Những góc nhìn Văn hoá

Khái niệm "hành động" trong triết học của Hannah Arendt (2)

Sự liên kết chặt chẽ giữa hành động và lời nói

« Nếu hành động, trong tư cách là sự khởi đầu, tương ứng với sự sinh ra ở đời, nếu nó thực tại hoá thân phận người ở phương diện sinh thành, thì lời nói tương ứng với tính cá thể hoá, nó thực tại hoá thân phận người ở phương diện số nhiều, có nghĩa là con người sống như một cá thể riêng biệt và duy nhất giữa nhiều đồng loại bình đẳng với nó. »[1]

Arendt thấy có sự liên kết chặt chẽ giữa hành động và lời nói, và điều này liên quan tới việc trả lời cái câu hỏi mà bất kỳ một người mới vào đời nào cũng tự đặt ra cho mình : « Mi là ai ? » (Qui es-tu ?, Who are you ?). Cái “ai” này của mỗi người được hiển lộ thông qua lời nói và hành động. Như vậy, có thể thấy, đối với Arendt, lời nói và hành động quan trọng ngang nhau trong việc thể hiện bản thân, thể hiện sự độc đáo, riêng biệt, của một người nào đó. Nghĩa là lời nói và hành động giúp chúng ta bộc lộ chính mình.

Mối liên hệ giữa lời nói và hành động được Arendt miêu tả như sau : Lời nói cho phép bộc lộ bản thân dễ dàng hơn là hành động. Và ta nhận thấy một sự khởi đầu nào đó qua hành động dễ dàng hơn là qua lời nói. Dù vậy, « nếu hành động không kèm theo lời nói thì hành động có thể đánh mất khả năng bộc lộ bản thân, và nó cũng có thể đánh mất chủ thể hành động (sujet). Sẽ không còn là những con người mà sẽ là những người máy tiến hành các thao tác, và những thao tác đó, về phương diện nhân văn mà nói, thì sẽ không ai hiểu được. »[2].

Vì thế « hành động trong im lặng sẽ không còn là hành động, vì không có người hành động (acteur) nữa. Ta chỉ có thể là người hành động (acteur), tức là người thực hiện các hành động, khi mà đồng thời là người nói (diseur) »[3]. Lời nói giúp tác nhân (agent) đồng nhất mình với người hành động, qua việc thông báo và giải thích về những việc đang làm, đã làm và muốn làm.

Bằng cách hành động và bằng cách nói ra, con người để cho người khác thấy họ là ai. Họ chủ động bộc lộ bản sắc cá nhân và duy nhất của họ, qua đó mà xuất hiện ở trên đời này. Arendt cho rằng phẩm chất, năng khiếu, tài năng, hay nhược điểm, tất cả những gì cho phép định nghĩa một người là « ai », được hàm chứa trong tất cả những gì ta làm và những gì ta nói ra. Bản sắc, cái « ai » này chỉ bị che dấu trong im lặng và thụ động hoàn toàn. Còn một khi đã phát ngôn và hành động thì bản sắc này sẽ được thể hiện.

Sự phức tạp là ở chỗ : người ta gần như không thể cố tình bộc lộ bản thể, sự độc đáo và tính riêng biệt của bản thân mình. Nghĩa là không phải người ta đã có hay đã sở hữu tính độc đáo của mình rồi người ta tìm cách thể hiện nó, mà sự độc đáo, bản sắc của mỗi người hình thành trong quá trình hành động và phát ngôn, nó hình thành cùng với việc làm và lời nói. Ngoài ra, Arendt cho rằng bản thể của một người có thể xuất hiện trước người khác rất rõ nét, nhưng chính người đó lại không nhìn thấy (ví dụ đó là khi xảy ra trường hợp: một người nào đó bằng lời nói tự khẳng định là mình can đảm, nhưng người khác lại nhìn thấy hoàn toàn ngược lại, họ thấy anh ta chẳng hề can đảm chút nào). Đến mức mà « không ai có thể biết được cái bản thể mà mình bộc lộ ra qua hành động và lời nói »[4] của mình, và điều này gắn với một tính chất khác của hành động : tính không thể dự kiến. « Việc không thể dự kiến về kết quả hành động gắn liền với tính chất khải thị (để lộ ra) của hành động và lời nói trong đó ta vén lộ cái tôi của mình mà không tự nhận biết và không thể tính toán trước điều mà ta để lộ ra. »[5].

