Sau khi thành lập Hội Duy tân năm 1904, Hội giao cho Phan một nhiện vụ quan trọng: bi mật sang Nhật Bản cầu viện. Được sự dẫn đường của Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu cùng một đệ tử của mình là Đặng Tử Kinh sang Nhật Ban cầu viện. Trong mắt của chủng tộc da vàng đang bị thực dân phương Tây đô hộ, Nhật Bản nổi lên như người anh cả sau khi đánh thắng Nga Sa hoàng. Đại diện tiêu biểu của nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônexia, Phillipin, Ấn Độ... lần lượt tìm đến Nhật học tập kinh nghiệm. Việt Nam không đứng ngoài trào lưu chung đó và góp phần tạo nên một “Châu Á thức tĩnh”.
Cầu viện không thành, Phan Bội Châu theo lời khuyên của Lương Khải Siêu, một nhà cách mạng Trung Hoa đang sống lưu vong ở Nhật Bản, chuyển sang cầu học. Phong trào Đông du phát tích từ đây. Phong trào Đông du thực chất là đưa thanh thiếu niên yêu nước Việt Nam sang Nhật du học nhằm chuẩn bị đội ngũ cách mạng có trí tuệ, có nhân cách cho phong trào giải phóng dân tộc nước ta. Cả nước hưởng ứng nhiệt liệt, đặc biệt từ khi Hoàng thân Cường Để, cháu đích tôn sáu đời của vua Gia Long, gửi Kính cáo đồng bào Lục tỉnh và Khuyến cáo quốc dân kêu gọi dân Nam Kỳ hưởng ứng phong trào Đông du bằng cách gửi con em sang Nhật du học và trợ giúp kinh tài cho phong trào. Dân Nam Kỳ, dân hưởng lộc của chúa Nguyễn và triều Nguyễn, đã mạnh mẽ đáp lời kêu gọi của Hoàng thân Cường Để. Trong số 200 du học sinh Việt Nam tại Nhật có hơn nữa là thanh thiếu niên Nam Kỳ. Khi số lưu học sinh đông lên, việc quản lý trở thành một vấn đề quan trọng được đặt ra và cần phải giải quyết một cách riết róng với nhưng người khởi xướng phong trào. Giữa năm 1907, Phan Bội Châu cho lập Việt Nam Công hiếnHội nhằm mục đích quản lý lưu học sinh học tập, sinh hoạt và giữ gìn mối quan hệ thân thiếtvới cư dân bản địa. Kỳ ngoại hầu Cường Để làm Hội trưởng, Phan Bội Châu làm Tổng lý kiêm Giám đốc, thực chất là người chỉ đạo tổ chức này. Cơ cấu tổ chức của Hội gồm 4 bộ: Bộ Kinh tế, Bộ Kỷ luật, Bộ Giaotế và Bộ Văn thư để chỉ đạo từng mặt hoạt động của lưu học sinh. Hệ thống tổ chức, bố trí nhân sự và điều hành hoạt động của “cộng đồng quốc dân” yêu nước tại Nhật Bản như chính cụ Phan đã từng mong muốn: “ Chúng tôi dựng lên Tân Việt Nam Công hiến, bắt chước làm như một chính phủ lâm thời của nước Nam ở hải ngoại. Tuy cách thức sắp xếp còn sơ sài, nhưng có ảnh hưởng tới dân khí trong nước mau lắm” (1)
Công hiến Hộitổ chức những buổi sinh hoạt chính trị vào sáng Chủ nhật hàng tuần, nghe Hội trưởng và Tổng lý huấn thị, khuyến cáo những vấn đề liên quan đến cuộc sống, học tập, tu dưỡng và quan hệ với người bản địa. Có khi Tổng lý tổ chức bình giảng nội dung một cuốn sách, một chủ thuyết chính trị phổ biến hiện thời nhằm nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị, củng cố lòng yêu nước. Phần cuối mỗi buổi sinh hoạt chính trị thường giành thời gian cho lưu học sinh tự bộc bạch những ý kiến, những quan điểm về một vấn đề mang tính thời sự nào đó hoặc kể những câu chuỵên đã xảy ra với minh, hoặc nêu lên những khó khăn, những thuận lợi trong cuộc sống nơi xứ người. Qua những buổi sinh hoạt chính trị đó, lưu học sinh Việt Nam tại Nhật không bao giờ quên hai câu chuyện được người trong cuộc chứng kiến, trực tiếp tham gia và kể lại. Nguyễn Thái Bạt (2), khi xuất dương sang Nhật du học đã gặp Phan Bội Châu ở Hương Cảng và đã gây ấn tượng lớn với Phan: “ trong 7 người, duy cóông Nguyễn Thái Bạt tình nguyện điăn xin mà học. Tôi chỉ cấp cho ông 22 đồng và đủ phí đi tàu qua Nhật Bản. Ông hăng hái từ biệt ra đi...”(3). Và khi thành lập Công hiến Hội ông được Phan đưa vào làm Ủy viên Bộ Giao Tế. Chính Phan đã khuyến khích ông kể câu chuyện của mình.
