩ học chỉ có sáu loại hình nghệ thuật…Theo sự phát triển, theo thời gian nghệ thuật điện ảnh xuất hiện kì diệu , thần kì tới mức các trí giả đương thời phải công nhân ngay là “Nghệ thuật thư Bảy”, đó là con số bảy nối tiếp sáu loại hình nghệ thuật tưởng như bất di bất dịch dã có trước. Design được công nhận sau điện ảnh và là “Nghệ thuật thứ Tám”

Cuốn sách đã giúp nắm được một cách hệ thống những trường phái sáng tạo design trên thế giới, từ khi hình thành ý niệm về chế tác công cụ thời đại đồ đá xa xưa, đến khi xuất hiện những trường phái sáng tạo design độc đáo như hệ thống đối xứng, cấu trúc mô đun ngoài không gian, các trường phái tạo bóng và tạo ảo giác quang học thời gian gần đây. Trong quá trình phát triển, con người đã design từ que tăm đến tầu không gian. Ngay trên trái đất hiện nay đã có những dự án design tạo môi trường sống cho quần xã sinh vật, nhằm phát triển sự sống trên các xa mạc của trái đất. Ở trang 535 có ảnh minh họa về công trình Eden Anh quốc, là dự án xanh hóa xa mạc hiện đang hoạt động.

Tác giả đã đưa ra quan điểm “Lịch sử design là lịch sử con người”. Một quan điểm mở rộng vượt xa phạm vi giảng dạy trong nhà trường của cuốn sách. Cũng có thể viết sách về design, là viết về thiên nhiên thứ hai do con người tạo dựng nên, vì thế mà người viết khó tránh vượt khỏi chừng mực khuôn khổ học thuật dùng trong phạm vi học đường. Cũng bởi design là văn minh xã hội.

Nhưng sự hấp dẫn  và sự thành công của của cuốn sách lại nằm ở cái đích học thuật cao hơn hệ thống tri thức, kỹ năng về nghệ thuật Design mà cuốn sách đã trình bày một cách xuất sắc. Trong cách giải thích, trình bày và suy tư , người viết sách đã kết nối bộ môn nghệ thuật này với cả những thị giác tiềm năng, những thị giác bên trong của người khiếm thị, những thị giác siêu việt giàu yếu tố viễn tưởng liên đới tới cả thị giác thấu thị soi  thấu được cả mọi cõi giới của Chúa Trời và Phật tổ Như lai. Đó là điều mà các nhà nghệ thuật học trước đây hầu như chưa bàn tới. Đó cũng chính sức mạnh và cả sức hấp dẫn của cuốn sách về khía cạnh nhằm khai phóng khả năng tưởng tượng của các nhà thiết kế tương lai. Một phương pháp kích não của nền sư phạm hiện đại.

 Tác giả còn dẫn dắt cho ta thấy nghệ thuật Disign là chung cội nguồn, là song sinh và cùng chung cảm hứng sáng tạo với nghệ thuật tạo  hình, một nguồn cảm hứng dù gắn liền với Đại ngã theo cách hiểu của phương Đông hay gắn liền với Thượng đế theo cách hiểu của phương Tây cũng đều đem đến cho tác phẩm design một sinh khí nghệ thuật, một thông điệp sáng tạo của cái tuyệt đối và cái vĩnh hằng. Và với sự phát triển của nghệ thuật design, những gì trước đây chỉ là các công cụ vô hồn được sản xuất hàng loạt trong dây chuyền công nghiệp, giờ đây đã trở nên phập phồng hơi thở của cái đẹp, cái tâm linh, và nghệ thuật design tiến hóa liên tục với thời gian đã trở thành thiên nhiên thứ hai sau thiên nhiên của tự nhiên ban tặng con người.