 

Sự thể hiện bản thân bằng lời nói và hành động chỉ trở nên rõ ràng khi người ta ở giữa những người khác.

Lập luận này của Arendt dường như chẳng có gì phải bàn cãi. Nếu con người chỉ có một mình trên đời này thì cần gì phải thể hiện bản thân, và thể hiện bản thân để làm gì ? Bản sắc của một người, sự riêng biệt độc đáo của một người chỉ có ý nghĩa khi có sự hiện diện của người khác. Như đã nói ở trên, vấn đề bản thể, tính cá biệt được đặt ra bởi vì nhân loại tồn tại ở dạng số nhiều, bởi vì trên thế giới này có nhiều người, chứ không phải chỉ có một người. Và phẩm chất tự thể hiện mình trước người khác, đối với Arendt, thì không phải là nhằm chống lại hay ủng hộ người khác, mà nó là biểu hiện tự nhiên của tính đơn nhất ở mỗi người. Vì mỗi chúng ta là duy nhất trên đời này nên ta có phẩm chất và có khả năng tự thể hiện mình.

Arendt quan niệm rằng hành động luôn gắn với sự thể hiện bản thân. Bà nói rõ : « Một hành động nếu thiếu đi sự thể hiện của tác nhân (agent) thì nó sẽ đánh mất tính chất đặc thù của hành động, và trở nên giống như các hoạt động khác, nó sẽ trở thành một phương tiện để phục vụ một mục đích, giống như chế tạo là phương tiện để làm ra các đồ vật. Và điều này xảy ra mỗi khi tính đơn nhất của con người bị đánh mất, nghĩa là khi người ta chỉ đơn thuần chống hay ủng hộ người khác, giống như trong chiến tranh hiện đại khi mà con người lao vào một hành động và sử dụng các phương tiện bạo lực có lợi cho đảng của mình và chống lại kẻ thù. Trong những trạng huống này, (…), lời nói thành ra là « lời ba hoa », nó thành ra là phương tiện để nhằm một mục đích, nó được dùng để lừa dối kẻ thù và làm cho mọi người choáng váng vì những chiêu tuyên truyền của nó. »[6]. Trong đoạn này ta thấy rõ Arendt phân biệt giữa hai dạng lời nói : 1/ Lời nói được sử dụng như là phương tiện nhằm một mục đích nào đó (lừa dối, tuyên truyền…). 2/ Bản thân lời nói là một mục đích trong quá trình thể hiện bản sắc của một cá nhân nào đó.

 

Hành động trong tương quan với mạng lưới quan hệ và những câu chuyện được diễn tả

Để làm rõ hơn ý nghĩa của hành động, Arendt đặt vấn đề trong bối cảnh những khó khăn của việc trả lời câu hỏi : « là ai ? ». Bà chỉ ra rằng mỗi khi ta tìm cách trả lời câu hỏi « người nọ người kia là ai » thì ta thường bị dẫn tới chỗ nêu ra những tính cách hoặc phẩm chất mà nhiều người khác cũng có, nghĩa là ta thường miêu tả họ theo một mẫu nào đó, một kiểu tính cách nào đó. Mà như thế thì họ không còn là duy nhất nữa. Theo Arendt, sự thất bại trong việc trả lời câu hỏi này liên quan chặt chẽ tới việc triết học đã không đưa ra được định nghĩa về con người. Mọi định nghĩa đều thiên về xác định hay diễn giải con người « là gì » (ce qu’est l’homme), trong khi đó sự riêng biệt đặc thù của mỗi người lại được xác định bởi họ « là ai » (qui est l’homme).

Nhưng ngoài vấn đề triết học thì khó khăn còn là ở sự bất lực của ngôn từ : không thể đóng khung trong ngôn ngữ (với một số lượng hạn hẹp các từ) cái bản chất sống động của mỗi người được bộc lộ trong chuỗi hành động và lời nói trải ra trong tất cả các phạm vi hay lĩnh vực của đời sống, trong đó con người tồn tại với tư cách là những sinh thể hành động và phát ngôn.

