Rất nhiều nước nói tiếng Anh, chỉ một nước nói tiếng Hán
Trong 6 loại ngôn ngữ làm việc của Liên hợp quốc, có 5 ngôn ngữ không chỉ là tiếng nói chính thức của một nước mà là ngôn ngữ chính thức của nhiều nước.
Theo số liệu thống kê, tiếng Anh là ngôn ngữ chính thứccủa 45 quốc gia. Anh, Mỹ, Canađa, Ôxtrâylia, Niu Dilân đều là những nước lấy tiếng Anh làm tiếng mẹ đẻ.
Toàn thế giới có 200 triệu người nói tiếng Pháp, trong đó có 60 triệu người Pháp; hơn 20 nước lấy tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức.
Hiện nay trên thế giới có 110 triệu người nói tiếng Đức, 3nước lấy tiếng Đức làm ngôn ngữ chính thức là Đức, Áo, Liechtenstein.
Toàn thế giới có 350 triệu người nói tiếng Tây Ban Nha, hơn 20 nước lấy tiếng Tây Ban Nha làm ngôn ngữ chính thức.
Ngôn ngữ chính thức của Liên Xô là tiếng Nga, sau khi Liên Xô tan rã thành 15 nước, có 4 nước lấy tiếng Nga làm ngôn ngữ chính thức là: Nga, Bêlarút, Cadắcxtan và Cưrơgưxtan.
Hiện naychỉ có 1 nước lấy tiếng Hán làm tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ chính thức, đó là Trung Quốc.
Trên thế giới, từ xưa tới nay chỉ có 1 nước lấy tiếng Hánlàm ngôn ngữ chính thức. Điều đó chứng tỏ quốc gia này chưa từng đi xâm lược nước khác, từ trước tới nay chưa từng bành trướng đất nước mình. Còn mấy chục quốc gia nói tiếng Anhđều là những nước từng bị đế quốc Đại Anh chinh phục và thành thuộc địa, là những nước bị người Anh chiếm đóng, sau đó là chiếm hữu.
Trung Quốc chưa từng thiết lập “Trung Quốc hải ngoại”
Sự trỗi dậy của các nước phương Tây luôn gắn liền với xâm lược, bành trướng, thực dân, buôn bán nô lệ. Năm 1441,đoàn thám hiểm do nhà hàng hải Hăngri được Bồ Đào Nha cử đi đã đem về hơn 10 nô lệ da đen từ châu Phi, là sự khởi đầu của người châu Âu thời cận đại trực tiếp buôn bán nô lệ da đen châu Phi. Từ đó cuộc thám hiểm của ông ta được tiến hành đồng thời với xâm chiếm thuộc địa và buôn bán nô lệ. Phát hiện là chiếm đóng, dấu chân của đoàn thám hiểm để lạiở nơi nào, nơi đó là đường biên giới lãnh thổ quốc gia Bồ ĐàoNha. Đặc biệt từ năm 1481 Joao Đệ Nhị sau khi lên ngôi vua,Tây Ban Nha đã tuyên bố thành lập “Đế quốc Tây Ban Nha hải ngoại”. Còn Trung Quốc từ xưa đến nay chưa hề xây dựng tư tưởng và hành động thực tiễn về “Trung Quốc hải ngoại”, không có lịch sử xây dựng “Trung Quốc hải ngoại”.
Vì sao người Trung Quốc không thiết lập “Trung Quốc hải ngoại”? không phải vì người Trung Quốc không có năng lực hàng hải và khả năng chinh phục mà vì người Trung Quốckhông có cái tâm bành trướng. Ở phương Tây, những nước được gọi là cường quốc hàng hải thì đã phát hiện là chiếm đóng, còn Trung Quốc phát hiện nhưng không chiếm đóng, đã phát hiện là có quan hệ hữu nghị.
Các nước phương Tây còn tung hỏa mù, đả kích Trung Quốc về vấn đề Tây Tạng, Tân Cương. Một thanh niên Trung Quốc đã phản bác luận điệu này, được đăng tải rộng rãi trên internet. Người thanh niên Trung Quốc 21 tuổi du học ở Canađa ấy đã làm một đoạn video clíp “Tây Tạng quá khứ, hiện tại và tương lai mãi mãi là một bộ phận của Trung Quốc”, đã nói với mọi người rằng: Nếu người phương Tây từkhắp mọi nơi như châu Mỹ, châu Đại Dương, châu Phi, châuÁ... đều cuốn gói trở về châu Âu, Trung Quốc cũng sẽ rút khỏi Tây Tạng, nếu không, đừng nói với chúng tôi vấn đề này. Nếu như phương Tây thực sự có thể làm được điều đó thì các quốc gia phương Tây hiện nay sẽ có một nửa phải biến khỏi trái đất.