 Những sách nghiên cứu và giảng dạy về mỹ thật công nghiệp trước đây chưa có những cách tiếp cận thông tuệ như Nguyễn Hồng Hưng. Để mô tả về nghệ thuật design, Tác giả không chỉ đặt nghệ thuật này trong tương quan với năng lực thị giác và văn hoá thị giác của con người đương đại mà còn mong ước cả nghệ thuật design cho thế giới người khiếm thị, mà còn đặt nghệ thuật design vào  tương quan tiềm năng với thị giác siêu việt của con người tương lai bởi những tiến hóa tất yếu. Nguyễn Hồng Hưng đã đưa ra quan niệm về tính dân tộc trong nghệ thuật chính là địa lý, và khẳng định “ thế giới không phẳng với nghệ thuật”. vì nếu thế giới phẳng với nghệ thuật, thì sự nghèo nàn về các trường phái nghệ thuât sẽ xuất hiện ở tầm mức toàn cầu, nghệ thuật sẽ teo tóp tới mức có thể biến mất.

Tác giả còn minh chứng, giải mã rất thuyết phục rằng giao lưu của các trường phái nghệ thuật luôn luôn là những giao lưu hòa nhập ở những vùng biên. Không bao giờ là trung tâm. Bởi giao lưu của hai nền văn hóa văn hóa phủ trùm trùng khít từ trung tâm đến ngoại biên thi tất nhiên sẽ có một nền văn hóa bị hòa tan. Hoặc có thể cả hai nền văn hóa đều biến mất mà ra đời một nền văn hóa khác. Chính vì thế tác giả đã giải mã được bản sắc văn hóa của một dân tộc mà bền vững trường tồn sẽ không bị hòa tan bởi các nền văn hóa lớn hơn. Một dân tộc bị hòa tan về văn hóa cộng đồng, dân tộc đó có nguy cơ biết mất hoặc trở thành dân tộc thiểu số của nên văn hoá hòa tan nó. Đây cũng là đại vấn đề về văn hóa và dân tộc  vượt phạm vi học thuật. Quả thật thế giới không thể phẳng với nghệ thuật và nghệ sĩ.

Nghệ sĩ Phương Đông là phương đông, nghệ sĩ Phương Tây là phương tây. Vì quan điểm này mà tác giả đã dẫn chứng cụ thể trong cuốn “Câu chuyện nghệ thuật”, tác gia E.H.Gombrich đã viết rằng  chỉ có nghệ sĩ mà không có nghệ thuật.

 Nhưng tác giả Nguyễn Hồng Hưng cho rằng nếu nhìn với quan điểm mĩ học sẽ không thể bỏ qua tác phẩm. Tác phẩm chỉ dẫn ra nghệ sĩ.

Trong cuốn sách “Câu chuyện nghệ thuật” của tác giả E. H. Gombrich ngay câu đầu tiên của phần dẫn nhập (trang 3) viết: “Thật ra không hề có cái gọi là nghệ thuật, chỉ có nghệ sĩ”. Vậy mà  nghịch lí thay E.H.Gombrich đã không viết gì (hoặc viết rất ít) về tiểu sử nghệ sĩ. Trong sách “Câu chuyện nghệ thuật”, ông chỉ viết về sự ra đời của các tác phẩm nghệ thuật cụ thể và những trào lưu. Ông cũng đã viết “…Nguyên tắc đầu tiên là tôi sẽ không viết về những tác phẩm mà không chứng minh được bằng hình ảnh.” Cụ thể là hơn 500 trang sách chật ních những ảnh chụp tác phẩm để viết nên “Câu chuyện nghệ thuật”. Trong đó có nhiều tác phẩm lừng danh mà khuyết tên tác giả(nghệ sĩ).

Nếu nghệ sĩ nào đó có hoạt động văn hóa văn nghệ năng động  khoái thú câu nói này thì cũng tương tự như khoái thú  xu hướng lấy sự kiện sinh hoạt cuộc sống làm  giá trị nghệ sĩ của họ. Sẽ tệ hơn khi tiếng tăm nghệ sĩ được làm nổi lên bằng sinh hoạt đời tư qua phương tiện thông tin đại chúng để thế chỗ cho tác phẩm nghệ thuật vốn phải rất đam mê mà còn khó làm ra được.

Cũng bởi có nhiều thể loại mĩ thuật mới thời thượng không cần phải biết vẽ. Và như thế, chắc chắn chỉ có tiểu sử sự kiện nghệ sĩ theo hướng “văn hóa văn nghệ xã hội”, hàm lượng mĩ thuật không thể phát triển cao được. Lại cũng bởi mĩ thuật không thể biểu hiện hết được các dạng cái đẹp của nhận thức sự thật. Mĩ thuật chỉ có thể biểu hiện cách nhận thức sự thật về cái đẹp theo phương pháp mĩ thuật. Thế nên đã có nhiều thể loại nghệ thuật khác nhau đã và đang rất mới ra đời. 

