Ở bài viết này, chúng tôi không có tham vọng bàn về sự đa dạng của tâm lý người Việt lưu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, mà chỉ xin phác thảo một vài nét văn hóa ứng xử tình nghĩa, lịch lãm, dễ thương kết tinh trong bề sâu đời sống tinh thần người vùng Quan họ. Những đặc điểm tâm lý ấy đã di thực vào thơ Hoàng Cầm, tồn tại vĩnh cữu như một quy ước ngầm, và góp phần tô điểm, tạo dựng nên một phong cách, diện mạo riêng không thể trộn lẫn, nhòa mờ trong số các gương mặt thơ thành danh thế kỷ XX. Theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc “Phong cách là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử, và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả”[3, 31]. Rõ ràng, sau mỗi mùa hội làng, sau canh hát dân ca; cái còn đọng lại chen lẫn vào cõi thơ Hoàng Cầm là bóng hình thấp thoáng của những liền chị, liền anh bên dòng sông, ngọn núi, đình chùa, bãi bờ làng quê xứ Bắc. Và một lớp nhân quần trong lễ hội nhân sinh vẫn thấy lòng mình còn nặng nợ, vương vấn, nhớ tiếc thủa ngày xưa, vẫn dàng díu, xoắn bện, dùng dằng với thế thái nhân tình.
1. Có thể nói ước lệ rằng, “dùng dằng” là một cụm từ đắc địa mà cụ Nguyễn Tiên Điền sử dụng để mô tả về sự lưu luyến, phải lòng nhau của hình tượng cặp đôi “trai tài gái sắc” Kim Trọng - Thúy Kiều trong thời khắc trẩy hội mùa xuân “Dùng dằng nửa ở nửa về/ Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần” (Truyện Kiều). Đây không chỉ là nét đặc thù được hư cấu từ góc nhìn thiện cảm của Nguyễn Du với những con người tài tử, mà còn là nét phổ biến lắng đọng bên trong tâm thức cư dân người Việt lưu vực đồng châu thổ sông Hồng. Bởi vì, xét từ góc nhìn địa văn hóa, tâm lý “dùng dằng” được xem như một sự khúc xạ từ độ bằng phẳng nhàn hạ của bước chân người nông dân chốn đồng bằng, hoặc in dấu từ sự uốn lượn của các dòng sông, bãi bờ phù sa ngoắt nghéo, và khác biệt với bước chân của cư dân vùng cao với dốc núi cheo leo, trèo trượt, hơi thở gấp gáp hổn hển, gắng gỏi của con người. Có lẽ, đặc điểm này đã được biểu hiện khá rành rõ trong tâm lý người làng quan họ nói riêng, và suối nguồn thơ ca người Việt nói chung. Bởi ở đó có dòng sông Cầu “lơ thơ nước chảy”, sông Đuống “nghiêng nghiêng”, và sông Thương “nước chảy đôi dòng”. Đặc biệt, qua sự đọc các văn bản thơ Hoàng Cầm, độc giả rất dễ nhận ra một sự “dùng dằng” như một kiểu tích hợp của các giá trị văn hóa truyền thống trong không gian thơ. Quả vậy, có một mô hình nhà Nho tài tử ít nhiều biến dịch và chi phối không nhỏ đến thơ ông. Và nếu nhìn từ phía gia đình, có thể nhận thấy hình ảnh một người cha là nhà nho cuối mùa ít nhiều xê dịch, một người mẹ quan họ thôn quê mộc mạc, hồn nhiên, lúng liếng đa tình. Có lẽ, chỉ ở những thi sĩ tắm mình trong sinh quyển ngôn ngữ dân ca, dân nhạc xứ đồng quê Kinh Bắc, đồng thời hít thở trong bầu “sinh quyển” văn hóa Quan họ, và gắn bó tâm hồn mình với nền nếp ứng xử nền nã, hữu tình mới có thể khúc xạ được vào máu thịt nhiều giá trị nhân văn có sức sống lâu bền, bởi lẽ “Cái gì cổ còn lại với chúng ta ngày nay hẳn đã biến đổi ít nhiều qua các thời đại, nhưng cốt lõi xưa vẫn còn”[1, 81].
