Những góc nhìn Văn hoá
Đã phát hiện được tác giả có bút danh “Nhật Nam nguyên chủ”, đề dưới nhiều bài thơ, đại tự chữ Hán, khắc trên vách đá ở các thắng cảnh của Thanh Hóa và Ninh Bình

Động Từ Thức hay còn gọi động Bích Đào ở xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa, là một thắng cảnh từ xưa đã rất nổi tiếng.Ngoài cảnh quan trong động khá đẹp, thắng cảnh này còn gắn với câu chuyện cổ tích nhân vật Từ Thức gặp tiên chép trong tác phẩm “ Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ ở thế kỉ XVI.
Nhiều nho sĩ Việt Nam thời phong kiến đã đến vãn cảnh đẹp động TừThức, cảm hứng sáng tác thơ để nói lên tâm tư của mình. Một số hiện thấy chép trong sách vở như thơ của Thám hoa Phan Kính (1715-1761), Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ (1726-1780), Tiến sĩ Ninh Tốn (1743- ?)... và một số khắc lên bia đá, vách núi ở tại động. Ngày nay hiện còn thấy 2 tấm bia chép thơ chữ Hán, đã biết rõ tác giả là Bảng nhãn Lê Quí Đôn và Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm. Đặc biệt trên vách núi trước cửa động có một bài thơ Đường luật “Ngự chế đề Từ Thức động”. Phía dưới ghi tác giả là “Nhật Nam nguyên chủ” và thời gian sáng tác vào năm Tân Mão trọng xuân. Người vâng lệnh viết (phụng tả) là Cao Bác.
Trong những năm 90 của thế kỉ XX, chúng tôi đã đến tham quan thắng cảnh Từ Thức nhiều lần và thường được mấy cụ quản lí di tích biết chữ Hán giải thích bài thơ trên có thể là của vua Lê Thánh Tông (1442-1497). Nhưng các cụ còn ngập ngừng vì bút danh của Lê Thánh Tông là “Thiên Nam động chủ”, chứ không phải “Nhật Nam nguyên chủ”. Vả lại niên đại sáng tác bài thơ này ghi là năm Tân Mão, chứ không ghi đời vua nào, nên không thể xác định được thời gian. Cũng chính vì không rõ xuất xứ, nên bài thơ vẫn chưa được dịch và chính thức công bố.
Thế rồi vào khoảng năm 1998, chúng tôi đến khảo sát, nghiên cứu động Diệu Sơn, thuộc xã Cẩm Vân, huyện miền núi Cẩm Thủy. Tình cờ thấy trong động khắc một bài thơ chữ Hán, phía dưới ghi tác giả là “Nhật Nam nguyên chủ”, thời gian sáng tác vào Canh Dần trọng đông, người viết là Cao Bác.
Nguyên văn: “ 訪妙山洞之作
倂書“錦雲”,“致妙”二大字
天將虚室廠巑沅
妙躋仍傳在此間
一竅斜穿千古月
半窗府瞰九迴滩
華鯨覺夢雲中響
石像安禪雲后班
海宇正逢清怗會
毫端收括錦江山
日南元主題
庚寅仲春臣高搏奉寫.”
Phiên âm: “Phỏng Diệu Sơn động chi tác
Tịnh thư “Cẩm Vân” “Trí Diệu” nhị đại tự
Thiên tương hư thất xưởng toàn ngoan
Diệu tích nhưng truyền tại thử gian
Nhất khiếu tà xuyên thiên cổ nguyệt
Bán song phủ hám cửu hồi than
Hoa kình giác mộng vân trung hưởng
Thạch thượng an thiền tuyết hậu ban
Hải vũ chính phùng thanh thiếp hội
Hào đoan thu quát cẩm giang san
Nhật Nam nguyên chủ đề.
Canh Dần trọng đông. Thần Cao Bác phụng tả”
Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” (1) ở mục “Động Diệu Sơn”, thấy tác giả Phan Huy Chú viết :靖王豋臨詩云 “Tĩnh Vương đăng lâm thi vân” (Tĩnh Vương lên chơi núi (động Diệu Sơn – Nv chú) có làm một bài thơ”.
Bài thơ phiên âm như sau:
“Thiên tương hư thất tạc toàn ngoan
Diệu tích nhưng truyền tại thử gian
Nhất khiếu thâm tàng thiên cổ tỉnh
Bán song đê hám cửu hồi than
Hoa kình giác mộng vân trung hưởng
Thạch tượng an thiền tuyết hậu ban
Hải vũ chính phùng thanh thiếp hội
Hào đoan thu thập cẩm giang san.”