Chuyện kể rằng, lộ phí chỉ đủ đi tàu nên ông đã từng đi xin ăn, có khi đói lã và bị ngất xỉu trên đường . Ông được bác sĩ Nhật Bản là Asaba Sakitaro (4) mang về nuôi nấng trong nhà. Khi sức khỏe được hồi phục, bác sĩ tốt bụng người Nhật đó nghe tin Phan Bội Châu và những người đồng hương của Cụ ở Tôkyôđang thành lập Hội Việt Nam Công hiến, Nguyễn Thái Bạt xin phép bác sĩ lên Tôkyôđể tham gia. Asaba không những vui mừng, mà còn cho tiền để anh theo học Đồng văn thư viện, là trường hocphổ thông và ngoại ngữ cho lưu học sinh Việt Nam và Trung Quốc.
Phan Bội Châu đã lắng nghe câu chuyện đầy xúc động đó và khuyên Thái Bạt tiếp tục giử mối quan hệ với bác sĩ người Nhật và tự nhủ mình có dịp nào đó, ông sẽ thay mặt Hội về quê nhà bác sĩ Asaba Sakitarôđể cảm ơn tấm lòng hào hiệp của bác sĩ.
Câu chuyện thứ hai liên quan tới cái chết đầy thương tâm nhưng tràn trề khí phách của một lưu học sinh Nghệ An tại Tôkyômà thanh thiếu niên Việt Nam đang du học ở Nhật Bản thời đó đều biết. Đó là cái chết bi thương của Trần Đông Phong (5). Số là năm 1908, một phái đoàn phụ huynh Nam Kỳ do ông Nguyễn Thần Hiến dẫn đầu, sang thăm. Gặp lại người đồng chí, đồng tâm trong chuyến Nam du năm nào, Phan Bôi Châu hết sức phấn chấn và đích thân dẫn đoàn đi thăm các cơ sở học tập và sinh hoạt của lưu học sinh, đặc biệt những nơi có lưu học sinh Nam Kỳ. Trở về Nam Kỳ, ông Nguyễn Thần Hiến tiến hành vận động trong giới giàu có Nam Kỳ gửi con em du học và tài chính cho phong trào. Cùng với uy tín của Hoàng thân Cường Để, do vậy, sự hưởng ứng phong trào Đông du ở Nam Kỳ càng mạnh hơn Trung, Bắc Kỳ và được thể hiện không chỉ ở số lượng lưu học sinh (bằng cả số lượng Trung, Bắc cộng lại), mà cả tài chính. Có lúc lưu học sinh Trung, Bắc sống nhờ vào những đồng tiền quên góp được từ Nam Kỳ gửi sang. Cái điều tưởng như bình thường đó lại là bất thường trong suy nghĩ của một số lưu học sinh có lòng tự trọng Xứ Trung Kỳ, dẫn đến cái chết bi thương của lưu học sinh Trần Đông Phong, quê Nghệ An. Trước khi tự kết liễu đời mình, Trần Đông Phong đã để lại một lá thư tuyệt mệnh trong cuốn sổ dấu trước bụng:
“ Nhà tôi giàu có, cả tiền với thóc, kể đến hàng vạn, mà gần đây học phí trong trường chỉ là nhờ Nam Kỳ cấp cho anh em, tôi đã nhiều lần viết thư về nhà khuyên cha tôi bắt chước làm như Trương Tử Phòng phá sản vì nước, cha tôi không trả lời. Tôi nghĩ tôi là con một nhà giàu, xấu thẹn với anh em quá nên tôi phải tự vẫn cho cha tôi biết chí tôi và cũng để tạ tội với anh em...