Một điều thú vị nữa là, khi thưởng thức các văn bản thơ trữ tình của Hoàng Cầm, độc giả sẽ dễ dàng tri nhận được dư âm dìu dặt của một số làn điệu dân ca quan họ giao duyên, và cảm giác bắt gặp nhiều điệp khúc bịn rịn khép lại lễ hội mùa xuân “Người ơi người ở...đừng về”. Cũng có khi “Hội đã tan rồi không buông vạt áo”, và dĩ nhiên là những liền chị, liền anh quan họ sau buổi chia tay đám bạn hát, từ sâu thẳm trong đầu vẫn còn hoài nhớ “Người về cởi áo cho nhau/ Người về cởi áo gối đầu lấy hơi/ Người về đằng ấy xa xôi/ Xin người nghỉ lại với tôi bên này” (Người về bỏ bạn sao đành - Dân ca quan họ), vẫn luôn canh cánh đợi chờ vào một ngày “đến hẹn lại lên” ở mùa hội năm sau. Phải chăng, cái “hương âm” ngọt ngào của nhiều canh hát ngồi tựa mạn thuyền, trên đê, đầu đình, hay một sườn đồi thoai thoải, hoặc tựa song đào ở nhà một “bọn quan họ” mạnh thường quân nào đấy vẫn còn đằm sâu trong ký ức. Có những kỷ niệm thăng hoa trong âm nhạc, lời ca mà liền anh, liền chị Kinh Bắc thường mang về sau mỗi mùa hội làng ngắn ngủi, là nỗi nhớ thương da diết về một “khoảng trời riêng”, hoặc một sự ám ảnh từ ánh mắt, bờ môi, nụ cười duyên dáng làm “nghiêng mái chèo” và rất khó diễn giải thành lời. Nó như những “khoảng lặng” ùa đến bất chợt bên vợ, bên chồng, thậm chí “Đồng sàng dị mộng” như một niềm riêng khó nói. Vì vậy, nhiều khoảnh khắc tự do tươi mát của con người trong lễ hội mùa xuân như : sự ngẫu hứng ứng tác tài hoa, sự quy cũ trong “đặt câu bẻ giọng”, “giọn chữ cho nền nã”, nhả chữ cho nhịp nhàng “vang rền nền nẩy” cứ chập chờn thức dậy và ám ảnh bên trong cõi lòng. Như vậy, lễ hội nguyên sinh đã phần nào hòa giải được mối thân tình cộng cảm giữa con người trong làng, trong nước. Mặt khác, chúng lại tích tụ, nhức nhối nơi miền vô thức, tiềm thức, cũng có lúc bất chợt ùa về đày ải, dồn đuổi người nghệ sĩ. Hơn nữa, một điều không thể chối cãi là những quy luật tuần hoàn bất tận của tự nhiên, của dòng đời cứ lặng lẽ trôi về phía trước, và ở một phút lắng sâu, tạm dừng nào đó, người ta chợt “ngộ ra” trong lòng mình vẫn còn thương thầm, nhớ trộm “buổi ngày xưa”, chợt nuối tiếc, xót xa cho “cái tuổi trăng tròn chợt khuyết theo thời gian”, và cố níu kéo “cái thuở xuân xanh khuất bóng sau luỹ tre làng”.
2. Văn chương và con người vùng Quan họ có tính chất như vậy, “dùng dằng” khi phải lòng “một người tình không quen biết” (Tản Đà) trong đám hội làng, “dùng dằng” trong giấc ngủ và hoài niệm đau đáu với “Cái thở ban đầu lưu luyến ấy/ Ngàn năm chưa dễ đã ai quên” (Thế Lữ). Thơ Hoàng Cầm cũng nằm trong nguồn mạch văn hóa đó, và góp phần cấu kiện lên một phong cách thơ có nhiều sự “dùng dằng”.