Cuốn “Câu truyện nghệ thuật” hiện nay đã được tái bản tới lần thứ 16.  Trong lời tựa cho lần tái bản thứ 15 năm 1989, cách thời điểm xuất bản lần đầu 1950 là 39 năm, tác giả đã phải nhấn mạnh lại rằng: “Tôi cảm thấy cần phải nhấn mạnh một lần nữa rằng bạn hãy thưởng thức quyển sách này như một câu truyện giải trí, chứ đừng dùng nó làm sách giáo khoa, thậm chí một tác phẩm để tham khảo”.

Liệu có phải sau 39 năm ra đời lừng lẫy, phát hành tới bảy triệu bản, với 30 thứ tiếng khác nhau, dễ đã có vô vàn ý kiến của bạn đọc tâm huyết làm cho E. H. Gombrich phải  nhấn mạnh hơn một lần những lời trên.

Có vô số tác phẩm nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội họa, design, nhân loại phát hiện và lưu giữ cẩn trọng từ thời nguyên thủy tới ngày nay mà không biết gì về những nghệ sĩ tác giả của những tác phẩm đó, vì chỉ còn tác phẩm.

Người Việt Nam có nhiều tác phẩm điêu khắc cổ và kiến trúc chùa cổ, đồ gốm cổ có giá trị mĩ thuật cao và cả dòng trang Đông Hồ, dòng tranh Hàng Trống đều chỉ còn tác phẩm mà các tác giả của những tác phẩm đó đã không lưu danh.

Qua chút dẫn chứng trên, tôi chỉ muốn cho rõ thêm rằng làm “Mĩ thuật” có khác nhiều so với làm “Văn hóa văn nghệ”. Có thể với “văn hóa văn nghệ” thì chỉ có nghệ sĩ,  mà có ít thôi cái gọi là nghệ thuật, nhất là trong hoàn cảnh như ở ta đương đại, giá trị nghệ thuật phụ thuộc không ít vào khả năng quan hệ  sinh hoạt xã hội của cá nhân nghệ sĩ.

Với mĩ thuật và design thì không phải vậy. Bởi chỉ riêng ở Việt Nam thôi đã có quá nhiều trường hợp chỉ còn tác phẩm mà tác giả đã không lưu danh.

Tương lai hẳn cần phải có “Hội Văn hóa văn nghệ” riêng ra, để không lẫn với “Hội Design”, hay như “Hội mĩ thuật”, vốn giản dị, không rộng lớn như văn hóa văn nghệ, và rất riêng tư. 

Tác giả  trình bầy rõ quan điểm giao lưu văn hóa nghệ thuật đương đại của Viêt Nam với thế giới: “nghệ thuật trình diễn”- “Nghệ thuật sắp đặt”- “nghệ thuật ý niệm”.v.v… là những giao lưu giao thoa vùng biên với các nền văn hóa ngoài Viêt Nam, là giao lưu vành ngoài của văn hóa nghệ thuật cội nguồn của mọi cộng đồng. Tác giả không ngần ngại ví những loại hình nghệ thuật đó như mắm tôm tây, và không phải người phương tây nào cũng biết ăn “mắm tôm tây” *, tương tự như không phải cứ là người Việt Nam thì đều biết ăn mắm tôm ta. Tuy nhiên tác giả công nhận và cảm phục những họa sĩ trẻ hội nhập mau chóng thành công và vững vàng với các phong cách và loại hình nghệ thuật mới du phập vào Việt Nam.

 Bởi tư duy về nghệ thuật design  thấm đẫm tinh than Á Đông như vậy, nên trong khi trình bày các nguyên lý thị giác design, tác giả đã nhấn vào những năng lực thị giác có khả năng phát giác sự bí ẩn của không gian ba chiều và sáng tạo những tác phẩm ngày càng có xu hướng ma thuật. Những kiến giải tri thức thị giác của cuốn sách còn cho thấy những điểm nhìn giả tưởng như điểm nhìn từ những con mắt hư cấu trong tranh siêu thực để soi chiếu và nghệ thuật design giúp người đọc hình dung ra tính đa dạng, biến ảo và không cùng của quỹ nhớ thị giác mà các nghệ sỹ tạo  hình và các nghệ sỹ design có thể khai thác từ nội giới trong quá trình sáng tạo.