“ Nhà tôi giàu có nhưng đất nước có bị diệt vong cũng không giúp được gì thì tôi còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ nữa”.( 6)
Chúng ta trở lại với câu chuyện mà đích thân Nguyễn Thái Bạt kể lại cho Phan Bôi Châu và lưu học sinh Việt Nam trong những buổi sinh hoạt chính trị sáng Chủ nhật hàng tuần của Công hiến Hội. Giữa năm 1907, Phan Bội Châu được Nguyễn Thái Bạt dẫn đường về quê nhà bác sĩ Asaba Sakitarôthăm và cảm ơn lòng nghĩa hiệp của bác sĩ. Bên những chén rượu hàn huyên trong bữa cơn đãi khách của gia đình bác sĩ, Phan Bội Châu và Asaba Sakitarô, hai con người cùng sinh một năm, ở hai đất nước xa lạ, lúc bằng miệng, khi bút đàm, trao đổi, sẻ chia những tư tưởng, tình cảm của những trí thức vì đại nghĩa của dân tộc, bổng dưng trở nên đôi bạn thân thiết và hơn nữa là người cộng sự.
Được biết Asaba Sakitarôsau khi tốt nghiệp khoa Y, ông có ý định sang Đức tiếp tục nghiên cứu để nâng cao trình độ, nhưng do phổi yếu, ông đành bỏ ý định du học và ở lại mở bệnh viện giúp bà con trong vùng. Có lẽ vì thế mà ông có thiện cảm với lưu học sinh và phong trào du học Nhật Bản của thanh thiếu niên Việt Nam. Ông làm việc và trở nên nổi tiếng là một bác sĩ có tay nghề giỏi, nhân hậu, được dân làng kinh mến. Người trong vùng kháo với nhau rằng nếu chưa được bác sĩ Asaba Sakitarôkhám thì chưa nhắm mắt yên được.
Phong trào Đông du đang tiến triển một cách tốt đẹp, có hiệu quả đột ngột phải dừng lại bởi Hiệp ước Pháp – Nhật có hiệu lực vào năm 1909(7). Theo Hiệp ước đó, lưu học sinh Việt Nam phải rời khỏi nước Nhật. Trước tình thế đó, Phan Bội Châu giải quyết vấn đề lưu học sinh theo ba hướng: 1) Cho phần đông lưu học sinh Nam Kỳ về nước (Thống đốc Nam Kỳ buộc phụ huynh gọi con em về nước); 2) Theo Phan Bộ Châu và Cường Để về Trung Quốc, Xiêm La hoạt động, học tập; 3) Một số có điều kiện thì “mai danh ẩn tích” , ở lại Nhật tiếp tục học tập thành tài.
