Góc nhìn văn hóa

Chủ nghĩa hậu hiện đại

Thuyết hậu hiện đại - postmoderne, tuy ra đời cách đây hơn hai mươi năm, nhưng đối với độc giả Việt Nam, dường như vẫn còn là vấn đề thời thượng. Một đề tài dễ gây tranh luận, tuy được nói đến rất nhiều, nhưng nếu muốn tìm một chuyên luận giải thích rõ ràng, tường tận, không dễ. Có người cho rằng đó là một chủ nghĩa, một trường phái, có người cho đó là một lý thuyết suông. Tựu trung, những người bênh vực lý thuyết này, thường xem nó như một chủ thuyết văn học mới nhất, vượt xa những trường phái, chủ thuyết văn học “cũ” như: lãng mạn, siêu thưc, hiện sinh… đã “lỗi thời”. Postmoderne mặc nhiên trở thành “postmodernisme”, một “chủ nghĩa văn học” có khả năng hướng dẫn sáng tạo cho toàn bộ những ngànhh nghệ thuật avant-garde thời này. Đối với người đọc bình thường, một số câu hỏi được đặt ra: có một thứ Chủ nghĩa hậu hiện đại thật không? Và nếu có, thì chủ nghĩa ấy có những đường hướng sáng tác như thế nào? Những chữ hậu hiện đại nghĩa là gì? Có từ bao giờ? Do ai đề xướng? Nội dung tư tưởng của từ hậu hiện đại ?...Tóm lại là những yếu tố cơ bản về bất cứ một khái niệm văn học hay triết học nào.

Bài viết này thử tìm cách trả lời những câu hỏi trên đây, trình bày một chân dung hậu hiện đại từ nguồn phát xuất, tức là từ lý thuyết hậu hiện đại của Jean François Lyotard.

Để độc giả dễ dàng theo dõi, trước khi đi vào nội dung vấn đề hậu hiện đại, chúng tôi xin đưa ra một số chú thích quan trọng về:

- Nguồn gốc danh từ hậu hiện đại.

- Tiểu sử JF Lyotard.

- Việc dịch một số danh từ trong sách của Lyotard.

1. Nguồn gốc danh từ

Danh từ posmoderne, hậu hiện đại, xuất hiện trong cuộc tranh luận triết học, từ năm 1979, cùng với sự ra đời của cuốn La condition postmoderne (Điều kiện hậu hiện đại ) của Jean François Lyotard, thật ra, đã được dùng từ trước trong nhiều lãnh vực khác nhau.

Ngay từ năm 1861, nhà khoa học và triết gia Pháp, Antoine Augustin Cournot, đã nói đến khái niệm hậu lịch sử (post-histoire) trong cuốn Chuyên luận về sự liên kết những ý tưởng cơ bản trong khoa học và sử học (Traité de l'enchainement des idées fondamentales dans la science et dans l'histoire). Trong cuốn sách này, Cournot nhắc đến giả thuyết của Hegel về sự hoàn tất (hay kết thúc) lịch sử ở thời điểm hiện đại, để gián tiếp chỉ định những gì xẩy ra sau đó là hậu lịch sử. Sang thế kỷ XX, từ 1934, một số tác giả khác như Arnold J. Toynbee, Oswald Spengler, Alexandre Kojève, G. Benn và Arnold Gehlen đã lấy lại khái niệm hậu lịch sử này trong các chuyên luận khảo sát lịch sử, triết học, triết lý lịch sử, nghiên cứu thi học của họ.

Một mặt khác, cũng năm 1934, nhà phê bình văn học Tây Ban Nha, F.de Onis trong cuốn Tổng tập thơ ca tiếng Tây Ban Nha ở Mỹ và Tây Ban Nha - Antologia de la poésia espanola e hispanoaméricana đã dùng danh từ Postmoderne để chỉ định sự vượt qua (dépassement) chủ nghĩa hiện đại (modernisme) những năm 1905-1914. Nhưng muốn biết sự “vượt qua” này là gì, thì có lẽ phải trở lại khái niệm chủ nghĩa hiện đại trước đã. Từ hiện đại thường dùng trong nghĩa đối lập với truyền thống, nhưng thuật ngữ chủ nghĩa hiện đại - modernisme chỉ ba phong trào hoàn toàn khác nhau: (ở đây chúng tôi không kể đến những chữ chủ nghĩa hiện đại mà người ta hay dùng một cách chung chung, khá bừa bãi, và thường vô nghĩa.)

- về tôn giáo, Modernismephong trào cải cách tôn giáo, nhằm mục đích hiện đại hóa đạo thiên chúa, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chỉ toàn bộ những lý thuyết và khuynh hướng có mục đích làm mới việc chú giải thánh kinh, cải tổ học thuyết xã hội và quản trị nhà thờ, sao cho phù hợp với nhu cầu khoa học của thế kỷ XX; đặc biệt cuộc khủng hoảng tôn giáo dưới thời đức giáo hoàng Pie X (1903-1914) ở Pháp và ở Ý. Những tư tưởng cải cách này, bị nghị định Lamentabili và sắc lệnh Pascendi của giáo hội kết án nghiêm khắc năm 1907.

- về văn học, Modernisme (Modernismo) chỉ trào lưu văn học phát xuất từ châu Mỹ la tinh năm 1890, của một số nhà văn, nhà thơ, viết tiếng Tây Ban Nha mà người khai phá là Ruben Dario (Nicaragua), muốn thoát khỏi ảnh hưởng Tây Ban Nha, nhưng lại nghiêng về nhóm Thi sơn (Parnasse) và nhóm Tượng trưng của Pháp.

- Ngoài ra, Modernisme, còn chỉ phong trào văn chương nghệ thuật ở Brésil, phát sinh từ São Paulo năm 1922, tìm những chủ đề thiên nhiên và văn hóa dân tộc.

Tóm lại chữ hậu hiện đại năm 1934, de Onis dùng để chỉ phong trào văn học Tây Ban Nha –châu Mỹ la tinh, từ 1905 đến 1914, chủ trương vượt qua chủ nghĩa hiện đại - Modernismo, không dính dáng gì đến chữ hậu hiện đại mà JF. Lyotard dùng sau này.

Postmoderne trong văn học Mỹ

Danh từ postmoderne, còn được dùng ở một bối cảnh khác, không liên hệ gì với postmoderne của de Onis ở Tây Ban Nha, đó là trong sử học và phê bình văn học ở Mỹ thập niên 60, để chỉ định những tác giả sinh vào khoảng thập niên 30, chủ trương làm mới tiểu thuyết với những đặc điểm: châm biếmtìm một ngôn ngữ văn chương mới như John Barth, Donald Berthelme, Robert Coover, William Gass, John Hawkes, Kurt Vonnegut.v.v…

Đối với John Hawkes (sinh năm 1925, tại Stanford), kẻ thù đích thực của tiểu thuyết là: tình tiết, nhân vật và đề tài. Để chống lại lối viết hiện thực, ông đưa ra một hình thức tiểu thuyết độc đáo, chứa đựng hai yếu tố: châm biếm và kinh hoàng. Trong cuốn The cannibal (Kẻ ăn thịt người) in năm1949, Hawkes khắc họa hình ảnh một nước Đức quái đản trong tưởng tượng, trước thế chiến thứ nhất và cuối thế chiến thứ hai, với những nhân vật dị kỳ, phế thải, trong cơn ác mộng của một thế giới “ăn thịt người” mà hiện thực không còn chỗ đứng. Trong cuốn Whistlejacket (1988), ông tả một họa sĩ, muốn vẽ cho thật chính xác bức tranh ngựa, đã mổ ngựa để giảo nghiệm cơ thể; muốn vẽ chân dung hai mẹ con, bèn tìm cách mổ moi (trộm) thân xác một người mẹ chết vì sinh nở, để vẽ cho sống động. Tác phẩm của ông toát ra một thứ ngôn ngữ văn chương lạ kỳ, rùng rợn, mê sảng, một không khí ngụ ngôn thi ca khốc liệt.

