Ít nhất có ba động lực khiến Trung Quốc hành động như vậy. Thứ nhất, Trung Quốc muốn tạo được tiếng vang lớn trong việc định rõ các chương trình thương mại bằng cách theo đuổi mục tiêu đầy tham vọng là thành lập một khu vực thương mại ở châu Á—Thái Bình Dương gồm cả Trung Quốc lẫn Mỹ. Thứ hai, để ngăn chặn Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trở thành tâm điểm của những nỗ lực hội nhập kinh tế và cũng như ngăn chặn Mỹ tái khẳng định vai trò lãnh đạo của nước này như là một sức mạnh lớn ở khu vực Thái Bình Dương. Và thứ ba, nhằm giúp Trung Quốc khẳng định vai trò chủ động hơn của mình trong việc soạn thảo các quy định mới của trật tự kinh tế thế giới với một vị thế tương đương với Mỹ. Sự gia nhập muộn màng vào TPP, sau khi Hiệp định này có hiệu lực, sẽ không đem đến cho Trung Quốc nhiều lợi ích, vì phải tuân theo những điều luật do những thành viên khác đưa ra và phải có những nhượng bộ đáng kể để đảm bảo sự gia nhập của mình.
16 nước gặp nhau tại Nhật
Sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp định xuyên hái Bình Dương (TPP), châu Á tiếp tục bắt tay vào thảo luận về Hiệp ước Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Trung Quốc không phải thành viên của TPP nhưng đã đóng vai trò dẫn đầu trong các cuộc thảo luận về RCEP diễn ra trong suốt tuần lễ từ 28/2 hai đến 3/3. Đại diện của 16 nước Châu Á đã gặp nhau tại thành phố Kobe của Nhật Bản, để bàn thảo về một hiệp định quy tụ 10 nước ASEAN và 6 nước mà ASEAN đã ký kết hiệp định thương mại tự do, bao gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Australia, Ấn Độ, Nam Hàn và New Zealand. Quyết định này được đưa ra sau khi Tổng thống Donald Trump tuyên bố rút khỏi TPP. Nhiều người tin rằng việc Hoa Kỳ rút khỏi TPP đã đẩy các thành viên còn lại về phía Trung Quốc, thông qua các hiệp định như RCEP hay Khu vực thương mại tự do châu Á—Thái Bình Dương (FTAAP). Dù cả hai định chế này ban đầu đều không phải là sáng kiến của Trung Quốc, nhưng nhiều người tin rằng Bắc Kinh đang dùng chúng để tạo đối trọng với TPP.
Nếu FTAAP được xây dựng như một hiệp định hoàn toàn mới, kết hợp những đặc điểm của TPP và RCEP thì một hệ thống phân tầng FTA sẽ được hình thành trong khu vực châu Á—Thái Bình Dương, với RCEP, FTAAP và TTP được sắp xếp theo mức độ cam kết tăng dần. Các nền kinh tế trong khu vực khi đó có thể lựa chọn tham gia RCEP, FTAAP hoặc TPP. Như vậy, các nền kinh tế trong khu vực được kỳ vọng sẽ dần dần hội nhập lên mức cao nhất, nhưng mỗi nền kinh tế sẽ có tốc độ hội nhập khác nhau. Tuy nhiên, với tương lai TPP không Hoa Kỳ, các nước buộc phải hào hứng hơn với những định chế thay thế. Ngoại trưởng Peru Eduardo Ferreyros cho biết ngay từ tháng Tám năm ngoái, Peru đã chủ động trao đổi với Bắc Kinh về việc tham gia đàm phán RCEP. Một thành viên khác của TPP là Chile cũng có động thái tương tự. Ngay cả các đồng minh thân cận của Hoa Kỳ trong TPP là Australia và Nhật Bản cũng tỏ ý thiên về RCEP, dù trước đây hai nước này chỉ tham gia RCEP theo kiểu “đặt gạch giữ chỗ”. Thủ tướng Abe thừa nhận: “Nếu TPP bị hủy bỏ, tất nhiên trọng tâm chú ý sẽ dịch chuyển về phía hiệp định do Trung Quốc dẫn dắt”.