2.1. Trước hết, sự “dùng dằng” được minh chứng bằng một tình yêu quê hương da diết, cháy bỏng mà Hoàng Cầm đã nhờ nỗi nhớ bắc hộ cho mình cây cầu hoài niệm qua dòng sông Đuống, để gửi niềm thương về “Quê hương ta ngụt lửa hoang tàn”. Ông nhớ cái hương vị ngày mùa của “lúa nếp thơm nồng” ở bên kia sông - “bên bão tố” phảng phất ùa về “bên bình yên” làm cho không gian tưởng tượng ở một miền ký ức trong trẻo được kéo về gần. Bên kia sông Đuống là bài thơ có nhiều cung bậc “dùng dằng”. Đó là vào một đêm cuối năm 1948, vào cái rét Nàng Bân, tâm trạng Hoàng Cầm “như một bãi cỏ rối lút người” khi nghe tin quê hương rơi vào tay giặc, và trong xa xăm, có một giọng nữ nào đó khẽ khàng đọc hộ nhà thơ một kiệt tác với rất nhiều hoài niệm dư ba. Dĩ nhiên, Hoàng Cầm phải thật sự gắn bó với miền đất Kinh Bắc như chính máu thịt thì mới có đủ sức để gọi dậy những điệu hồn ông cha, “hồn xưa đất nước”, hồn vía làng mạc cùng đồng hiện trong tâm thức văn hóa. Chẳng hạn, hình tượng một dòng sông “nghiêng nghiêng” đôi bờ cát trắng có từ thời tiền sử, đồng thời cũng là hình ảnh trường tồn của một nền văn hóa trồng lúa nước bốn nghìn năm. Nơi ấy đã cho ta những hạt nếp cái hoa vàng gói lá sen xanh với bao dư vị ngọt ngào, cùng tấm lòng thơm thảo, thành kính mà ông cha đã gói cả hương vị đất trời, dâng lên người xưa vào ngày giỗ Tổ. Đặc biệt, là sự tiếc thương, “dùng dằng” với các di sản văn hoá vật thể như : gánh trầu cau, giấy dó, phẩm hồng mà người mẹ Kinh Bắc đáng thương “bước cao thấp” trên con đường trơn lạnh ngắt, và xót xa hơn khi những báu vật gia truyền ấy bị dẫm nát. Tuy nhiên, sự “dùng dằng” lưu luyến, đáng lưu tâm nhất lại ở những giá trị văn hóa phi vật thể của dòng hội họa làng Hồ như : Đám cưới chuột, Mẹ con đàn lợn âm dương. Cũng vậy, sự tiếc nhớ đượm buồn còn hằn in trong nỗi cô đơn, sự vắng bóng những nụ cười dìu dịu của “cô hàng xén răng đen” như một nỗ lực nhằm níu giữ nét duyên quan họ còn hằn sâu bên trong tục ăn trầu người Việt. Rõ ràng “Vượt lên trên tất cả là cái ân, cái nghĩa. Lòng thủy chung đã trở thành một chuẩn mực đạo đức khiến mọi người khát khao vươn tới, một nguyên tắc tối cao trong quá trình xây dựng mối quan hệ lành mạnh giữa bầu bạn” [4, 120].Vì vậy, ở cuối bài thơ Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm đã đưa ra một lời hẹn ước vào ngày “trẩy hội non sông”, ở đó, ông có thể say sưa chiêm nghiệm, ngưỡng phục một thế giới trang phục sang trọng chùng chình của liền chị Kinh Bắc như : dải yếm thắm, thắt lưng lụa hồng, và tắm gội thỏa thích trên tinh thần cộng hưởng hợp sinh hài hòa giữa hai giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, đồng thời lấy vẻ đẹp của nụ cười mê say đầy ánh sáng làm trung tâm.
2.2. Hơn nữa, Hoàng Cầm là một nhà thơ được sinh ra và lớn lên ở vùng “phên dậu kinh thành”, một vùng “quê thiêng Kinh Bắc”. Nơi có những làn điệu quan họ mênh mang “Khi mùa Xuân trở về/ Tiếng hát bay theo đầu ngọn gió/ ngập ngừng nơi ruộng lúa, bờ mương” (Khi mùa Xuân trở về). Ở đó, hình dáng yêu kiều của liền chị Kinh Bắc còn đọng lại qua nét đằm thắm duyên quê, được kết tinh trong thơ ca, âm nhạc, hội họa, và như một nguồn cảm hứng vô tận cho người đời sau. Đó là “má đồng tiền tủm tỉm”, những “mắt bồ câu long lanh” như một “vùng núi sự tích” chảy ra “biển trữ tình” và “trầm đầy một nỗi phương Đông...”[2, 81]. Mặt khác, nét duyên quan họ còn phát lộ qua áo tứ thân mớ bảy, mớ ba thấp thoáng bên bờ sông Đuống, sông Cầu. Cũng có khi chỉ là nửa khuôn mặt thanh tú, e lệ nép mình đằng sau “nón quai thao chòng chành”. Thậm chí, nét duyên mặn mòi của người con gái Kinh Bắc còn được tô điểm qua những “yếm thắm”, “lụa hồng”, “yếm đào lụa nõn Bắc Ninh”... Trong bối cảnh mùa xuân mát mắt những gã trai làng, Hoàng Cầm cũng là một trường hợp không nằm ngoài ngoại lệ. Ông như một “kẻ khờ” đang mê mẩn, đắm mình trong hương sắc mùa xuân, đang căng mở mọi giác quan để thỏa sức hít thở thứ hương vị trầu cay còn phả ra trên cặp môi hồng, hay một mùi hương nồng toả ra từ da thịt, vương nơi tóc ấm của người “Chị” lớn tuổi, và còn thơm lâu ngây ngất, ngưng đọng ở trong lòng.