Wiliam Gass (sinh 1924) cho rằng: tiếng nói theo ta khắp nơi, trong sinh hoạt thầm kín của nhục dục và trong giấc ngủ; ngôn ngữ là hồng tâm của tim người, và ông đã sáng tạo những cách viết, những giọng điệu đặc biệt, văn phong huyền ảo, với những truyện ngắn lạ kỳ đầy hoang tưởng.

Robert Coover (sinh 1932), dùng thủ pháp xáo trộn lịch sử, kể lại và di chuyển việc xử tử Rosenberg vào thời điểm chiến tranh lạnh và cao điểm của phong trào Mac Carthy. Phác họa một chân dung Nixon đầy nọc độc. Nghi ngờ tất cả những version chính thức của thực tại. Coover bẻ chéo thực tại chính thức để tạo ra một thực tại khác với cảm quan độc đáo của mình.

Kurt Vonnegut (sinh 1922) đặt những câu hỏi hóm hỉnh: Tại sao chúng ta lại ở trên trái đất này? Ta có thể làm gì được ở đây? Ta biết gì về thế giới này? Trinh thám giả tưởng là đất dụng võ của ông, ông thích so sánh trái đất với những hành tinh khác để tìm hiểu cái “vũ trụ buồn” của chúng ta. Cố tình pha trộn châm biếm với ngây thơ giả đò, Vonnegut tưởng tượng ra một xã hội mà những người cầm quyền là những nhà bác học và quần chúng trở nên vô dụng. Ông tạo ra những tình tiết ly kỳ giữa các thiên thể, hành tinh Tralfamadore dùng những gì mà trái đất gọi là di tích lịch sử như Vạn lý trường thành để gửi thông điệp. Để giễu cợt “tương lai nhân loại”, ông đặt những câu hỏi lẩn thẩn như “người để làm gì?”, “làm sao yêu được đám người vô dụng?”

John Barh (1930), nhận thấy tất cả đều đã “nói rồi”, để tránh cảnh biết rồi, khổ lắm, nói mãi, ông coi sự đạp đổ văn chương như một phương cách sáng tạo tân kỳ và sống động. Đập phá những ngõ cụt của văn chương hiện đại và sự sói mòn của các hình thức kể chuyện, ông đưa ra cách viết mới mà chế diễu và cợt nhả là những yếu tố chính.CuốnGiles, đứa bé dê - Giles goat boy, trình bầy một sườn chuyện chính (nếu có thể gọi là truyện) nằm ngổn ngang giữa những thư từ, bài tựa, bài viết… Người đọc được biết: sở dĩ có những linh tinh, bừa bãi này là do “lỗi” của tác giả: một cái máy tính “điên”, nhưng rồi độc giả cũng mò mẫm hiểu được “câu chuyện”: một vị giáo sư–văn sĩ tên là J.B, giống hệt hai chữ John Barth viết tắt, được giao nhiệm vụ viết lại chuyện đấng cứu thế: George Giles-đứa bé dê mà mẹ là người và cha là máy tính. Giles, đứa bé dê, dày 700 trang, nhái lại tất cả các giọng điệu ngôn ngữ, tất cả các cách kể chuyện và còn sáng chế ra một cái máy tính khổng lồ “điên”, nuốt tất cả các nhân vật.

Tính cách châm biếm cực kỳ này phát triển mạnh mẽ trong kiến trúc hậu hiện đại những năm 60-70, tạo ra những công trình tân kỳ như nhà kính “lộ thiên” giữa sân bảo tàng viện Louvres, và đôi khi kỳ cục như trung tâm văn hóa Pompidou ở Paris, vượt ra ngoài tất cả những khuôn khổ trường phái đã có.

JF.Lyotard lấy lại những chữ hậu hiện đại này và cho nó một nội dung khác, và có lẽ đó là một trong những lý do mà sau này, người ta dễ dàng móc nối lập thuyết của Lyotard với các tác giả được gọi là hậu hiện đại nói trên, để lập ra một trường phái văn học đầu Ngô mình Sở: Chủ nghĩa hậu hiện đại và đưa vào “chủ nghĩa” này, tên những nhà văn nổi tiếng khác mà tính chất đặc dị trong tác phẩm khá cao như Samuel Beckett, Alain Robbe – Grillet, Jorge Luis Borges, Philippe Sollers, v.v…

Lý thuyết hậu hiện đại của JF Lyotard

Trở về với hậu hiện đại của Lyotard, lý thuyết này khởi nguồn từ hoàn cảnh xã hội, chính trị và văn hoá Pháp, mùa xuân năm 1968.

Sự nổi dậy của sinh viên Pháp xuân 68 - mà Lyotard là một trong những người thầy đã đóng góp tích cực vào- đã dẫn đến cuộc “cách mạng văn hóa toàn cầu”, chống lại tất cả những hình thức thủ cựu, áp đặt của các chế độ văn hóa, chính trị cũ, đặc biệt ở Pháp dưới thời hai tổng thống De Gaulle và Pompidou. Người ta cần một không khí dễ thở hơn, cần tự do hơn, cần những cái mới, tìm mọi cách sáng chế ra những chủ đề tân kỳ, những chữ mới lạ, bởi tất cả đều trở nên cũ kỹ, “phản tiến bộ”.

Trong bối cảnh ấy, cuốn Điều kiện hậu hiện đại của Lyotard ra đời, do nhà xuất bản Minuit ấn hành tại Paris năm 1979. Đây là một cuốn sách triết học bàn về thân phận tri thức (condition du savoir) thời nay, thời mà khoa học và tin học đã nắm “chủ quyền tuyệt đối” trên mọi lãnh vực thông tin và tri thức trở thành một món hàng thương mại trao đổi.

Lập luận của Lyotard dựa trên hai bản lề: Một mặt gắn liền với luận cứ của Hegel về sự hoàn tất lịch sử ở thời hiện đại và mặt kia với sự suy tàn của các dự trình tư tưởng về một tương lai giải phóng con người; nói cách khác, Lyotard muốn đả phá những ý thức hệ (trong quá khứ và hiện đại ) có tham vọng giải phóng con người.