Để giải quyết tốt đẹp vấn đề trên, Hội Công hiến phải có một loạt những điều kiện mà trước hết là tài chính. Lúc này, tài chính trong tay Hội trưởng đã cạn kiệt. Phan Bội Châu khuyên những lưu học sinh có mối quan hệ tốt với người Nhật viết thư cậy nhờ giúp đỡ của họ. Còn Phan Bội Châu, thông qua Nguyễn Thái Bạt, viết thư gửi bác sĩ Asaba Sakitarôcậy nhờ sự giúp đỡ trong lúc khó khăn. Thư gửi đi, Phan hồi hộp đợi chờ sự phản hồi. Không ngờ, thư gửi đi buổi sáng, buổi chiều đã có hồi âm tốt lành. Bác sĩ Asaba Sakitarôđã gửi cho cụ Phan một khoản tiền 1.700 yên (8) kèm những lời chứa chan tình cảm: “ Nhặt nhạnh trong nhà chỉ còn có thế, tạm thời gửi trước. Lần sau nếu cần, đừng ngại, cứ lên tiếng. Tôi sẽ làm những gì có thể làm được”. Biết rằng tiền lương hàng tháng của Hiệu trưởng Trường Tiểu học Higashiasaba là 18 yên, món tiền đó có giá trị biết giường nào, to biết giường nào. Nhưng cái lớn lao nhất, cái giá trị nhất nằm ở tấm lòng người cho. Cầm lá thư và khoản tiền trong tay, Phan Bội Châu không cầm được lòng mình, rơi lệ. Trong Phan Bội Châu Niên biểu, Cụ ghi lại câu thơ sau để nói lên nổi vui mừng khôn xiết của cụ: Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ/ Liễu ám hoa minh biệt hữu thôn, nghĩa là Non cùng nước tận, ngờ không lối/ Liễu lấp hoa lòe thấy hướng ra. Cụ Phan đã dùng số tiền đó thu xép cho một só lưu học sinh rời nước Nhật, nôi nấng những người còn lại cho đến khi rời nước Nhật, góp một ít tiền cho Hội Điền Quế Việt Liên minh, dùng một khoản để in 3.000 bản cuốn Hải ngoại huyết thư bàng 3 thứ tiến (chữ Hán, chữ Nôn và chữ Quốc ngữ), in 1.000 bản cuôn Việt Nam quốc sử khảo và cuốn Trần Đông Phong truyện. Trước khi rời Nhật Bản, ngày 8/3/1909, Phan Bội Châu đến Kôfutsu để chào Asaba và cảm ơn tấm lòng hào hiệp của bác sĩ. Chủ khách nâng chén rượu mừng, hẹn ngày tái ngộ và chia tay trong vội vã. Chắc Cụ Phan không ngờ đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng. Trong Phan Bội Châu niên biểu, Cụ đã nhớ lại: “ Khi mới vào cửa, Thái Bạt giới thiệu tôi với tiên sinh, tôi chưa kịp nói tạ ơn, tiên sinh vội vàng dắt tay tôi kéo vào nói chuyện, chốc bày cơm rượu ra... Khi tiên sinh nói chuyện với tôi, rất khinh bỉ chính khách Nhật Bản, tưc như ông Đại ôi, Khuyễn Dưỡng Nghị, tiên sinh cũng không them nhắc tới, nói với tôi rằng: “ Bọn nó đối với các ngài, chính là nghề tay trái của bọn âm mưu dã tâm mà thôi” (9). Năm sau, và ngày 25/9/1910, Asaba Sakitarô mất tại nhà riêng vì bệnh lao phổi.
Tháng 5 năm Đại chính thứ sáu (1917), sau khi ra khỏi nhà tù Quảng Đông, Phan Bội Châu bí mật sang Nhật thăm Kỳ Ngọai hầu Cường Để và được biết bác sĩ Asaba Sakitarô, ân nhân của phong trào Đông du đã mất năm 1910, tức sau khi Cụ rời nước Nhật hơn một năm. Chưa có gì đền đáp tấm lòng nghiệp hiệp của ân nhân, cụ Phan đến tận quên hương, trước nấm mồ thắp nén hương và hứa năm sau quay lại dựng bia tri ân.