RCEP ban đầu là sáng kiến của ASEAN, nhằm thúc đẩy tự do thương mại với các đối tác quan trọng. Theo kế hoạch, những mảng bao phủ chính của RCEP gồm thương mại, hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, hợp tác kinh tế/kỹ thuật, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, giải quyết tranh chấp, thương mại điện tử và các vấn đề của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tóm lại, RCEP chủ yếu tập trung vào việc cắt giảm thuế quan và tự do hóa dịch vụ, không hướng tới những mục tiêu cao hơn như bảo vệ môi trường hay cải thiện điều kiện kinh doanh. Một điểm khác biệt nữa là Trung Quốc được cho là nền kinh tế quan trọng nhất trong RCEP. Hiện tại, RCEP đã đi tới vòng đàm phán thứ 15 và kỳ vọng sẽ hoàn tất vào giữa năm 2017. Thực chất RCEP cũng đầy tham vọng. Chẳng hạn, đây là lần đầu tiên một hiệp định thương mại kết nối 2 quốc gia đông dân nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ; cũng là lần đầu tiên kết nối 2 nền kinh tế lớn nhất châu Á là Trung Quốc và Nhật Bản. Trong khi đó, FTAAP có mục tiêu tham vọng hơn cả, vì nó bao phủ tất cả thành viên của TPP lẫn RCEP. Tuy nhiên cũng như RCEP, nó ít các mục tiêu phát triển hơn so với TPP. Dự kiến đến tận năm 2025 FTAAP mới hoàn tất các thỏa thuận.

Khoảng trống được lấp đầy?
Nhiều nước thành viên RCEP đã sẵn sàng cho thỏa hiệp, nhưng quá trình đàm phán hiệp định này vẫn vướng phải một số bất đồng liên quan tới vấn đề tự do thuế quan. ASEAN, Nhật Bản và Australia hy vọng RCEP cắt giảm thuế quan trên diện rộng hơn, nhưng một số thành viên như Ấn Độ, Hàn Quốc và Trung Quốc thì ngược lại. Thay vào đó, những nước này còn đề xuất cách tiếp cận cắt giảm thuế quan có chọn lọc dựa trên những thỏa thuận thương mại tự do đã tồn tại trước đó của mỗi quốc gia. Như vậy, RCEP cũng có những vấn đề riêng của mình và gặp không ít khó khăn cần phải giải quyết. Các đồng minh của Mỹ tại khu vực châu Á—Thái Bình Dương đang trông chờ ở Trung Quốc với những hứa hẹn về một liên kết thương mại mới. Trong khi đó, ông Trump đang có xu hướng tăng cường quân sự của mình tại khu vực với việc tăng nhân lực hải quân lên 540 nghìn người và 350 tàu ngầm nhằm đối trọng với Trung Quốc. Ngay đến giờ này nhiều ý kiến chuyên gia vẫn cho rằng, ông Trump đang có những bước đi sai lầm, đáng ra ông vẫn phải tiếp tục các mối quan hệ với đồng minh, duy trì TPP mới là những việc ông Trump cần ưu tiên.
Một loạt các sáng kiến thương mại của Trung Quốc tại APEC liệu có là điềm báo của sự xuất hiện một trật tự kinh tế quốc tế mới do Trung Quốc dẫn đầu? Tình hình là vẫn chưa ngã ngũ, vì chính sách ngoại giao thương mại của Trung Quốc có tính chất "phản ứng", chứ không phải "xét lại nguyên trạng". Trung Quốc thường chỉ có những động thái mang tính phòng thủ, ví dụ như trước đây đồng ý đề nghị đàm phán hiệp định thương mại giữa các nước ASEAN + 6 (ngày nay là RCEP) của Nhật Bản. Hơn nữa, sự ủng hộ FTAAP của Trung Quốc đã đáp ứng được lợi ích quốc gia cốt lõi của Mỹ: không dựng lên bất cứ đường ranh nào trong khu vực Thái Bình Dương. Nhưng không nên nhầm lẫn rằng mục đích Trung Quốc đang tìm cách gia tăng ảnh hưởng của mình đối với các vấn đề kinh tế quốc tế là nhằm phù hợp hơn với thứ hạng GDP của mình trên toàn cầu. Khi Trung Quốc tìm kiếm một vai trò lớn hơn trong việc quản lý nền kinh tế toàn cầu, sự kiểm soát chặt chẽ đối với khả năng lãnh đạo của nước này cũng sẽ nảy sinh.