Theo Lyotard, chúng ta đang sống trong thời hậu hiện đại, thời mà tất cả những lý thuyết có từ thời Ánh sáng, đều đã bị đổ vỡ (thời kỳ Ánh sáng là thời điểm văn hóa Tây phương phát triển mạnh, đặc biệt ở Pháp, thế kỷ XVIII, với những nhà tư tưởng như Rousseau, Voltaire, Montesquieu, Diderot v.v...), và xã hội tin học đã biến đổi vận mệnh của tri thức, cuốn sách của ông có tiểu tựa: Báo cáo về tình hình tri thức - Rapport sur le savoir – tất nhiên là trong xã hội hiện hành.

Theo ông, tri thức, trước đây, ở thế kỷ Ánh sáng cũng như dưới thời Marx xít, được hiểu như một sứ điệp truyền bá tư tưởng giải phóng con người, hoặc như một lý tưởng bất vụ lợi. Tri thức bây giờ, ở thời đại tin học này, trở thành một món hàng tiêu dùng, buôn bán, cung cấp lợi nhuận như những hàng hóa khác, nó đã thoát khỏi bản quyền của con người. Lập luận này gặp sự đồng cảm nơi triết gia Đức Jurgens Habermas, trước tiên, trong bài tham luận hiện đại : một dự trình dang dở- La modernité: Un projet inachevé (1980), Rồi sau Habermas mở rộng thành những chuyên luận trong khuôn khổ đọc lại triết học, từ Nietzsche:Phát biểu triết học về hiện đại - Le discours philosophique de la modernité (1985) và Tư tưởng hậu siêu hình- La pensée post métaphysique (1989).

Lyotard và Chủ nghĩa hậu hiện đại

 Nếu nhìn lại quá trình nguồn gốc danh từ postmoderne trên đây, có lẽ người ta sẽ thận trọng hơn khi nhắc đến những chữ hiện đại và hậu hiện đại. Khi đem những tác giả này, tác giả kia, xếp vào khuôn khổ “Chủ nghĩa hậu hiện đại” của Lyotard, là đã đi ra ngoài khái niệm hậu hiện đại, theo nghĩa Lyotard. Xin nhấn mạnh rằng Lyotard dùng chữ postmoderne, mà không dùng chữ postmodernisme, vì lập thuyết của ông chống lại các văn bản lớn, các lập thuyết lớn, tức là các thứ “chủ nghĩa”.

Còn nếu muốn nói đến một chủ nghĩa hiện đại trong văn chương, thì cần phải xác định chủ nghĩa hiện đại nào: trào lưu văn học Tây Ban Nha- châu Mỹ la tinh cuối thế kỷ XIX, chịu ảnh hưởng của nhóm Thi Sơn và Tượng trưng, hay là trào lưu văn học ở Brésil, ra đời năm 1922, tìm những chủ đề trong thiên nhiên và văn hóa dân tộc?

Khi nói đến những tác giả thuộc Chủ nghĩa hậu hiện đại, cũng cần xác định: Chủ nghĩa hậu hiện đại nào? Có phải chủ nghĩa hậu hiện đại mà giới phê bình Mỹ, những năm 60, dùng để chỉ định những tác giả sinh ra khoảng 1930, mà tác phẩm có những yếu tố châm biếmlàm mới văn chương? Nếu là đường lối hậu hiện đại đó, thì chỉ là sự trùng tên nhưng không cùng nội dung với lý thuyết hậu hiện đại của JF Lyotard, ra đời gần ba mươi năm sau. Phần đông những nhầm lẫn, có lẽ đã đến từ sự đồng hoá hai khái niệm khác nhau, nhưng cùng tên này làm một.

Ngoài ra, Lyotard tránh né những định nghĩa và chủ nghĩa, bởi khi nói đến chủ nghĩa là phải xác định một lập thuyết chính xác, với những tuyên ngôn. Và đó chính là những cái mà Lyotard gọi là métarécit, grand récit (siêu văn bản, văn bản lớn) mà ông muốn đánh đổ. Sự mâu thuẫn này sẽ được trình bày rõ hơn trong phần phê bình lý thuyết của Lyotard.

2. Tiểu sử Lyotard

J.F Lyotard là triết gia Pháp, sinh ngày 10/8/1924 tại Versailles. Đậu thạc sĩ triết học năm 1950, sau đó dạy trung học trường Constantine (Algérie) từ 1950 đến 1952. Trở thành trợ giáo (assistant) tại Sorbonne năm 1959 và giảng viên (maitre assistant) tại đại học Paris X (Nanterre) năm 1966. Từ 1973, trở thành giáo sư (professeur) ở Paris VIII và một số đại học khác ở Mỹ. Trong hai năm, từ 1984 đến 1986, JF. Lyotard kế tiếp Jacques Derrida trong ghế chủ tịch Viện triết học quốc tế (Président du collège international de philosophie) do Derrida làm chủ tịch sáng lập từ 1983.

Ngay từ 1954 Lyotard đã gia nhập nhóm Xã hội hay dã man - Socialisme ou barbarie do Lefort và Castoriadis cùng những chiến hữu Đệ Tứ Quốc tế thành lập từ 1949.

Năm 1964 nhóm này bị chia rẽ. Lyotard tham gia thành lập nhóm Quyền lực thợ thuyền (Pouvoir ouvrier) và li khai khỏi nhóm vào năm 1966.

Tại đại học Nanterre, 1968, Lyotard lúc đó là giảng viên, đã hoạt động đắc lực cho phong trào “22 tháng 3” (Mouvement du 22 mars), khởi sự cuộc "cách mạng văn hóa" mùa xuân năm 68.

Là tác giả của 34 tác phẩm triết học và văn học nhưng J.F. Lyotard không có chỗ đứng tương đương như Jurgens Habermas trong triết học hiện thời. Bộ từ điển tác phẩm văn học thông dụng của Pháp chỉ lưu lại cuốn Bất đồng - Le différend trong số đầu sách của Lyotard được mô tả trong từ điển. CònĐiều kiện hậu hiện đại - La condition postmoderne, một hiệu sách lớn như FNAC khu Montparnasse ở Paris, người bán hàng cho biết một năm khá lắm cũng chỉ bán được một, hai cuốn.

Những tác phẩm chính: Hiện tượng luận - La phénoménologie (1954), Phát biểu, hình tượng - Discours, figure (1971), Phiêu lưu từ Marx và Freud- Dérive à partir de Marx et Freud (1973), Điều tiết nhục dục - Economie libidinale (1974), Điều kiện hậu hiện đại - La condition postmoderne (1979) và Bất đồng - Le différend (1983).

Con đường tư tưởng của Lyotard có thể chia làm hai giai đoạn: 

Thời kỳ đầu, chịu ảnh hưởng của triết học Husserl và Merleau-Ponty (La phéménologie, 1954), chủ nghĩa Marx xít và phân tâm học (Dérive à partir de Marx et Freud, 1973), JF. Lyotard trong cuốn Discours, Figure,1971, cố gắng vượt qua giới hạn của hiện tượng luận, ông dựa trên lý thuyết của Freud, về những ham muốn không ý thức được trong vô thức của con người, để thiết lập một thứ "thẩm mỹ mang tính chất hình tượng" (beauté figurale) với những đặc tính không kết hợp (non liée), man dại (sauvage) tiềm ẩn trong nghệ thuật hiện đại.