Sách “Trịnh gia chính phả” đầu thế kỉ XX của Trịnh Như Tấu(2) cũng thấy chép nguyên bảnán bài thơ chữ Hán bài thơ này và cũng cho biết tác giả là “chúa Tĩnh Vương”.
Theo chính sử thì sau khi Trịnh Doanh mất, “Tháng 5 ngày Đinh Mão, năm Cảnh Hưng 28 (31-5-1767) vua Lê sai đem sách ấn tiến phong Trịnh Sâm làm Nguyên soái Tổng quốc chính Tĩnh Đô Vương”(3). Như vậy “ Tĩnh Vương” là hiệu của chúa Trịnh Sâm (1739-1782).
So sánh nội dung bài thơ khắc trong động Diệu Sơn với bài trong sách Lịch triều hiến chương loại chí thì hầu hết câu, chữ giống nhau. Chỉ có một vài từ khác nhau
Chữ khắc trong động |
Chữ chép trong sách Lịch triều hiến chương loại chí |
Xưởng 廠 ( câu 1) |
Tạc(鑿) |
Tà xuyên 斜穿 (Câu 3) |
Thâm tàng (深藏) |
Nguyệt 月( Câu 3) |
Tỉnh (井) |
Thu quát 收括(Câu 8) |
Thu thập ( 收拾) |
Tuy còn vài chữ khác nhau, song nội dung các bản chép tay, bản dịch và bản khắc trong động hầu hết câu chữ là giống nhau. Bản chụp và các bản dịch trong sách đều chép tác giả bài thơ là Tĩnh Vương, tức chúa Trịnh Sâm. Còn bản khắc trong động Diệu Sơn thì đề tác giả là “Nhật Nam nguyên chủ”, cùng tác giả bài thơ “Ngự chế đề Từ Thức động” ở động Từ Thức. Vậy là đã xác định được “Nhật Nam nguyên chủ” là bút danh chúa Trịnh Sâm. Bản trong động còn cho biết thêm 4 đại tự “Cẩm Vân” và “ Trí Diệu” hiện còn thấy trên vách động cũng do chúa Trịnh Sâm đề, mà xưa nay chưa rõ tác giả.
Nhờ biết bút danh “Nhật Nam nguyên chủ” là của chúa Trịnh Sâm, một vị chúa hay chữ và có nhiều thơ khắc trên vách núi, nơi danh lam thắng cảnh. Riêng bài nhà chúa đề ở động Từ Thức, vì mỗi sách chép khác nhau một vài từ, nên có lẽ lấy bản khắc trên vách động làm gốc, vì lẽ đây là bản chính xác nhất!(4)
Tiếp theo, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu xem năm Canh Dần và năm Tân Mão là năm Dương lịch nào và thời điểm đó Trịnh Sâm có về Thanh Hóa không? Sách Đại Việt sử kí tục biên thấy chép: “Tháng 10 (năm Canh Dần, niên hiêu Cảnh Hưng 31), chúa Trịnh Sâm vào phía Tây tuần hành xứ Thanh Hoa, sửa lăng miếu, xem núi sông, coi trấn sở, xét quan lại, thăm hỏi ẩn tình của dân, khen thưởng úy lạo các quân, đến tháng 2 về kinh.”. Vậy là đã xác định được tháng 10 năm Canh Dần (1770) Chúa Trịnh Sâm tuần hành vào xứ Thanh Hoa, đến tháng 2 (tháng trọng xuân) năm Tân Mão (1771) mới trở về Kinh (ĐVSKTB- Sđd -Tr.339).
Vậy là đã có thể khẳng định bài thơ “Ngự chế đề Từ Thức động” ở động Từ Thức cũng là của chúa Trịnh Sâm, khắc lên vách đá vào tháng 10 năm Canh Dần (1770) khi nhà chúa tuần hành vào xứ Thanh Hoa, như chính sử đã chép. Đây là một bài thơ hay, đầy lạc quan. Chúng tôi xin dịch và giới thiệu với bạn đọc:
Nguyên văn:
御製題徐式洞
舟程乘興訪徐郎
峝口依然鎖夕陽
碧掛霓裳光綺繡
石敲鳯舞響宫商
僊婚自昔三生契
塵海經今幾度揚
莫説瑶池乘駿日
斯游河異浪蓬郞
日南元主題
辛卯仲春臣高搏奉寫.”
Phiên âm:
“ Ngự chế đề Từ Thức động
Chu trình thừa hứng phỏng Từ lang
Động khẩu y nhiên tỏa tịch dương
Bích quải nghê thường quang ỷ tú
Thạch xao phượng vũ hưởng cung thương
Tiên hôn tự tích tam sinh khế
Trần hải kinh kim kỉ độ dương
Mạc thuyết Dao Trì thừa tuấn nhật
Tư du hà dị lãng Bồng Lang
Nhật Nam nguyên chủ đề. Tân Mão trọng xuân
Thần : Cao Bác phụng tả.”(5)
Dịch thơ: Chúa đề thơ động Từ Thức