Đặc biệt là hai câu hỏi lớn về tiềm năng của Trung Quốc trong việc xây dựng một chế độ thương mại thay thế. Đầu tiên, liệu Trung Quốc có thể trở thành một tâm điểm cho việc hội nhập kinh tế? Vai trò ưu việt của Trung Quốc trong dòng chảy thương mại châu Á (đóng vai trò là đối tác thương mại hàng đầu của nhiều nước trong khu vực) được biết đến rộng rãi. Nhưng phần lớn các giao dịch thương mại này là thương mại thành phần, và Trung Quốc vẫn chỉ đóng góp một cách khiêm tốn đối với giá trị gia tăng của các sản phẩm. Câu hỏi quan trọng là liệu Trung Quốc có thể cân bằng chiến lược phát triển hướng tới nhu cầu trong nước và phát triển các công ty hàng đầu có khả năng tạo ra các chuỗi cung ứng cho nước này trong khu vực. Liệu Trung Quốc có thể phát triển từ vị trí hiện tại - một bánh răng trung tâm trong chuỗi cung ứng toàn cầu, thành nền kinh tế dẫn đầu ở khu vực?
Tiếp theo, liệu Trung Quốc có thể đưa ra các giải pháp đặc biệt nhằm giải quyết những thách thức của việc hội nhập sâu hơn? Thương mại chuỗi cung ứng đã khiến việc đàm phán các quy định phía sau biên giới nhằm đảm bảo quyền sở hữu và cải thiện môi trường kinh doanh (tự do hóa dịch vụ, chính sách cạnh tranh, minh bạch các quy định,...) trở nên quan trọng hơn. Tuy nhiên, nhiều nước đang phát triển đã phản đối chương trình nghị sự của WTO + vì cho rằng chương trình nghị sự này đã xâm phạm đến không gian chính sách của họ. Liệu Trung Quốc có thể đưa ra giải pháp để thoát khỏi tình trạng bế tắc trên? Đàm phán các thỏa thuận thương mại thông thường với việc loại trừ tràn lan và các quy tắc lỏng lẻo sẽ tạo ra lợi ích chính trị cho Trung Quốc, nhưng sẽ không đem lại một mô hình hiệu quả để đáp ứng các nhu cầu thể chế cho việc chi phối và thống trị chuỗi cung ứng và thương mại quốc tế. Xem vậy cho thấy tầm nhìn của Trung Quốc đối với một chế độ thương mại của thế kỷ XXI vẫn còn để ngỏ./.
[1] Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (Tiếng Anh: Regional Comprehensive Economic Partnership, viết tắt RCEP) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) bao gồm 10 nước thành viên ASEAN và 6 quốc gia mà ASEAN đã ký hiệp định thương mại tự do (Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand) được kỳ vọng sẽ hoàn tất việc ký kết trước năm 2015, hướng tới mục tiêu hình thành Hiệp định thương mại tự do Đông Á (EAFTA) và khởi đầu cho Đối tác kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA). Buổi thảo luận đầu tiên diễn ra tại hội nghị cấp cao ASEAN 2011 tại Indonesia, tiến trình đàm phán RCEP chính thức bắt đầu tại hội nghị cấp cao ASEAN 2012 tại Cambodia.
[2] Ý tưởng thành lập Khu vực Thương mại Tự do châu Á – Thái Bình Dương (Tiếng Anh: Free Trade Area of the Asia-Pacific viết tắt FTAAP), có từ năm 1994 và đã được tái khẳng định vào năm 2006. Lúc bấy giờ, 21 nền kinh tế thành viên APEC đã nhất trí sẽ xem xét triển vọng dài hạn của FTAAP. Trong năm 2010, các nhà lãnh đạo APEC đã cùng nhau đưa ra “Lộ trình hướng tới FTAAP” (Pathway to FTAAP), trong đó nêu rõ rằng các nền kinh tế thành viên của APEC sẽ theo đuổi một hiệp định tự do thương mại toàn diện trong khu vực, thông qua việc phát triển các hiệp định hiện có hoặc đang trong tiến trình đàm phán như ASEAN+3, ASEAN+6 (bây giờ là RCEP) và TPP.