2.3. Một điều thú vị nữa là, Hoàng Cầm đã góp phần làm sống dậy những cái “dùng dằng” của người quan họ trong thơ mình. Ông sáng tạo ra những thi đề, thi tứ độc đáo để ít nhiều mô tả các cung bậc tình cảm quanh co như những khúc quành khó nói. Và có lẽ, ở những bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc, có giá trị nghệ thuật cao, và neo lại trong lòng bạn đọc như : Bên kia sông Đuống, Cây Tam cúc, Quả vườn ổi, Lá Diêu bông, Cỏ Bồng Thi, Mưa Thuận Thành, Giọt mưa phương Nam... đã minh chứng cho điều đó. Các văn bản trên như một cứ liệu giúp chúng tôi lần tìm được một vài đầu mối quan trọng để lý giải về một phong cách thơ độc đáo. Bởi thế, khi đọc bài thơ Lá Diêu Bông, độc giả sẽ ít nhiều suy nghĩ về một mối tình đầu của “Gã trai làng Kinh Bắc”. Đó là một người em đã đến tuổi dậy thì mà con tim thường rất khó bảo. Và do nhân vật trữ tình đã đặt niềm tin tuyệt đối vào một lời bông đùa của người Chị, nên cứ nhủng nhẳng chạy theo để mà yêu, để mê mẩn mà quên cả bản thân mình. Thậm chí, quá say sưa, đắm đuối với mối tình đầu mà chẳng thèm quan tâm để ý về đời Chị đã mấy độ sang trang. Tuy nhiên, trên hành trình đi tìm Chị qua những “Mùa Đông sau em tìm thấy lá”, bóng dáng người em đã khúc xạ thành một hình tượng “dùng dằng”. Lá Diêu bông đã khiến cho độc giả sau khi hoàn tất một quá trình tiếp nhận mà vẫn có nhiều ám ảnh, tiêng tiếc, không sao dứt ra được. Tuy nhiên, để minh định vì sao lại như vậy, thì rất khó. Phải chăng, những mơ ước lãng mạn mà ai đó muốn được quay về cái thời trắng trong, được trở lại với chính mình để đi tiếp trên cánh đồng chiều còn nhiều rơm rạ, được nhảy chân sáo trên con đê về làng, để rồi tiếc nuối với cái thuở “Sao em nỡ vội lấy chồng” (tên bài hát Lời ru buồn, nhạc Trần Tiến, ý thơ Hoàng Cầm). Đó chính là các giá trị văn hoá ngầm chảy bền bỉ bên trong tâm hồn con người, và chỉ chợt chói sáng ở một phút giây thăng hoa, bất chợt nào đó trong trí nhớ của người nghệ sĩ tài hoa đa tình.
Tiếp nữa, ở bài thơ Quả vườn ổi, Hoàng Cầm đã đưa độc giả dạo gót trong một khu vườn “Em mười hai tuổi đi theo Chị/ Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa/ Đi.../ Ngày tháng lụi tìm không thấy/ Giải yếm lòng trai mãi phất cờ”. Người em đi trong vườn ổi có cả “quả chín”, “quả ương”, và dù có cố van xin Chị nhưng tất cả cũng chỉ là một sự đón nhận những “điều không thấy”. Vì thế, người khách bộ hành bỗng trở thành một kẻ đơn độc trong cuộc tình “Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau/ cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng”. Mảnh vườn mà Hoàng Cầm đã tạo dựng, đón mời đôi tình nhân đến dạo chơi, song đó cũng chỉ là những bước chân khập khiễng, mơ ước, và đứa Em ở tuổi mười hai sẽ mãi là người lỡ nhịp muộn mằn. Do vậy, nhân vật Em cứ một đời níu kéo, cứ khao khát được đi qua cầu Bà Sấm, bến Cô Mưa để được lắng nghe dư âm của “tiếng sét ái tình”, suy cho cùng, đây là một sự nỗ lực nhằm khẳng định về vấn đề tồn tại vĩnh viễn của tuổi trẻ và tình yêu. Cho dù có phải đọa đày trong chiều mưa tê tái, nhưng nhân vật Em vẫn quyết tâm nhặt được “dăm quả rụng” dưới gót chân người Chị lớn tuổi.