Theo đúng lời hứa trước nấm mồ của ân nhân, năm 1918, Phan Bội Châu đưa theo Lý Trọng Bá (10), một người mai danh ở lại và đang học tại Trường Đại học Công nghê ở Nagôya, quay lại, trình bày với vị trưởng thôn nghe về kế hoạch làm Bia Tri ân bác sĩ Asaba Sakitarô. Nghe xong, trưởng thôn cảm động vô cùng. Trưởng thôn biết chắc Phan Bội Châu, kẻ hàn sĩ, trong túi không có mấy tiền nên có sáng kiến huy dộng sức người, sức của trong dân làng giúp Phan thực hiện ý tưởng cao đẹp đó. Trong một cuộc họp với các bậc phụ huynh Trường Tiểu học của làng, ông Trưởng thôn OkamôtôSanjirôthưa với các bậc phụ huynh rằng hai người này (đưa tay chỉ Phan Bội Châu và Lý Trọng Bá) vượt ngàn dặn tới đây để dựng Bia Tri ân cho thầy Asaba Sakitarô, chúng ta nên giúp đỡ hai ông. Tiếng vỗ tay đồng tình vang lên. Công việc tiến hành khẩn trương trong một tháng. Tấm bia đã tạo tác xong và ông Ốsugi Kyôkurei khắc chữ Hán của Phan Bội Châu lên bia đá. Bia cao 2,7m, rộng 0,87m được đặt trên một bệ đá cao trên 1m, dựng trong khuôn viên chùa Giôrin, cạnh ngôi mộ của bác sĩ Asaba Sakitarô. Tấm bia tri ân hội tụ ý tưởng cộng 100 yên của Phan Bội Châu và công sức của dân làng Umeyama. Hôm khánh thầnh Bia Tưởng niệm cả dân làng tập trung mở tiệc ăn mừng. Hôm dựng bia có thêm một người Việt Nam đến dự nữa đó là Nguyễn Thái Bạt, tức Lý Huy Lượng.
Sự kiện đó được Lý Trọng Bá ghi lại bằng một tấm hình làm kỷ niệm mà bây giờ cùng với tấm bia là những vật chứng duy nhất và thuyết phục ghi nhận và khẳng định Phan Bội Châu và Asaba Sakitaôtrở thành những người đặt viên đá tảng cho tình hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản(11).
Mặt trước tấm bia khắc chữ Hán đã được ông Gôto Kinpei dịch sang tiếng Nhật và ông Chu Xuân Giao dịch sang tiếng Việt như sau:
“ Chúng tôi vì nạn nước mà bôn tẩu tới đất Phù Tang, Ngài nể thương cái chí ấy mà cứu giúp trong cơn khốn quẫn chẳng màng đến ơn trả ngày sau, thực là nghĩa hiệp xưa nay hiếm có. Than ôi! Nay chúng tôi sang mà đâu thấy, trời xanh, biển thẳm, cúi ngưỡng nào biết tỏ cùng ai, đành ghi mối xúc cảm nơi bia đá. Lời minh rằng:
Hào hiệp chưa từng có xưa nay, nghĩa lớn khắp cả trong ngoài, Ngài ban thời như trời lớn, tôi nhận thời như biển đầy.
Chí tôi chưa thành mà Ngài chẳng đợi, thăm thẳm lòng này, ngàn thu ghi tạc.
Ngày Xuân năm Mậu Ngọ ( Đại Chính năm thứ 7, tức năm 1918).
Việt Nam Quang phục Hội đồng nhân cẩn chí”
Mặt sau tấm bia ghi:
“Tháng 3 năm Đại Chính thứ 7 (1918). Người tán thành, ÔkamôtôSanjirô, ÔkamôtôSetsutarô, Asaba Yôshiô” (12)
Bia Tri ân bác sĩ Asaba Sakitarôcủa Phan Bội Châu sừng sững đứng đó đến nay đã 99 năm bất châp nắng mưa, giông bão và sẽ trường tồn trong lịch sử hai nước Việt Nam và Nhật Bản. Tấm Bia đá sừng sững đó cũng là cột mốc đầu tiên đánh dấu sự hình thành mối quan hệ thân hữu giữa hai nướcdù trái đất này có dâu bể đổi thay.
Chú thích.