Người Trung Quốc “lá rụng về cội”, người Anh “cắm rễ bốn biển”
Người Trung Quốc rời khỏi đất nước mình vẫn luôn nhớ đến quê hương, muốn lá rụng về cội, còn người Anh xa đất nước là muốn chiếm ở bên ngoài một mảnh đất tốt mới để dựng nhà mới, thành lập một quốc gia mới do họ làm ông chủ. Họ gieo rắc hạt giống ra ngoài biên giới, cắm rễ khắp bốn biển. Trung Quốc vào thời Hán, thời Tam quốc, triều Tùy, thời kỳ đầu thế kỷ XIII đều có con đường tơ lụa, gồm đường tơ lụa trên đất liền và đường tơ lụa trên biển, những phát hiệnlớn về địa lý của Trung Quốc còn sớm hơn người châu Âu rất nhiều, nhưng người Trung Quốc có “phát hiện lớn” chứ không có “chiếm đóng lớn”.
Cùng là chuyển dịch dân số nhưng người Trung Quốc không có “giấc mộng Trung Quốc hải ngoại”, xây dựng quốcgia mới ngoài biên giới của mình, còn người châu Âu với uy lực tàu to pháo lớn đã thực hiện liên tiếp nhiều “giấc mộngthực dân hải ngoại”. Sự trỗi dậy của châu Âu được thực hiện bởi cuộc di cư của hơn 60 triệu người ra bên ngoài thiết lập đất thuộc địa. Dân nước Anh di cư ra nước ngoài mở rộng thuộc địa lập nên rất nhiều “Anh quốc hải ngoại”. Còn Trung Quốc luôn ở trên lãnh thổ của mình, dựa vào sức mình để giải quyết vấn đề của mình. Chính phủ Trung Quốc không có kỷ lục tổ chức đông đảo dân di cư ra ngoài. Do nhiều nguyên nhân, Trung Quốc tuy có hơn 60 triệu người Hoa ở hải ngoại, nhưng chưa hề thiết lập một thuộc địa hải ngoại nào ở nước bản địa, chưa từng có một “Trung Quốc hải ngoại”.
Ngày nay, rất nhiều nước nói tiếng Anh trên thế giới tuy từ lâu không còn là một quốc gia, nhưng do giữa họ có mối quan hệ huyết thống gần gũi nên thường dễ kết nối thành liên minh, đặc biệt là với sự thúc đẩy của lợi ích chiến lược chung nào đó, nhân tố về mặt này dễ phát triển. Ngày 5/3/1946, trong “Diễn văn trước bức màn sắt” nổi tiếng, Churchill đã kêu gọi thiết lập quan hệ đặc biệt giữa Anh và Mỹ, thực hiện sự thống trị của dân tộc nói tiếng Anh đối với thế giới, “không có sự liên kết của đồng bào các dân tộc nói tiếng Anh gắn bó như chân với tay thì sẽ không thể ngăn chặn có hiệu quả chiến tranh và tiếp tục phát triển tổ chức quốc tế”.
Trung Quốc xưa nay không có kế hoạch lớn chinh phục thế giới
Tất cả các nước lớn trỗi dậy trong thời kỳ cận đại đều đưa ra kế hoạch chiến lược phân chia thế giới, làm bá quyền thế giới, thậm chí sẵn sàng đẩy loài người đi đến huỷ diệt.
Trung Quốc thời cổ là nước văn minh, nước lễ nghĩa, nước thành tín, nước phòng thủ. Vì vậy, khái niệm ‘thiên hạ” của người Trung Quốc xưa nay không vượt ra ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Các thế hệ tinh hoa trong lịch sử Trung Quốc đều bàn chuyện trời đất, hoạch định kế sách, tổ chức lực lượng ở trên đất nước mình. Từ đế quóc Tần đến nước Trung Hoa mới, trong tư duy chiến lược của dân tộc Trung Hoa xưa nay không có tư duy chinh phục và thống trị thế giới.
Trung Quốc không hề ra đời những cương lĩnh và kế hoạch chiến lược chinh phục thế giới như “triết lý Tanaka” từng ra đời ở Nhật Bản “ Muốn chinh phục thế giới, trước hết phải chinh phục Trung Quốc. Muốn chinh phục Trung Quốc, trước hết phải chinh phục Mãn Châu, Mông Cổ”.