Rời thuyền thừa hứng viếng Từ công
Cửa động y nguyên khóa ánh hồng
Xiêm ráng vách treo rờn gấm vóc
Phượng reo đá gõ vọng cung thương
Duyên tiên từ thuở ba sinh hẹn
Bể khổ nay đà mấy độ dâng
Chớ bảo Dao Trì ngày thấm thoắt
Chơi đây nào khác dạo Bồng Hang.”(6)
Như trên đã trình bày, vì động Từ Thức gắn với câu chuyện cổ tích Từ Thức gặp tiên, nên các tác giả những bài thơ về thắng cảnh này đều mượn nội dung cốt chuyện để nói tâm sự bản thân. Chẳng hạn Bảng nhãn Lê Quí Đôn, có lẽ trăn trở về cảnh triều đình Lê Trịnh, nên mới hạ bút:
“... Người đời khổ bởi mơ tiên cảnh
Ai biết Thiên Thai cũng hí trường.”
Còn Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm (1886-1955) thì ăn năn, trăn trở trót ra làm quan cho bọn thống trị Pháp, mà không biết sớm nghỉ hưu, nên khi đến vãn cảnh Từ Thức đã làm bài thơ có câu toát lên nỗi lòng:
“... Hoạn lộ cười mình về quá muộn
Gặp nhau cửa động nói không nên!”.
Việc tìm ra xuất xứ của bài thơ đề động Từ Thức, giải mã được “Nhật Nam nguyên chủ” là bút danh của chúa Trịnh Sâm, cũng giúp hiểu đúng được tác giả một số bài thơ, đại tự khắc trên vách đá hiện còn ở núi Thần Phù, núi Chích Trợ, động Hồ Công... (Thanh Hóa), Hoặc hai đại tự Bích Động, một thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Ninh Bình. Cũng xin nói thêm dưới 2 đại tự “Bích Động” có câu lạc khoản: “ Nhật Nam nguyên chủ đặc bút. Nguyễn Nghiễm phụng tả” mà trước đó vì chưa biết Nhật Nam nguyên chủ là ai, nên người ta nhầm Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm là tác giả 2 đại tự này.
Việc phát hiện “Nhật Nam nguyên chủ” là bút danh chúa Trịnh Sâm, vừa khẳng định được chính xác tác giả và thời gian sáng tác một số bài thơ chữ Hán mà vị chúa hay chữ đã cho khắc lên vách đá những danh lam thắng cảnh ở miền Bắc nước ta, đồng thời vừa tránh được sự nhầm lẫn tác giả và xuất xứ của các bài thơ đó!
--------------------------------------
- Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí - Tập I –Tổ phiên dịch Viện sử học VN phiên dịch, chú giải - Nxb KHXH,H. 1992.
- Trịnh Như Tấu – Trịnh gia chính phả - Nhà inNgoo Tử Hạ XB 1932.
- Đại Việt sử kí tục biên (1676-1789) -Viện nghiên cứu Hán Nôm – Nxb KHXH. H. 1991
- Bản dịch sách “Lịch triều hiến chương loại chí” do Phủ Quốc vụ khanh đặc rách văn hóa xuất bản năm 1972, dịch giả Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực cho rằng sách Lịch triều hiến chương loại chí hiện có là bản chép tay, nên có chữ nhầm lẫn. Vì vậy ông đã căn cứ vào sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn chữa lại câu 3 là“ Nhất khiếu thâm tàng thiên cổ nguyệt”, đúng với câu chữ khắc trong động Diệu Sơn.
- Chúng tôi cũng đã có bài viết chứng minh bút danh của nhân vật Cao Bác là Bảng nhãn Lê Quí Đôn.
- Dao Trì, Bồng Hang là nơi cõi tiên trên thượng giới.
tin tức liên quan
Videos
Khai hội “Phúc lục ngoạt” đền Yên Lương, thị xã Cửa Lò
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho Nhân dân
Đêm cảm xúc từ “Mạch nguồn Ví, Giặm”
Tính cách người các tỉnh tại Trung Quốc
Lần đầu tiên Festival Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An
Thống kê truy cập
114576900

299

2299

299

223957

130677

114576900