1. Phan Bội Châu. Toàn tập, NXB Thuận Hóa, Huế, 1990, tập3, tr., 198.
2. Nguyễn Thái Bạt, còn có tên là Lý Huy Lượng, Trong nhà Asaba hiện giờ đang còn một tầm ảnh của Lý Huy Lượng đề “ Tặng Asaba Sakitaro tiên sinh, Minh Trị tứ thập niên” (1907)
3. Phan Bội Châu. Toàn tập, tập 6. Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990, tr, 137.
4. Asaba Sakitaro sinh ngày 1 tháng 3 năm 1867( hơn Phan Bội Châu khoảng 9 tháng ), làng Umeda, quận Iwata, phố Asaba, trong vùng Umeyama thuộc huyện Shizuoka. Sau khi tốt nghiệp trung học ở Daiichi Kôto Chugakko năm 1890, ông theo học y khoa ở Đông Kinh Đế quốc Đại học. Sau khi tốt nghiệp, ông mở bệnh viện ở quê nhà để gíp đở dân làng và những người ngheo trong vùng. Ngày 25/9/1910. Ông mất tại nhà riêng vì bệnh lao phổi.
5. Trần Đông Phong (1887-1908) sinh trưởng trong một gia đình giàu có ở làng Di Luân, xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, Nghệ An. Thời trẻ hào phóng, thích quảng giao, ghét những kẻ cậy quyền thế ức hiếp dân lành. Biết tin Phan Bội Châu qua Nhật cầu viện Trần Đông Phong đã tặng Phan 100 quan tiền làm lộ phí. Năm 1907 tìn đường sanhg Nhật theo Phan...Đám tang tiễn đưa Trần Đông Phong về nơi an nghĩ cuôi cùng có sự tham gia đông đủ và đầy nước mắt của toàn thể lưu học sinh Việt Nam và Trung Quốc cùng với quan chức địa phương. Mộ Trần Đông Phong hiệ năm trong dãy 1-4A-14, Nghĩa trang Zoshigaya Reien, tp Tokyo, Nhật Bản.
6.Phan Bội Châu. Toàn tập. Tập 6, Sách đã dẫn, tr., 188-189.
7. Phan Bội Châu. Sđd, tr., 113.
8. Tương đương khoảng 30 triệu yên ngày nay, tức hơn 200 nghìn đô la Mỹ.
9. Phan Bội Châu. Sdd. Tr.,184
10. Lý Trọng Bá tên thật là Lưu Yến Đan. Khi Nhật trục xuất lưu học sinh Việt Nam ra khỏi nức Nhật, ông trốn ở lại, lấy quốc tịch Trung Hoa, được học bổng, lúc đó đang theo học Trường Đại học Đế quốc Công nghiệp Nagoya, tiếp đó lên học tại Teikuku Tokyo, đậu Tiến sĩ khoa Công nghiệp. Ông giỏi thơ, nhạc và chơi vĩ cầm raaaaast hay. Ông thường hát bài “Sakura, Sakura”. Lý Trọng Bá đích thân đưa Phan Bội Châu tới gặp trưởng thôn. Trong thời gian làm Bia Tri ân, Phan và Lý lúc tá túc tại nhà Asaba Yoshio, lúc ở với Lý ở Nagoya. Lúc ở lại nhà ông Asaba là đầu tháng 3, hồng mai và bạch mai trước cửa sổ nhà ông nở hoa, Lý Trọng Bá tức cảnh đề bài thơ thất ngôn tứ tuyệt sau đây lên quạt (đang còn lưu giử ở nhà người cháu của Sakitaro) để tặng ông Asaba Yoshio:
Hứu mại vô tuyết bất tinh thần
Hữu tuyết vô thi dục liễu nhân
Nhật mộ thi thành thiênhuwuj tuyết
Dữ mai tính tuyết phập phần xuân.
Thiền vũ Nghĩa hùng huynh
Đệ Lý Trọng Bá
Đại chính thất niên xuân.