Trong khi tiếp tục tìm hiểu và giải thích khó khăn của việc định nghĩa một người nào đó là ai, Arendt chỉ ra rằng hành động diễn ra ở giữa nhiều người, cùng với nhiều người. Vì hành động luôn hướng tới người khác, đồng thời lại luôn có khả năng thể hiện bản thân « tác nhân ». Hành động và lời nói thể hiện mối quan tâm tới thế giới, và đây là mối quan tâm chung của mọi người, chính mối quan tâm này mang mọi người đến gần nhau và kết nối họ với nhau. Và do đó hành động và lời nói có hai đặc điểm : chúng hướng về thực tế khách quan của thế giới, nhưng đồng thời lại để lộ bản sắc của tác nhân hành động và phát ngôn. Giữa những người cùng hành động có một cái gì không sờ mó được, không nhìn thấy được, và theo Arendt đó chính là mạng lưới các quan hệ giữa con người. Quan hệ con người là một cái gì mà người ta không sờ mó được, không đụng chạm tới được ; nhưng quan hệ đó là có thực, nó là một thực tế hình thành khi có nhiều người cùng liên kết lại với nhau để hành động. Arendt giải thích : « Các hoạt động của con người được thực hiện trong mạng lưới các quan hệ, tồn tại ở mọi nơi có con người sinh sống cùng nhau. Việc thể hiện bản thân bằng lời nói và sự khởi đầu bằng cách tiến hành một hành động luôn diễn ra trong một mạng lưới quan hệ đã có sẵn, trong mạng lưới quan hệ đó có thể ngay lập tức xảy ra các hậu quả. Lời nói và hành động được tiến hành cùng lúc sẽ làm khởi động một diễn trình mới, diễn trình này có thể xuất hiện như một cuộc đời duy nhất của một người mới đến trên đời này, và theo một cách thức duy nhất, nó tác động lên cuộc đời của tất cả những ai có quan hệ với nó. »[7].

Sự phức tạp là ở chỗ: Cái mạng lưới quan hệ đã có sẵn, cùng với vô số những xung đột về ý chí và dự định diễn ra trong đó, khiến cho hành động hầu như rất khó đạt tới mục đích của nó. Nhưng cũng chính vì mạng lưới quan hệ này mà hành động sẽ kéo theo những câu chuyện, dù cố tình hay không. Tương tự như hoạt động tạo tác cho ra các sản phẩm, các đồ vật, những câu chuyện là sản phẩm của hành động. Những câu chuyện này có thể được ghi lại trong các tài liệu hoặc được ghi dấu nơi các công trình kiến trúc lịch sử. Dĩ nhiên Arendt phân biệt giữa câu chuyện tưởng tượng, hư cấu, được tác giả bịa ra, như tiểu thuyết chẳng hạn, và việc kể lại một câu chuyện có thật đã diễn ra, kết quả của hành động thực sự. Triết học của bà tập trung bàn về câu chuyện có thật, câu chuyện của hành động.

Từ điểm này, suy tư của Arendt đạt tới chỗ nhận ra nghịch lý giữa người hành động và người kể chuyện. Bà phát hiện ra một điều hết sức mâu thuẫn : người hành động lại không phải tác giả của hành động dù chính người đó thực hiện hành động. Từ đó Arendt đặt người hành động trong tương quan với người kể chuyện. Bà phân biệt ba khái niệm : acteur/agent (người hành động/ người tạo ra câu chuyện, auteur (tác giả, người kể lại câu chuyện), producteur (người sản xuất câu chuyện).  « Cho dù mỗi người bắt đầu cuộc sống của mình bằng cách gia nhập vào thế giới người (monde humain) bằng hành động và lời nói, nhưng không ai là tác giả hay là nhà sản xuất ra câu chuyện của đời mình[8]. Nói cách khác, những câu chuyện là kết quả của hành động và lời nói, chúng bộc lộ một tác nhân (agent), nhưng tác nhân này không phải là tác giả (auteur), không phải là nhà sản xuất (producteur). Người bắt đầu câu chuyện là một chủ thể kép, vừa là người hành động vừa là người phải chịu đau khổ nhưng lại không phải là tác giả của nó. »[9]

Cái lý của Arendt là ở chỗ : một hành động diễn ra trong thực tế, nhưng  nếu nó không được kể lại, thì sau một thời gian, khi những người tham gia hành động đó không còn nữa, không còn nhân chứng nữa, nó sẽ biến mất như chưa từng xảy ra, bởi không còn ai biết đến nó.