Khi nhấn mạnh đến vấn đề cường độ của tinh lực nhục dục (énergie libidinale) tức là đến khía cạnh điều tiết (nhục dục) trong phân tâm siêu hình của Freud, Lyotard muốn đề xướng ra một thứ "siêu hình học tinh lực" (métaphysique énergétique) trong cuốn Economie libidinale (1974) (Điều tiết nhục dục).

Riêng về lập thuyết "Mỹ học hình tượng" (Beauté figurale) được ông áp dụng trong khi phân tích tác phẩm một số họa sĩ đương đại như Duchamp, Newman, Asami, Monory, v.v...

Năm 1975, đánh dấu ngõ quặt lớn trong tiến trình tư tưởng của Lyotard: ông bỏ hẳn triết lý nhục dục, bởi vì, sau này cho biết, nó không cho phép ông đặt vấn đề với sự bất công (l'injustice), không cho phép ông điều tra về thân phận tri thức, chất vấn tính chính đáng của các grands récits (siêu văn bản).

Chịu ảnh hưởng của Wittgenstein, Lyotard quay sang nghiên cứu những récits và những jeux de langage (trò chơi ngôn ngữ) mà số lượng hằng hà, không thể liệt kê, tổng kết, để kéo chúng vào một đơn vị duy nhất dưới sự "điều khiển" của một thứ siêu ngôn ngữ hoặc một siêu văn bản có tính cách toàn diện.

Hành động chấp nhận uy quyền của một siêu văn bản, Lyotard gọi là chấp nhận sự “khủng bố của lý thuyết tư biện”(la terreur spéculative) và ông cho đó là sự "bất công tuyệt đối"(l’injustice absolue).

Hậu hiện đại chống lại sự bất công ấy, chống sự độc tài của các lập thuyết trong các siêu văn bản (métarécit), chủ trương bảo tồn và phát huy tính chất đa dạng của các trò chơi ngôn ngữ trong các vi văn bản (petits recits ).

Hai cuốn sách tiêu biểu cho lập thuyết này, cũng là hai tác phẩm chính của Lyotard là Điều kiện hậu hiện đại (1979) và Bất đồng (1983).

Một số danh từ

Tác phẩm của Lyotard dựa trên một số danh từ chủ chốt, nếu không nắm vững nội dung sử dụng của tác giả thì khó có thể đi xa hơn trong việc tìm hiểu tác phẩm. Đó là những chữ récit, métarécit, grand récit, petit recit, légitime, légitimation, savoir, jeux de langage, v.v….

1. Récit, grand récit, métarécit, petit récit.

Récit, nghĩa tiếng Pháp là relation écrite ou orale de faits réels ou immaginaires (liên hệ viết hoặc nói của những dữ kiện thực hay tưởng tượng). Như vậy, récit trong nghĩa rộng, chỉ toàn bộ những bài viết hoặc nói đến bất cứ một vấn đề gì. Tóm lại récit là tất cả những thể loại văn bản và phát biểu. Récit có thể là một câu văn, một lời nói, một câu chuyện, một câu thơ, một truyện ngắn, một truyện dài, một tiểu luận, một huyền thoại, một cổ tích, một lập thuyết triết học…, đó là nghĩa mà Lyotard sử dụng. Khi tạm dịch récit là văn bản, là đã đánh mất nghĩa nói trong chữ récit: ví dụ văn chương truyền khẩu. Vì vậy, chúng tôi sẽ sử dụng cả hai chữ: văn bản và récit. Tuy nhiên, trong bối cảnh mỗi câu mỗi đoạn, récit mang những nghĩa riêng, phù hợp với văn cảnh, chúng tôi có chua thêm tiếng Việt.

Những chữ grand récit, métarécit (có nơi dịch là đại tự sự, hoặc siêu ký thuật), được Lyotard dùng để chỉ định những lập thuyết lớn như những tư tưởng chủ đạo thời Ánh sáng, hệ thống triết học Hegel, hệ thống triết học Karl Marx… tạm dịch là siêu văn bản.

Và chữ petit récit, ông chỉ tất cả những cách lập ngôn “bé” của con người như: chữ, câu, lời ăn, tiếng nói…, tạm dịch là vi văn bản, để đối chiếu với siêu văn bản.

Mục đích của JF. Lyotard là trình bầy tính cách áp đặt của các siêu văn bản trên các vi văn bản, các tư tưởng “lớn” trên các tư tưởng”nhỏ”, nói một cách nôm na là tình trạng cá lớn nuốt cá bé trong sinh hoạt tri thức của con người, trong thời quá khứ và hiện đại. Điều kiện hiện hữu của hậu hiện đại là phải đánh đổ sự bất công sâu sa ấy.

2. Légitime cũng là một chữ chủ chốt trong lập thuyết Lyotard. Ông cho rằng những chế độ văn hóa và tư tưởng liên tiếp từ xưa đến nay, tranh nhau địa vị légitime, tức là cái thẩm quyền, cái địa vị chính đáng, chính thống, chủ yếu. Ví dụ những grands récits như triết thuyết của Hegel hoặc triết học Marx xít, đã từng giữ địa vị chính thống, có thẩm quyền, trong đời sống tư tưởng Tây phương. Chúng ta có thể kể thêm hệ thống tư tưởng Nho giáo, trong đời sống Đông phương.

3. Savoir là tri thức hay là cái biết, phân biệt với connaissance là kiến thức.

4. Jeux de langage (các trò chơi ngôn ngữ). Chữ của nhà triết ngữ học Wittgenstein chỉ những quy tắc khác nhau trong cách lập ngôn. Ví dụ mỗi kiểu nói, viết (hỏi, kêu, tán thán, cầu khẩn, van lậy, xác định, phủ định, v.v...) đều có những luật lệ lập câu, y hệt như trò chơi cờ tướng, có luật cờ tướng, phải di chuyển như thế nào, sắp đặt quân cờ ra sao v.v..., ngôn ngữ cũng vậy.

I. La condition postmoderne (Điều kiện hậu hiện đại)

Trong cuốn Đúng ra - Au juste viết cùng với JL.Thébaud, in năm 1979, Lyotard cũng đã trình bày lập thuyết: muốn đánh đổ sự "độc tài" của những métarécit, méta langage (siêu văn bản, siêu ngôn ngữ) tượng trưng sự "bất công tuyệt đối" thì phải bảo tồn tính chất đa dạng của các "trò chơi ngôn ngữ" trong các petits récits (vi văn bản).

Cuốn Điều kiện hậu hiện đại, đặt quan điểm này trong bối cảnh lịch sử hiện đại và "hậu hiện đại ", tiếp tục khai triển lập thuyết này và coi nó như điều kiện sống còn của tri thức trong xã hội hiện tại.

1. Định nghĩa hậu hiện đại

Trong phần mở đầu, Lyotard xác định ngay mục đích của cuốn sách bằng những dòng:

"Chuyên luận này có đối tượng là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất. Người ta đã quyết định gọi nó là "hậu hiện đại ".