 Có thể nói cuốn sách này không chỉ là một “giáo khoa thư” mà còn là công trình đãnghiên cứu, soi chiếu, nghệ thuật design từ tầm cao triết học, từ chiều rộng tâm linh và chiều sâu của tiềm năng nhân loại. Những vấn đề của cảm thụ thị giác được đặt ra từ cái nhìn tác phẩm disign bằng mắt người, mắt Phật và mắt nghệ sỹ để tìm kiếm những nguồn sáng vô tận cho nghệ sỹ design tạo hào quang nghệ thuật bền vững cho những công cụ thuần tuý được sản xuất thủ công ngày xưa, hay sản xuất hàng loạt ngày nay. Hơn thế nữa, cuốn sách đã chỉ ra cho người đọc thấy những bíthuật của nghệ thuật design, những hiệu ứng có tính ma thuật (những thủ thuật bí mật của sáng tạo ảo thị giác) mà nghệ sỹ disign có thể tạo ra khiến ta hình dung về một chiều kích không gian viễn tưởng tồn tại đồng thời ngay trong không gian thực tại. Cái lớn của công trình “Nguyên lý design thị giác” chính là ở chỗ nó đã vượt lên trên nhiệm vụ hệ thống hoá những kỹ năng sáng tạo design trên cơ sở hiểu biết các nguyên lý thị giác để trở thành một công trình nghệ thuật học, nghiên cứu về ngôn ngữ đặc thù của nghệ thuật design và nghiên cứu các thủ pháp sáng tạo những hiệu ứng nghệ thuật đặc thù từ chính những đặc trưng thẩm mỹ tiềm tàng trong nghệ thuật design. Cuốn sách thực sự đã kiến giải thông tuệ những vấn đề cao hơn nhiệm vụ của một giáo khoa thư về thị giác

 Vì sự tiếp cận và trình bày của cuốn sách thật giản dị với ý tứ thông tuệ sáng rõ , dễ hiểu, nên hệ thống những nguyên lý, những thủ pháp, những kỹ năng trình bày trong cuốn sách này được người đọc tiếp thu trên tầm cao hoàn toàn mới lạ mà không hề khó tiếp thu. Giống như các nghệ sỹ của trường phái “ảo giác quang học”, đã đặt những hòn đá, những cục sắt hay những giẻ lau trước gương để tạo thành những chân dung sống động hay những bông hoa rực rỡ trong gương, tác giả đã đặt trước mắt người đọc những hệ thống nguyên lý thị giác và thủ pháp design để tạo nên trong tâm trí người đọc những cách nhìn chân thực, kỳ thú và biến ảo của bộ môn nghệ thuật mới mẻ này.Tư duy của người đọc luôn được kích thích phiêu lưu, được thúc đẩy mở rộng bằng chính tiềm năng văn hóa ẩn tàng trong nội giới người đọc .

 Có thể nói, những suy nghiệm liên tưởng ở tầm mĩ học và triết học của Nguyễn Hồng Hưng đã cho thấy rõ nét tầm ảnh hưởng của nghệ thuật design từ thế giới của các công cụ đời thường thực dụng, vào thế giới của tâm linh nghệ thuật  đầy ẩn mật, thần bí, thiêng liêng. Ở đây không phải chuyện xâm lấn công năng của nghệ thuật design vào các vương quốc phi công năng trần thế, hay chuyện bày vẽ những cuộc thi thiết kế ngai vàng cho Thượng đế, mà là sự thấu cảm cao về ngôn ngữ “nghệ thuật thị giác” của tác giả đã tới mức tạo nên những đường dẫn về sự cộng thông giữa nghệ thuật này với các cõi Trời huyền ảo, cõi đẹp, cõi tâm linh để những tác phẩm design dường như có khả năng mời gọi Chúa Trời hay Đức Phật sử dụng các tác phẩm design ấy cùng với con người. Với  cách tiếp cận vấn đề đã bộc lộ những khát khao mở rộng bến bờ cho nghệ thuật design như vậy, Nguyễn Hồng Hưng đã gây ấn tượng rằng anh còn muốn các  nghệ sỹ design sáng tạo ra những chiếc ghế mà trước khi ta ngồi thì Chúa đã ngồi,  những chiếc xe mà trước khi ta sử dụng thì Phật đã dùng như một Luân xa. Ẩn chứa tâm tư thiêng liêng của các nghệ sĩ thị giác : “Design là phụng sự”.