Trung Quốc chưa hề ra đời cương lĩnh và kế hoạch từngxuất hiện ở Đức như “Tài liệu mật về ý đồ lớn của vua Đức” với mục tiêu thống trị toàn thế giới, phải “Chinh phục Pháp, thần phục Nhật Bản, quyết chiến với Mỹ”. Ngày 18/12/1940,mục tiêu chiến lược này của Đức lại được cụ thể hoá bằng Mệnh lệnh tác chiến số 21, mang mật danh “Kế hoạch Barbarrossa” tiến công Liên Xô do Hítle ký. Kế hoạch này yêu cầu trước khi kết thúc chiến tranh với Anh phải tấn công đánh bại Liên Xô bằng một cuộc viễn chinh thần tốc. Sau khi đánh bại Liên Xô và giải quyết xong vấn đề nước Anh, sẽ liên minh với Nhật Bản “quét sạch thế lực Anglusaxon” tại Bắc Mỹ. Dự kiến lực lượng thuỷ quân lục chiến hùng mạnh sẽ xuất phát từ căn cứ Greenland, Airơlen, quần đảo Azor và Braxin đổ bộ lên bờ biển phía đông Bắc Mỹ; lực lượng xuất phát từ quần đảo Aleut và quần đảo Haoai đổ bộ lên bờ biểnphía tây. Vì vậy Bộ thống soái quân đội Đức không những vạch kế hoạch chiến tranh xâm lược Liên Xô một cách chi tiết, mà còn vạch cả kế hoạch lâu dài xâm lược tấn công Anh, Mỹ, thống trị thế giới.
Trung Quốc không có kế hoạch chiến lược như “Di chúcPie Đệ Nhất” từng xuất hiện ở Nga. Pie đại đế nói rằng dân tộc Nga mãi mãi được ánh sáng của thần linh soi đường vàđược thần linh ủng hộ, có sứ mệnh thống trị toàn bộ châu Âu.Trong thời đại châu Âu là trung tâm của thế giới, việc chinhphục và thống trị châu Âu cũng là chinh phục và thống trị thế giới.
Ở Trung Quốc cũng chưa từng xuất hiện ý tưởng chiến lược như kiểu “Biến Thái Bình Dương thành ao nhà của nước Mỹ”.
Trung Quốc có “viễn hàng,” châu Âu có “viễn chinh”
Cuối triều Minh, Trung Quốc là trung tâm kinh tế thế giới, tổng lượng kinh tế chiếm 45% của thế giới. Sản lượng sắt của triều Minh lớn gấp 2,5 lần triều Bắc Tống, năm đầu thời Vĩnh Lạc lên đến 9.700 tấn. Nước Nga khi đó là quốc gia có sảnlượng sắt lớn nhất châu Âu cũng chỉ 2.400 tấn. Lực lượng quân sự triều Minh, đặc biệt là lực lượng quân sự trên biển hết sức lớn mạnh. Nhà nghiên cứu lịch sử khoa học kỹ thuậtnổi tiếng Lý Ước Sắt cho rằng, trong lịch sử, hải quân triều Minh có thể nổi trội hơn mọi quốc gia châu Á, thậm chí vượttrên mọi nước châu Âu cùng thời, tất cả các nước châu Âu liên kết lại cũng không thể địch nổi hải quân triều Minh. Paul Kennedy chỉ rõ: 1/3 sản lượng sắt thép toàn thế giới được dùng vào việc sản xuất vũ khí của đế quốc Minh. Triều Minh hùng mạnh nhưng không viễn chinh vì triều Minh không muốn bành trướng.
Nhà hàng hải lớn triều Minh là Trịnh Hoà ngày 11/7/1405 thống lĩnh một đội tàu hùng hậu bắt đầu tiến hành 7 cuộchành trình lớn ra biển phía tây. Đến năm 1433, trong thời gian gần 30 năm, đội tàu của Trịnh Hoà đã lần lượt đi xa qua TháiBình Dương, Ấn Độ Dương, nơi xa nhất đến Biển Đỏ và bờ đông châu Phi. Hành trình trên biển của ông đã đặt chân lên hơn 30 quốc gia và khu vực. Bảy lần đi biển xa của Trịnh Hoà thường mỗi lần có khoảng 27.000 người đi theo, phải sử dụng hơn 260 tàu, trong đó có hơn 60 tàu cỡ lớn và vừa, lượng giãn nước của những tàu này khoảng 1500 tấn.