Đó là “định nghĩa” đầu tiên về postmoderne của Lyotard: postmoderne là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất. Ông giải thích tiếp: Chữ postmoderne này đã được các nhà xã hội học và phê bình văn học sử dụng ở Châu Mỹ, nó chỉ định tình trạng của văn hóa sau những biến đổi đã ảnh hưởng đến những luật chơi của khoa học và văn học nghệ thuật từ cuối thế kỷ XIX. Nhưng ở đây, Lyotard chỉ muốn khoanh tròn vấn đề trong bối cảnh khủng hoảng récits mà thôi, và ông lập luận rằng: Khoa học, tự nguồn, đã xung đột với récits (truyện kể). Nó dùng chuẩn mực cũ kỹ để xếp các loại récits vào chung một rọ, thoát thai từ những cổ tích hoang đường.

Khoa học tự định lấy luật chơi, tự dựng tiêu chuẩn, tự khoác lên mình lớp áo chính danh gọi là triết học, và khi những đỉnh cao phát biểu này lại dựa vào những đỉnh cao tư tưởng (métarécit) như Biện chứng tinh thần hay Giải luận giác quan v.v... thì người ta gọi đó là moderne ( hiện đại, tiến bộ). Người ta đã chính thống hóa (légitimiser) cái biết (tri thức- savoir) bằng một thứ métarécit (đỉnh cao luận thuyết) được coi như triết lý của lịch sử. Và như thế, công lý đã đồng hóa grand récit (luận thuyết lớn) với chân lý (la vérité).

Lyotard viết: "Nói một cách giản dị nhất, người ta coi "postmoderne" là sự không tin vào những luận thuyết lớn."

Đó là “định nghĩa” thứ nhì về postmoderne.

Tóm lại, trong lời mở đầu, Lyotard đưa ra hai “định nghĩa” hay hai tính chất của hậu hiện đại khác nhau:

-Hậu hiện đại là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất.

-Hậu hiện đại là sự hoài nghi các siêu văn bản.

Mục đích cuốn Điều kiện hậu hiện đại là trình bầy hai hàm ý trên đây.

Tác phẩm chia làm 14 chương và có thể chia thành một số những tiêu đề chính như sau:

1- Trình bầy số phận của tri thức trong các xã hội vi tính hóa.

2- Chứng minh tính cách áp đặt của khoa học đối với văn bản trong quá khứ và hiện đại.

3- Hậu hiện đại là tình trạng mất thẩm quyền của các siêu văn bản và sự hiện hữu của các vi văn bản.

4- Khoa học hậu hiện đại dựa trên sự nghiên cứu những bấp bênh, vô thường (les instabilités) để cho những cái gọi là sai, cũng sẽ được quyền sống như những cái được gọi là đúng.

Đây là một cuốn sách triết học mà tác giả trình bày chặt chẽ dòng tư tưởng chủ lưu của mình: đả phá những hệ thống lập thuyết đã có sẵn, đả phá cái gọi là khoa học tự chính thống hóa, dựa trên những phương pháp luận cứng ngắc, để phán xét đúng, sai một cách máy móc. Thế giới vi tính càng giúp cho đường lối chính thống này phát triển: cái gì được mã hóa để đưa vào máy móc vi tính sẽ được giữ lại, cái gì không mã hóa được sẽ bị đào thải. Lyotard biện hộ cho một tinh thần bình đẳng giữa những cái "lớn" và cái "bé", giữa những lý thuyết lớn, nhỏ, giữa những truyện lớn, truyện nhỏ, giữa những văn bản lớn, văn bản nhỏ, bằng một lập thuyết đi từ sự khảo sát bản thể của ngôn ngữ. Điều mà ông đòi hỏi là quyền sống của những cái mà ông gọi là vi văn bản.

Trong chương đầu, ông khoanh vùng phạm vi khảo sát vào số phận của tri thức trong những xã hội vi tính hóa, Lyotard xác định "thời điểm" hậu hiện đại, đồng thời đưa ra “định nghĩa” thứ ba về hậu hiện đại : "Giả thiết làm việc của chúng tôi là tri thức đã thay đổi phận vị (statut),từ khi xã hội đi vào thời điểm được gọi là hậu kỹ nghệ và văn hóa đi vào tuổi được gọi là hậu hiện đại. Ở châu Âu, sự chuyển tiếp này, ít ra,đã bắt đầu từ cuối thập niên 50, đó là thời kỳ hoàn tất kiến thiết Châu Âu sau thế chiến.(trang 11)

Ở đây, Lyotard đã xác định yếu tố thứ ba về hậu hiện đại : thời kỳ được ông gọi là hậu hiện đại, bắt đầu từ cuối thập niên 50, ở Âu châu, thời kỳ mà tri thức bắt đầu thay đổi phận vị.

2. Thân phận tri thức

Theo ông, từ cuối thập niên 50 trở đi, những phương pháp khoa học và kỹ thuật sắc sảo và tân kỳ nhất đều dựa trên căn bản ngôn ngữ, đặc biệt như ngữ âm học và các lý thuyết về ngữ học, như sự dịch thuật và chuyển tải các thứ ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ máy móc, như vấn đề lưu trữ các kho dữ kiện và truyền thông tin học vv…

Sự biến chuyển kỹ thuật này, gây khó khăn lớn cho tri thức cả về nghiên cứu lẫn truyền đạt: qua những giai đoạn chuyển thể như thế, từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia, bản chất của tri thức không còn nguyên vẹn nữa. Một kiến thức (connaissance) chỉ được đưa vào những kênh truyền thông mới và trở thành "dùng được" nếu người ta có thể "phiên dịch" hay mã hóa nó thành lượng số thông tin (quantités d'information). Như vậy, chắc chắn rằng một phần của tri thức, cái phần không thể mã hóa được, sẽ bị bỏ rơi, và hướng đi của nền nghiên cứu mới, trong thời đại tin học này, sẽ tùy thuộc vào điều kiện phiên dịch (hay điều kiện mã hóa) trong ngôn ngữ máy móc (trang 13).

Những "nhà sản xuất" tri thức, cũng như những người "tiêu dùng" tri thức ngày nay, bắt buộc phải có phương tiện phiên dịch để chuyển tải tri thức trong việc quảng bá cũng như học tập. Với sự độc quyền của tin học thì chỉ có một thứ "tri thức" được chấp nhận, thực sự ngự trị, được chính thức hóa, qua ngả tin học.

Sự kiện này dẫn đến chỗ: người ta đã khai trừ cái biết (tri thức) ra khỏi người biết, đến nỗi kẻ biết có thể bị truy tố về kiến thức của mình. Tri thức, như thế trở nên một sản phẩm trao đổi, mua bán, để tiêu thụ trong một quy mô sản xuất mới trong đó tri thức sẽ không còn là cứu cánh của chính nó, và cùng một lúc, nó mất đi cái giá trị sử dụng.

Trong thời điểm hậu kỹ nghệ, hậu hiện đại này, khoa học phát triển trong lòng những bộ máy sản xuất của các quốc gia, và như thế tri thức hơn lúc nào hết, trở thành phương tiện tối ưu để đạt lợi tức tối đa, đạt những thành quả tối đa. Trong sự thương mại hóa tri thức toàn cầu này, nước nào nắm được phương thức sản xuất và truyền bá tri thức mạnh nhất, sẽ làm chủ trái đất.

Do đó, vấn đề tri thức, ở thời buổi tin học, hơn lúc nào hết,vẫn nằm trong tay nhà cầm quyền.

Xã hội hiện đại trước đây được chia làm hai mô hình:

- Xã hội cơ khí, kiểu Talcott Parsons, dựa trên sự chạy đua thành tích và lợi nhuận để phát triển.