Tạm dịch:
Có mai không tuyết thiếu tinh thần
Có tuyết không thơ thấy tục thân
Ngày xế, đề thơ, trời lại tuyết
Có mai cùng tuyết, thập phần Xuân.
Kính tặng anh Asaba Yoshio
Em lý Trọng Bá
Xuân 1918.
( Theo Vĩnh Sính. Phan Bội Châu và Asaba Sakitaro..Trong cuốn Việt Nam và Nhật Bản Giao lưu Văn hóa, Nxb Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh, 2001, tr., 217-230.
11. Qua bao thăng trầm, năm 1973, hai nước Việt Nam và Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao và từ trên viên đá tảng mà Phan Bội Châu và Asaba Sakitaro đă đặt đầu thế kỷ XX, tòa lâu đài hữu nghị Việt - Nhật được hình thành và kiện toàn.
12. Tác giả đã chép nguyên văn chữ Hán và bản dịch tại khu tưởng niện Phan Bôi Châu trong chuyến thăm năm 2011 sau khi Nhật Bản hứng chụi trận động đất , sóng thần và sự cố nhà máy điện nguyên tử .
Cầu viện không thành, năm 1905 Phan Bội Châu chuyển sang cầu học (trong lịch sử Việt Nam gọi là Phong trào Đông du, đưa thanh thiếu niên yêu nước sang Nhật bản du học, đào tạo nhân tài cho tương lai). Trong những năm tháng sống ở Nhật Bản, Phan Bội Châu đã giáo dục thanh thiếu niên yêu nước Việt Nam ngoài việc chăm chỉ học tập, phải quan tâm xây dựng tình bằng hữu với người dân Nhật Bản. Trường hợp Nguyễn Thái Bật và bác sĩ Asaba Sakitarô là một ví dụ điển hình về tình bằng hữu giữa người Việt và người bản địa. Phan Bội Châu khuyên Nguyễn Thái Bật giữ quan hệ với bác sĩ Asaba Sakitaro và Nguyễn Thái Bật đã làm theo lời khuyên đó.
Phong trào Đông du đang tiến triển tốt đẹp ngoài mong đợi (khoảng 200 thanh thiếu niên Việt Nam sang Nhật du học quân sự và văn hóa). Vì lợi ích dân tộc của minh, Nhật, Pháp ký với nhau một hiệp ước, theo đó Nhật Bản trục xuất du học sinh Việt Nam khỏi nước Nhật. Một tình thế nguy cấp đã diễn ra. Phan
Bội Châu khai thác triệt để mối quan hệ tốt đẹp giữa lưu học sinh Việt Nam và người dân Nhật Bản. Phan đã gửi thư tới bác sĩ Asaba Sakitaro nhờ sự giúp đỡ khẩn cấp. Không ngần ngại bác sĩ lập tức đáp lại bằng sự hào hiệp của minh như một người cộng sự.
Đầu năm 1909, Phan Bôi Châu phải rời Nhật. Năm sau bác sĩ Asaba Sakitaro qua đời. Năm 1917, Phan bí mật trở lại Nhật thăm Hoàng thân Cường Để và những người Việt đang ẩn dật học hành, làm việc trên đất Nhật. Lúc đó, ông mới biết bác sĩ đã qua đời và bên nấm mộ bác sĩ, Phan thắp nến hương và hứa với ông năm sau quay lại dựng bia tri ân lòng nghĩa hiệp của bác sĩ Asaba Sakitaro. Năm 1918, với 100 yên và sự giúp đỡ nhiệt tâm của những người quản lý và dân làng, Tấm bia Tri ân lòng nghĩa hiệp, cao thượng của bác sĩ Asaba Sakitaro đã được dựng lên trong khuôn viên chùa Jorin, thuộc làng Umeyama, thành phố Fukuroi, tỉnh Shizuoka.
Tấm bia Tri ân đó như nền tảng của tình hữu nghị Việt –Nhật mà Phan Bội Châu, nhà cách mạng Việt Nam và bác sĩ Asaba Sakitaro tạo nên.