Côlômbô trong cuộc đời từng nhiều lần đến châu Mỹ, số tàu thuyền sử dụng khi ít nhất là 3 chiếc, khi nhiều nhất là 17 chiếc, lượng giãn nước của tàu thường là loại 100 - 200 tấn, số người đi theo khi ít nhất là 90, nhiều nhất là 1200-1500 người. Vaso Da Gama đã có hai lần hành trình đường biểnđến Ấn Độ, lượng giãn nước của tàu thuyền sử dụng đều là loại 50 - 100 tấn.
Quân đội Trung Quốc trong 30 năm hành trình biển xa đã lần lượt đến hơn 30 nước, không sử dụng vũ lực để chinh phục một nước nào, không thiết lập một thuộc địa nào ở hải ngoại, không cướp đoạt của cải của một nước nào mà chỉ làm sứ giả hữu nghị thúc đẩy giao lưu kinh tế và văn hoá, là cuộc hành trình hoà bình hữu nghị. Những thuộc địa mà các nước thựcdân phương Tây từ xa vạn dặm đến phương Đông chinh phục sau này là những nơi mà mấy chục năm trước đó Trịnh Hoà đã từng đi qua. Vì sao Trung Quốc “viễn hàng chứ không viễn chinh?”. Bởi vì Trung Quốc tuy có đủ sức bành trướng và chiếm thuộc địa, nhưng không có chủ tâm bành trướng và chiếm đóng.
Năm 1433, trong chuyến đi biển xa lần thứ 7, Trịnh Hoà bị ốm chết. Do công cuộc đi biển xa vấp phải sự phản đối của nhiều đại thần nên vị vua mới lên ngôi của triều Minh đã xuống chiếu ra lệnh: “Cấm mọi tàu thuyền lớn đến các phiên quốc biển phía tây”. Sự nghiệp hàng hải của Trung Quốc bị xoá bỏ hoàn toàn. Những con tàu lớn quý giá của Trịnh Hoà đậu trong cảng vịnh của nhà vua dần dần mục nát. Không những thế, Bộ Binh của triều Minh còn thiêu trụi xưởng đóng tàu và mọi bản vẽ, tư liệu mà Trịnh Hoà đã dày công xây dựng trong nhiều năm.
Thế kỷ XV trong lịch sử thế giới là thời khắc quan trọng loài người đi từ thời đại lục địa sang thời đại hải dương. Trung Quốc vốn có lực lượng trên biển hùng mạnh nhất thời đó nhưng lại kiên quyết rút lui khỏi biển cả. Hegel từng than thở: “Người Trung Quốc đã quay lưng lại với biển”. Khi ngườiTrung Quốc quay lưng lại với biển thì người châu Âu lại xông ra biển, mở dầu cho những phát hiện lớn về địa lý, sự chiếm đóng với quy mô lớn đất thuộc địa và sự cướp đoạt quy mô lớn nguồn của cải ở hải ngoại. Paul Kennedy còn chỉ rõ: Trong mọi nền văn minh trước cận đại, không có nền văn minh của nước nào phát triển hơn, tiên tiến hơn văn minh Trung Quốc.Ông cho rằng, nhân tố then chốt khiến Trung Quốc thụt lùi đơn thuần là tính bảo thủ của đám quan lại sùng tín học thuyết Khổng Tử. Tất cả những quan lại có địa vị quan trọng đều quan tâm bám giữ và phục hồi quá khứ chứ không mở ra tương lai tươi sáng hơn trên cơ sở mở mang và buôn bán ra hảingoại. Điều này dẫn đến sự thù ghét nghề buôn và tư bản tư nhân trong tất cả tầng lớp trên của đế quốc Trung Hoa.
Người phương Tây phê phán người Trung Quốc bỏ mất biển khơi, chẳng phải họ đã chứng minh từ góc độ khác về dòng chính của trào lưu ý thức của người Trung Quốc thời đó là không bành trướng, không cướp đoạt, không thực dân hay sao?
Đã có mấy nước tuyên bố không sử dụng trước vũ khí hạt nhân?
Hiện nay trên thế giới có 8 quốc gia công khai sở hữu vũ khí hạt nhân (kể cả Triều Tiên), nhiều nước có nhiều vũ khí hạt nhân hơn Trung Quốc, cũng nhiều nước vũ khí hạt nhân ít hơn, nhưng cho đến nay, chỉ có 1 nước là Trung Quốc tuyên bố không sử dụng trước vũ khí hạt nhân.
Mỹ là nước có vũ khí nguyên tử sớm nhất trên thế giới, cũng là nước đầu tiên sử dụng vũ khí nguyên tử, là nước có số lượng vũ khí hạt nhân nhiều nhất và kỹ thuật hạt nhân tiên tiến nhất, nước có lực lượng quân sự thông thường hùng mạnh nhất, nhưng họ lại không chịu tuyên bố không sử dụng trước vũ khí hạt nhân. Cho đến nay, Trung Quốc là nước đầu tiên và cũng là nước duy nhất trên thế giới tuyên bố không sử dụng trước vũ khí hạt nhân. Tính cách quốc gia của Trung Quốc và Mỹ thể hiện trong vấn đề vũ khí nguyên tử khác nhau làm sao!