- Xã hội Marx xít dựa trên nguyên tắc đấu tranh giai cấp để giải phóng con người.

Sự thất bại của hai mô hình xã hội này mà lý thuyết đều dựa trên phương pháp luận của thế kỷ XIX, đưa đến câu hỏi: Thân phận của tri thức trong xã hội kỹ nghệ tân tiến ra sao? Và ông trả lời:

Tri thức chỉ có giá trị khi nó không dính liền và hòa tan với bộ máy khổng lồ của xã hội mà phải là một nguyên tắc phản đối. Nói cách khác, tri thức phải tự lựa chọn một trong hai con đường: đồng nhất hay đối đầu, vận hành (xã hội) hay phê phán (xã hội). Những quyết định thường rất khó, hoặc bất kỳ, tùy tiện. Muốn thoát khỏi tình trạng này, người ta tìm cách phân biệt hai loại tri thức: một loại tích cực, có thể sử dụng trong những kỹ thuật sản xuất; và một loại có tính cách phê phán hay dẫn giải, có nhiệm vụ kiểm tra những "giá trị", những "mục đích", và ở vị thế đó, nó là trở lực cho tất cả mọi hình thức lạm dụng tư tưởng.

Đại lược đó là bộ mặt của tri thức hiện đại.

3. Nguyên tử hoá xã hội

Lyotard không chấp nhận bộ mặt ấy và ông đưa ra viễn ảnh hậu hiện đại : phủ nhận giải pháp "chia đôi tri thức" vừa nói ở trên, bởi nó vẫn còn tùy thuộc vào ý niệm chia rẽ, đối lập, đương đầu, không phù hợp với cách sống "hậu hiện đại ".

Ảnh hưởng triết ngữ học của Wittgenstein và cấu trúc luận, Lyotard đề nghị cách tiếp cận xã hội như tiếp cận ngôn ngữ. Theo ông, xã hội có cấu trúc như một cấu trúc ngôn ngữ. Liên hệ xã hội cũng là liên hệ ngôn ngữ. Trường hợp Robinson Crusoé là một ví dụ hiển nhiên: nếu sống một mình không ai trò chuyện, không hỏi đáp, thì không có liên hệ, không có xã hội.

Đặt vấn đề “nguyên tử hoá xã hội”, Lyotard cho rằng: mỗi người là một “nguyên tử” của xã hội và những nguyên tử người này bị đặt ở giao điểm của những liên hệ thực dụng; y luôn luôn giữ vị trí của kẻ đứng giữa bùng binh, đón nhận thông điệp ngôn ngữ từ khắp nơi gửi về. Ở vị trí đó, y bị đánh động, bị di chuyển, bởi những thông điệp ngôn ngữ mà y nhận được hay y gửi đi, trong một chuyển động không ngừng. Cuộc sống tập hợp tất cả những cặp phạm trù đối tác ngôn ngữ: vị trí của hai kẻ đối thoại giống như vị trí của hai đấu thủ, trên một võ trường, mỗi đối tác sẽ phải chịu đựng những đánh trực tiếp, khiến y phải dao động, phải di chuyển, không chỉ ở địa vị người nghe mà còn ở cả địa vị người nói và nội dung thông điệp nữa, những nói ra sẽ bị những phản hồi. Cái “đấu trường ngôn ngữ” ấy chính là hình ảnh của mối liên hệ xã hội (trang 34), có khả năng làm thay đổi tương quan lực lượng giữa hai địch thủ; nhưng điều đó không quan trọng, điều quan trọng là các đấu thủ phải tạo được những cú mới (tức là những phát biểu mới) hoàn toàn bất ngờ (trang 33). Đó là cách thay đổi bộ mặt xã hội mà nhiều nhà xã hội học cũng như những nhà ngữ học hoặc triết ngữ học đã đề cập đến.

Sự “nguyên tử hóa xã hội thành những hệ thống mềm dẻo của của các trò chơi ngôn ngữ” là một điều kiện của hậu hiện đại, đồng thời được Lyotard xem như một phương thuốc điều trị những bệnh nhức nhối, quan liêu của hiện đại.

Ông cho rằng, để chữa chứng bệnh quan liêu, cứng ngắc của thời hiện đại mà xã hội được biểu trưng qua những siêu văn bản, trong đó con người được xác định dưới những nét chung chung của cái gọi là “ta” hay “chúng ta”, thì, triệt để không thể chấp nhận cái ta bao trùm lên tất cả đó: không có một thứ phát biểu nào có thể gọi là phổ quát cho tất cả mọi người. Xã hội được dệt trên một mạng lưới gồm hằng hà sa số những phát biểu hay những vi văn bản, trong những trò chơi ngôn ngữ khác nhau. Xã hội được gọi là hậu hiện đại với điều kiện nó phát huy tính chất đa dạng, tính chất hằng hà sa số, không đếm được của vi ngôn ngữ. Phải tạo ra một trật tự mới, trong đó tất cả mọi trò chơi ngôn ngữ đều có quyền hiện diện, và quyền ngộ luận (paralogie) tức là nói sai cũng phải được tôn trọng.

4. Thực chất của tri thức récit

JF. Lyotard cho rằng: căn bệnh trầm trọng của thời quá khứ và thời hiện đại là bệnh thẩm quyền, hay là vấn đề chính thức hóa, chính thống hóa tri thức. Và thủ phạm hàng đầu đã gây ra căn bệnh này là khoa học. Để chữa căn bệnh ấy thì phải tìm hiểu tận nguồn: thế nào là tri thức récit (văn bản, văn chương) và thế nào là tri thức khoa học? Tại sao khoa học lại tự cho mình có thẩm quyền phán đoán, tự đưa ra những hệ thống lập luận để giám định cái đúng, cái sai của récit (văn bản), trong khi récit (văn chương, văn bản) không có tham vọng phán đoán ai hết.

Để trả lời câu hỏi này, trong chương 6 của Điều kiện hậu hiện đại, Lyotard mô tả những đặc điểm của tri thức trần thuật (savoir narratif). Vấn đề ở đây được giới hạn trong trường hợp những truyện bình dân, cổ tích hoặc văn chương truyền khẩu, và ông bàn đến tính chất thực dụng của tri thức truyện kể. Theo ông, truyện kể đã có vai trò quan trọng trong sự hình thành tri thức cổ truyền.

Truyện bình dân, cổ tích, tự chúng đã mô tả những nét tiêu cực hay tích cực của xã hội, phản ánh những gì được chế độ xã hội chính thức công nhận. Ví dụ truyện cổ tích phương Đông thường đề cao những giá trị: trung, hiếu, tiết, nghĩa của xã hội Đông phương cổ truyền.