Các tác phẩm design lý tưởng là sự tồn tại song song của cả trăm phần trăm công năng trùng khít với trăm phần trăm cái đẹp khi phụng sự cuộc đời.  Nghĩa là một giá trị sử dụng tuyệt vời trên hinh thức thẩm mĩ đỉnh cao.  Ước mơ desgn với vương quốc của cái đẹp tự thân  là vĩnh cửu,  không cần đợi đến khi tính công năng của design không hợp với văn minh thời đại nữa, để vĩnh cửu dưới hình thức thẩm mĩ tột đỉnh của một đồ cổ, một hình thức bảo tồn văn hóa nhân loại. Không, design phải là cái đẹp đỉnh ngay từ khi còn mới.

Nói cách khác, công trình “Nguyên lí design thị giác” của Nguyễn Hồng Hưng đã đã thúc đẩy nỗi khát khao sáng tạo những tác phẩm design có CÔNG NĂNG KÉP-vừa đáp ứng những nghiệm vụ của một công cụ trần thế, vừa trở thành  một tác phẩm nghệ thuật độc lập có hồn, mang cảm hứng vĩnh cửu như các tác phẩm âm nhạc, hội hoạ, thi ca...

Tựa như mơ ước mọi vật dụng thông thường đều là kiệt tác nghệ thuật. Hay nói cho lí tưởng design là chỉ có những kiệt tác nghệ thuật mới được mang làm đồ dùng thường hằng cho con người./.

............................................................................................

Chú giải:

Tin tức cụ thể dưới đây cho thấy không phải nguoif phương tây nào cũng chấp nhận “nghệ thuật đương đại”

 Avignon ( Pháp). Trưa ngày chủ nhật 17.04 .2011, hai tác phẩm của nhiếp ảnh gia “hậu hiên đại” người Mỹ Andres SERRANO, trong đó có " Piss Christ"  đã bị một nhóm tín đồ Thiên Chúa giáo đập nát trong một khách sạn tại Avignon, nơi chứa các tác phẩm mỹ thuật của thương gia Yvon Lambert.  Theo  đài radio Europe 1, bốn người giả dạng là khách viếng thăm. Hai người trong bọn  làm bộ gây lộn to tiếng để đánh lạc hướng, để 2 người kia dùng" búa và cuốc"  đập nát 2 tác phẩm. Sau đó cả bọn đồng tẩu thoát. 

Giám đốc viện bảo tàng tư nhân đã đâm đơn kiện lúc chiều cùng ngày, và viện bảo tàng đóng cửa tạm thời. Theo ông giám đốc Yvon Lambert : " Tôi rất đau lòng. 2 tác phẩm bị phá hoại. Chẳng những họ phá tan tành "Piss Christ" mà còn phá luôn tấm ảnh tuyệt vời " Đôi bàn tay của một nữ tu". Sự ngu ngốc của họ thật là thác loạn! "
Bức ảnh " Piss Christ " đã bị phản đối ngay từ lúc đầu cuộc triển lãm.Từ đầu tháng 04, Viện Civitas đã mở chiến dịch phản đối trên site Web defendonslecrucifix.org ( bảo vệ cây thánh giá) thu thập hơn 70.000 chữ ký. Ngày 8.04, Giám mục Avigon , Jean Pierre Cattenoz, tuyên bố :" Sự khả ố của bức ảnh đã xúc phạm sâu xa đến niềm tin của mọi tín hữu "

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578816

Hôm nay

223

Hôm qua

2318

Tuần này

22015

Tháng này

225873

Tháng qua

130677

Tất cả

114578816