Ví dụ : một người nhảy xuống sông cứu một người khác đang sắp bị chết đuối. Nếu chỉ hai người trong cuộc biết hành động này, không một ai khác ngoài họ biết đến, họ không kể lại câu chuyện, không một ai khác kể lại câu chuyện, thì khi hai người này chết đi, hành động cứu người sẽ biến mất cùng với họ, cứ như thể hành động đó chưa từng tồn tại. Ở ví dụ này ta thấy rõ sự khác biệt giữa người hành động và người kể lại hành động. Và cũng thấy rõ rằng để có một hành động, cần một tác nhân, tức là cần một người hành động, nhưng sự tồn tại của hành động phụ thuộc vào câu chuyện chứ không phụ thuộc vào người thực hiện hành động. Để hiểu vì sao Arendt nói rằng người « làm nên » hành động là người kể chuyện, chứ không phải tác nhân của hành động.

Ví dụ khác : chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, có tầm quan trọng trong việc chấm dứt một ngàn năm Bắc thuộc mở ra thời kỳ độc lập cho VN. Nhưng nếu không ai kể về nó, không một tài liệu hay một công trình nào lưu giữ về chiến thắng đó, không ai nhắc tới nó, thì sau khoảng một trăm năm, khi những người tham gia làm nên chiến thắng đó chết đi, chiến thắng đó sẽ không còn tồn tại. Và nếu không có các câu chuyện được lưu truyền bằng văn bản hay bằng miệng để nhắc lại quá khứ Bắc thuộc, thì cái quá khứ đó  cũng không tồn tại trong ký ức và thức nhận của các thế hệ sau. Và trong trường hợp đó, khi không có ký ức lịch sử, không có ký ức chung, khi những câu chuyện chung, các nhân vật của cộng đồng, các hành động chính trị chung của cộng đồng không được ghi chép lại, hoặc không được lưu truyền qua hình thức truyện kể, hay những hình thức khác, thì cũng không tồn tại cái gọi là cộng đồng.

 Để thấy vì sao lịch sử quan trọng, để thấy vì sao trong tiếng Pháp chẳng hạn, từ histoire vừa có nghĩa là câu chuyện vừa có nghĩa là lịch sử. Lịch sử được ghi lại bằng những câu chuyện như vậy, bằng các tài liệu lịch sử. Sử gia chính là người kể chuyện lịch sử. Bằng công việc của mình, sử gia lưu giữ hành động chung của cả cộng đồng. Như ta đã thấy, trong quan niệm của Arendt, không có công việc của sử gia sẽ không có lịch sử. Lịch sử là kết quả của những người hành động, nhưng tạo dựng lịch sử lại tuỳ thuộc vào người kể chuyện. Theo nghĩa này, sử gia là những người « làm nên » lịch sử. Cộng đồng nào coi thường sử gia, coi thường lịch sử, xoá bỏ ký ức tập thể bằng sự quên lãng hay bằng cách tạo ra các ký ức giả, cộng đồng đó có nguy cơ bị tiêu vong, tiêu vong theo nghĩa sự tồn tại của nó chỉ còn là một sự tồn tại vật lý, giữa các thành viên không còn các liên hệ tinh thần, liên hệ giá trị, liên hệ lịch sử.

 


[1][1]Hannah Arendt, Condition de l’homme moderne, Calmann-Lévy, 1961., tr.235.

[2]Ibid., tr.235.

[3]Ibid., tr.235.

[4]Ibid., tr.237.

[5]Ibid., tr.251.

[6]Ibid., tr.237.

[7]Ibid., tr.241.

[8]Điều này các tác giả tự truyện chưa chắc đã đồng ý !

[9]Ibid., tr.243.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577627

Hôm nay

2158

Hôm qua

2333

Tuần này

2826

Tháng này

224684

Tháng qua

130677

Tất cả

114577627