Vì vậy, những truyện bình dân, cổ tích, một mặt, định nghĩa những tiêu chuẩn thẩm quyền của xã hội mà chúng phản ánh, ở đây là: trung, hiếu, tiết, nghĩa; đồng thời đánh giá những thành tích mà các nhân vật trong truyện đã đạt được trong xã hội ấy: người trung hiếu, tiết nghĩa; kẻ bội bạc, gian hùng v.v…

Hình thức truyện kể, khác với những hình thức phát biểu khác của tri thức: bởi vì truyện kể, tự nó đã đa dạng, hàm chứa nhiều trò chơi ngôn ngữ khác nhau. Qua các cách xếp đặt câu văn, lời ăn tiếng nói, tự nó đã có tính cách biểu thị toàn diện xã hội. Ngoài ra, sự truyền đạt truyện bình dân, luôn luôn tuân theo những quy luật xác định đời sống thực tế của xã hội mà truyện ấy phát xuất.

Ví dụ người Cashinahua bao giờ cũng bắt đầu câu chuyện bằng:"Đây là chuyện của... tôi vẫn được nghe như thế, và bây giờ tôi sẽ kể cho bạn, bạn hãy lắng nghe..." và kếtluậnbằng câu:"Đến đây chấm dứt chuyện của... Người đã kể cho bạn nghe tên là..." Cách kể chuyện như thế cho thấy rằng người kể chuyện (dù chuyện do anh ta bịa ra) cũng cứ nói: đây là chuyện anh ta nghe được và kể lại, nhân vật chính có thể là người kể (và cũng là người nghe lại), và người đang nghe cũng sẽ là người kể (trong tương lai)... do đó, người kể, người nghe, nhân vật, có thể cùng kiêm một nhiệm vụ. Điều này xác nhận một triết lý sống và cũng là mối tương quan xã hội của người Cashinahua: Biết nói, biết nghe biết hành động. Đó là bản chất tri thức xã hội của họ trong đời sống cộng đồng và chỉ qua cách họ truyền đạt truyện kể ta cũng có thể biết được.

Khía cạnh chót của văn chương truyền khẩu và cũng là khía cạnh quan trọng nhất: đó là chúng có sức tác động trên thời gian.

Thật vậy, những hình thức truyền khẩu như: ca dao, tục ngữ, hát ví, hát vè, hát ru, bài hát trẻ con, đánh đồng, đánh chắt... thường tuân theo một lề luật, một tiết điệu đặc biệt, phù hợp với lễ nghi hoặc một sự tích, điển cố nào đó, đã có từ xưa, thời mà récits phát xuất. Chúng ta có thể lấy một ví dụ trong văn chương truyền khẩu của Việt Nam chẳng hạn, ví dụ những câu đồng dao của trẻ con như: “nu na nu nống, cái cống nằm trong, con ong nằm ngoài,…” hoặc “chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa, con ngựa chết trương,..”. Những lời hát này đã gắn bó với một sự tích nào đó, từ xưa, đối với chúng ta bây giờ chúng rất khó hiểu, gần như những lời thần chú vậy, thế mà người ta vẫn nhớ và truyền tụng lại, tại sao?

Lyotard cho rằng một lời nói hay một câu hát, được truyền khẩu từ đời này sang đời khác (tức là có khả năng tạo biến cố trên thời gian) khi chúng có nhịp điệu (mètre) vượt lên trên giọng điệu (accent). Thời gian khi ấy sẽ không xóa bỏ chúng (vì không có nghĩa) mà trở thành đồng lõa, ngăn cản bộ nhớ truy lùng ý nghĩa để gửi chúng vào quên lãng. Chúng tự tạo ra biến cố vượt thời gian, nói cách khác, thay vì bị thời gian cuốn vào quên lãng thì chính những câu hát này lại có khả năng làm tan biến thời gian đi, để ở lại: chúng trở thành phi thời gian.

Những trường hợp truyền khẩu như vậy, chứng tỏ, một văn bản hay một vi văn bản có khả năng tự chính thức hóa lấy mình qua ngả dân gian, để tồn tại (trang 43).

5. Tri thức khoa học

Sau khi xác định bản chất của tri thức văn chương (truyền khẩu) trong chương 6, ở chương 7, Lyotard viết về thực tế của tri thức khoa học, ông chứng minh rằng tri thức khoa học, ngược lại, không đi qua ngả chính thức hóa dân gian ấy, mà tự chính thức hóa bằng biện pháp khai trừ.

Đối với một phát biểu văn chương, dù truyền khẩu hay văn bản, ai cũng có thể đọc, nghe, bàn cãi... Nhưng đối với một phát biểu khoa học, thì cả người nói lẫn người nghe đều phải có cùng một trình độ, mới có thể bàn cãi được, tức là phải có một sự cân bằng trí tuệ, bình đẳng về kiến thức: người không có "thẩm quyền" và trình độ khoa học thì không bàn cãi chuyện khoa học được.

Nếu so sánh thực tế khoa học với thực tế văn bản, người ta thấy những khác biệt sau đây:

1. Tri thức khoa học không công nhận các trò chơi ngôn ngữ; phương pháp của nó là loại trừ. Một phát biểu khoa học chỉ được công nhận là đúng qua ngả biện luận và chứng minh. Nhà bác học là người tìm ra một phát biểu đúng và loại những phát biểu khác.

2. Tri thức khoa học, do đó, đã khai trừ các trò chơi khác của ngôn ngữ mà sự hòa hợp tạo nên mối tương quan xã hội. Ở tri thức khoa học chỉ có sự hòa hợp giữa các giới chuyên môn, khoa bảng. Vì vậy, một cá nhân bình thường, tức là một nguyên tử của xã hội làm sao có thể đạt được "thẩm quyền khoa học"?

3. Ngay cả trong ngành nghiên cứu, thẩm quyền cũng chỉ dành cho một người: người phát biểu.

4. Nhưng một phát biểu khoa học, dù đã được giới khoa học chính thức công nhận, vẫn có thể bị xét lại: cái gọi là tri thức khoa học hôm nay, một sớm một chiều có thể bị những phát biểu ngày mai lật đổ hoàn toàn.

5. Vì vậy luật chơi khoa học khác hẳn luật chơi văn chương, ngôn ngữ: tri thức văn bản không đòi hỏi phải được chính thức công nhận, qua ngả biện luận và bằng cớ, tức là nó không đòi hỏi sự chính thống hóa đến tự bên ngoài. Tri thức văn chương, nhất là văn chương truyền khẩu, tự vượt thời gian, tự chính thức hóa lấy qua ngả dân gian. Nó coi sự không hiểu các vấn đề khoa học là bình thường, và coi tri thức khoa học như một khía cạnh khác trong gia đình tri thức văn hóa nói chung. Khoa học, ngược lại, không như thế. Nhà khoa học tra khảo tính cách đúng đắn của récit, đặc biệt các truyện thần thoại, cổ tích v.v... và nhận thấy chúng không trải qua các giai đoạn lý luận và thử nghiệm, bèn xếp chúng vào loại man dại, bán khai, kém phát triển, hủ lậu, vong thân, phát xuất từ dư luận, phong tục, thế quyền, thành kiến, dốt nát, không tưởng...Những récit, đối với khoa học, chỉ là những loại ngụ ngôn, thần thoại, hoang đường, để cho đàn bà, con nít đọc và nghe. Người ta lại còn tìm cách rọi ánh sáng khoa học vào những tối tăm ấy để văn minh hóa chúng, giáo hóa chúng, làm cho chúng “phát triển". Sự bất bình đẳng này xuất phát từ quan niệm “khai phá” của cái gọi là đế quốc văn hóa (impérialisme culture) Tây phương, tự cho mình quyền cầm đầu, quyền chính thống (trang 48).