Trung Quốc không những là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân đầu tiên tuyên bố không sử dụng trước loại vũ khí này, Trung Quốc còn tuyên bố không sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ khí hạt nhân với những nước và khu vực không có vũ khí hạt nhân. Trung Quốc đã đơn phương gánh vác nghĩa vụ mà những quốc gia hạt nhân khác không gánh vác. Trung Quốc chưa từng giúp những nước khác phát triển vũ khí hạt nhân, chính phủ Trung Quốc luôn thực hiện chính sách không chủ trương, không khuyến khiách, không phổ biến vũ khí hạt nhân.
Trong vấn đề vũ khí hạt nhân, chiến lược hạt nhân của Trung Quốc mang tính phòng ngự. Vũ khí hạt nhân của Trung Quốc không phải dùng để giết người mà dùng để phòng thân.
Toàn thế giới vui mừng khi thấy Tổng thống Mỹ Obama đưa ra lời kêu gọi xây dựng “Thế giới không có vũ khí hạtnhân”. Đây là công việc nặng nề và lâu dài. Để xây dựng “Một thế giới không có vũ khí hạt nhân”, trước hết phải xây dựng “Một thế giới trong đó những quốc gia hạt nhân không sử dụng trước vũ khí này”. Mỹ là nước đề xướng một thế giới không có vũ khí hạt nhân, liệu họ có thể noi gương Trung Quốc tuyên bố trước thế giới “Mỹ không sử dụng trước vũ khí hạt nhân” ?
Trung Quốc có “8 điều không thể” đối với Mỹ
Cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, “Thuyết về mối đe doạ từ Trung Quốc” đang được lớn tiếng rêu rao. Những nước khác mang tâm lý lo ngại còn có nguyên nhân, nhưng người Mỹ hò hét về luận thuyết trên khiến người ta không khỏi suy nghĩ. Tính cách Trung Quốc đã quyết định rằng Mỹ không thể bị Trung Quốc đe dọa. Trung Quốc có “8 điều không thể” đối với Mỹ, Mỹ cũng có “8 điều yên tâm” về Trung Quốc.
1. Người Trung Quốc không phải là người Nhật trước năm 1945 - giữa Trung Quốc và Mỹ không thể có “Sự kiện Trân Châu Cảng”.
2. Người Trung Quốc không phải là người Đức trong thời kỳ hai cuộc đại chiến thế giới - Trung Quốc không thể sử dụng vũ lực để thách thức thế giới, không thể là nước bắn phát súng, nã phát pháo đầu tiên sang phía Mỹ.
3. Người Trung Quốc không phải là người Nga trước năm 1991 - không có nhu cầu đối phó với Mỹ bằng thủ đoạn Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc không thể tiến hành Chiến tranh Lạnh với Mỹ.
4. Kỹ thuật quân sự của Trung Quốc tuy lạc hậu hơn Mỹ, nhưng không bao giờ Trung Quốc lại có thể “ném bom nhầm”vào đại sứ quán Mỹ. Cho nên Đại sứ quán của Mỹ ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng đều không cần đề phòng bị máy bay Trung Quốc “ném bom nhầm”.
5. Máy bay trinh sát quân sự Trung Quốc không thể tới bờ Tây của Mỹ, tới cửa ngõ nước Mỹ để gây ra vụ việc “đụng nhau” với máy bay Mỹ, để phi công Mỹ phải rơi xuống biển.
6. Những nơi nào trên nước Mỹ xảy ra đòi độc lập, muốn ly khai, Trung Quốc cũng không thể thọc tay, không thể đưa ra “Luật Quan hệ” với một khu vực của Mỹ đòi độc lập, muốn ly khai, lại càng không thể bán vũ khí cho bọn họ.
7. Trung Quốc không thể thực hiện chiến lược “PhươngĐông hoá”, “Phân hoá”, chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với Mỹ.
8. Trung Quốc không thể tổ chức ra các “đồng minh”, “liên minh” hữu hình cũng như vô hình nào để nhằm vào Mỹ.
Tuy nhiên, liệu Mỹ có thể để cho Trung Quốc yên tâm với 8 điều trên không?
Kỳ sau: 3. Binh pháp Trung Quốc: Hoà bình là thượng sách