6. Sự chính thống hoá tri thức khoa học bằng văn bản

Sau khi vạch rõ “tội trạng” của khoa học trong chương 7, ở chương 8 Lyotard nói đến vai trò của truyện kể và sự chính thống hóa kiến thức. Ông cho rằng:

Mặc dù khoa học chối từ récit, khinh bỉ các biện pháp văn bản như truyện kể nói chung, nhưng vẫn không ngần ngại sử dụng chúng. Ví dụ rõ nhất: một nhà bác học, vừa phát minh ra một cái gì đó. Ông sẽ được các đài phát thanh, truyền hình phỏng vấn. Ông nói gì trên đài? Ông không thể nói về nội dung khoa học của cái mà ông vừa phát minh cho khán thính giả nghe, vì chẳng ai hiểu gì cả. Ông bắt buộc phải thuật lại, rằng ông đã phát minh ra làm sao, trong điều kiện nào, và như vậy là ông phải kể một chuyện, tức là ông vẫn phải dùng tri thức trần thuật (savoir narratif) để quảng bá công việc của mình. Hơn nữa, ông còn phải dùng récit-văn bản để viết bài thuyết minh công trình nghiên cứu, ấy là không kể, ông lại còn phải dùng đến văn bản để xin ngân quỹ thực hiện…

Những tác phẩm như Đối thoại của Platon hoặcPhương pháp luận của Descartes (hồi ký, tiểu thuyết tư tưởng); là những bằng chứng hùng hồn về sự dùng văn bản để chính thức hóa tri thức khoa học. Còn đầy rẫy những ví dụ về sự chính thống hóa tri thức khoa học bằng văn bản, nhưng tiêu biểu nhất là bộ Bách khoa toàn thư về khoa học triết lý của Hegel, in năm 1817. Bộ sách này trình bầy một cách có hệ thống học thuyết của Hegel và được in ra cho sinh viên đại học dùng. Cách chính thống hóa một hệ tư tưởng như thế, JF. Lyotard gọi là tinh thần tư biện trong đại học: đem một siêu văn bản ra để giáo hóa quần chúng (tương tự như ở phương Đông với học thuyết Khổng Tử).

Hậu hiện đại chống lại sự chính thống hóa các siêu văn bản như thế và đề nghị một hướng đi khác. Hướng đi này dựa trên tình trạng mất thẩm quyền của khoa học và do đó của các siêu văn bản.

7. Sự mất thẩm quyền của khoa học

Lyotard cho rằng: tình trạng mất thẩm quyền này nhen nhúm ngay từ cuối thế kỷ XIX, với mầm mống hoài nghi phát xuất từ trong lòng những siêu văn bản: Chính trong văn bản tư biện, Hegel đã ngấm ngầm thú nhận sự hoài nghi của mình về kiến thức thực chứng. Thực vậy, khoa học thực chứng không phải là một tri thức và hệ thống tư biện muốn bác bỏ nó. Hệ thống tư biện hoài nghi tri thức khoa học và chứng minh rằng tri thức này chỉ xứng đáng là tri thức, nếu người ta chấp nhận tiền đề của nó mà thôi.

Ví dụ: Hãy xem một luận chứng tư biện sau đây:” Một phát biểu khoa học chỉ được xem là tri thức, nếu nó nằm trong một quá trình phát sinh chung, và chỉ như thế mà thôi”. Lời phát biểu này, chỉ có giá trị, nếu người ta chấp nhận tiền đề “có một quá trình phát sinh chung”. Tiền đề này luôn luôn là điều kiện tối hậu cho bất cứ một phát biểu, một biện chứng khoa học nào. Nếu không có tiền đề thì không có trò chơi biện chứng và khoa học rơi vào chỗ vô nghĩa.

Nhưng Lyotard cho rằng: nếu người ta hiểu tiền đề theo một nghĩa hoàn toàn khác, trong bối cảnh hậu hiện đại, thì nó lại có thể chấp nhận được và ông đề nghị “tiền đề trong nghĩa hậu hiện đại là một nhóm quy luật phải chấp nhận để chơi trò chơi tư biện” (trang 64), với phát biểu này, JF. Lyotard muốn hạ bệ khoa học và biện chứng khoa học xuống ngang hàng với những trò chơi ngôn ngữ khác. Ông viết:“Khoa học giữ vị trí riêng của mình trong cuộc chơi, nó không có thẩm quyền gì cả trên các trò chơi ngôn ngữ khác.” (trang 66). Theo ông, tất cả những trò chơi ngôn ngữ, hằng hà sa số, đa dạng, đã dệt nên mối tương quan xã hội: vô vàn cách nói, cách viết, cách lập ngôn khác nhau, tạo nên những luật chơi khác nhau, trong ngôn ngữ.

Lyotard lấy lại câu nói của Wittgenstein để ví: ngôn ngữ của chúng ta như một thành phố đã có từ xưa; tất cả những đường cong ngõ quặt, phố nhỏ phố lớn, nhà này nhà khác, đời này đời khác…chen chúc nhau; có những chữ mới đến thay chữ cũ, cũng như những nóc nhà mới đè lên những nền móng đổ nát, điêu tàn và bây giờ, người ta có thể thêm vào những ngôn ngữ máy móc, ngôn ngữ điện tử v.v.. Vì vậy, không thể xác định một luật lệ chung nào cho “các mái nhà ngôn ngữ”, cũng như không thể có một thứ “siêu ngôn ngữ”bao trùm lên tất cả. Do đó, không thể lấy một thứ mốc, một thứ định đề khoa học nào để quyết định cái đúng, cái sai, trong văn bản. Cũng không thể dùng lợi nhuận, hoặc căn cứ vào thành tích, tiêu chuẩn để đánh giá văn chương (trang 67).

Ngành giáo dục, từ trước đến nay, vẫn chỉ dựa trên những tiêu chuẩn của siêu văn bản để đào tạo ra những thành phần, ưu tú có nhiệm vụ quản trị xã hội. Hậu hiện đại không chấp nhận tất cả những giải pháp có tính cách áp đặt và cục bộ như thế. Hậu hiện đại đề nghị một hướng đi mới, trong đó các vi văn bản có thể nẩy nở, phát triển, trong điều kiện bình đẳng với các siêu văn bản. Khoa học hậu hiện đại sẽ là sự nghiên cứu những bấp bênh, vô thường của đời sống. Ở đây không còn khái niệm đúng, sai, có thẩm quyền, không có thẩm quyền mà cái lớn, cái nhỏ, đều có thẩm quyền trong mỗi địa hạt, mỗi trò chơi ngôn ngữ của chúng. Ngộ luận (paralogie) hay nói sai cũng là một thẩm quyền, bất đồng ý kiến cũng là một thẩm quyền.Trong cuốn Bất đồng, JF. Lyotard phân tích bản chất của các trò chơi ngôn ngữ và đòi hỏi tinh thần tôn trọng sự “bất đồng” như điều kiện sống còn của ngôn ngữ.

(còn nữa)

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114448030

Hôm nay

2176

Hôm qua

2256

Tuần này

21668

Tháng này

214289

Tháng qua

120141

Tất cả

114448030