Để minh định cho phong cách “dùng dằng”, chúng tôi xin dẫn thêm bài thơ Cỏ Bồng Thi làm luận chứng. Điều dễ thấy ở hai nhân vật Chị - Em trong bài thơ ấy là họ cứ xoắn luyến, bện chặt vào nhau trên một con đường “Chị đưa Em đến bến này/ cheo leo mỏm đá”. Nhân vật Chị đã dùng thứ “bùa ngải” tình yêu làm mê mẩn và trói chặt chân đứa Em tội nghiệp bằng “Thòng lọng tơ gì quấn gót” để đưa nhau về chốn rừng xanh có nhiều dự cảm chẳng lành. Dù cho cái số kiếp đa tình nhiều lận đận “Em vọng ai đâu mà hoá đá” cũng tỏ ra mệt mỏi, thấm thía về sự trắc trở ngang trái của tình yêu trong các qui chuẩn đạo đức thời văn minh. Phải chăng, qua vai người Chị, người đọc sẽ soi ngắm rõ hơn về hình tượng người Em, và ngược lại qua vai người Em lại thấy được sự đỏng đảnh đa tình của người Chị như “Lắc đầu hoa tím rụng/ ngó rừng xanh Em hỏi cội nguồn/ Biết rồi/ Thôi/ nghe hoa tím hát”. Câu thơ trên như một chứng tích của mẫu gốc vẫn còn bỏ ngỏ, và cho đến tận ngày nay, người đời vẫn rất cần một sự nỗ lực để bù đắp cho những băn khoăn, thắc mắc, và chưa thể giải quyết cho thật tường tận, thỏa đáng. Tình yêu là vậy, dù Hoàng Cầm có tự vấn về thân phận con người, về sự mỏng manh của một mối tình “trước vực sau khe”, và cũng chính vì đứa Em biết nhận thức, vỡ lẽ về vấn đề trên quá muộn mằn, nên tất cả chỉ là sự “dùng dằng” trong tâm thức. Đây là những hành động tâm lý mà Hoàng Cầm đã cố níu kéo, lưu giữ thành kỷ niệm đẹp, và ở một phút giây loé sáng bất chợt nào đó, những “nỗi niềm tinh vân” (chữ dùng của Huy Cận) ấy sẽ thăng hoa phát khởi thành thơ.
2.4. Phải chăng, “dùng dằng” là một trong những khí chất lưu truyền từ trong “nết đất” của con người vùng quan họ. Dù cho ít người nói ra, nhưng nhiều người đều thấu hiểu. Nó như một thứ luật bất thành văn, một quy luật bên trong của tình cảm mà những liền chị, liền anh Kinh Bắc còn níu kéo nhau qua mấy mùa lễ hội, mấy độ xuân về. Đây là một đặc điểm tâm lý nói chung của những người quan họ có tâm hồn giàu chất đa tình, và Hoàng Cầm là một trong những con số không nhiều đó. Mặt khác, nhân vật Em lại biết yêu, biết say, biết quen hơi những liền chị quá sớm. Tuy nhiên, niềm khát khao của cái tôi trữ tình cũng chỉ được thực thi ở mức độ một đứa em quá ư ngoan ngoãn và thật thà. Và khi biết thấm thía các nguyên do dẫn đến những dang dở, tất yếu vấn đề này sẽ phần nào thức nhận sâu sắc, và nhức nhối bên trong cõi lòng của người thi sĩ đã trót mang kiểu “gene” của dòng giống “nòi tình”. Mâu thẫn ấy vừa tự hòa giải vừa tích tụ, đầy ải con người bằng nhiều biến thái khác nhau của tình cảm, của sự “ham muốn”. Trong sự lỡ nhịp ấy, con người cũng chỉ biết mang theo sự rạo rực trong mình mà lặng lẽ tìm về “bến xưa”, nơi “đò đầy, đò đã sang sông”, “đến duyên em em phải lấy chồng”, là những ẩn ức không thể giải tỏa, hoặc một miền hoài niệm, “dùng dằng” mà Hoàng Cầm đã tạc vào thơ mình. Phải chăng, đây còn là một sự di thực tự nhiên của các giá trị văn hóa dân gian Kinh Bắc vào trong thi ca, và chính Hoàng Cầm là người đã thâu nhận, nuôi trồng được, và làm cho nó tỏa sáng nhờ vẻ đẹp lung linh của ngôn ngữ.
2.5. Về sự vận động của không gian và thời gian, Hoàng Cầm đã ngắm nhìn hai đại lượng này bằng nhãn quan của một chàng trai tinh ý, đa tình “Chiều qua chia nhớ làm hai ngấn/ Một trắng manh mai một chéo hồng” (Chia nhớ). Có lẽ, sức cuốn hút, sự mê hoặc của tình yêu đã làm cho thi nhân đắm đuối. Ông mê mẩn đến nỗi phổ cả vào bức tranh của buổi hoàng hôn ráng đỏ một sắc màu đậm chất nhục cảm. Ông nhìn áng mây ngũ sắc còn ánh lên vài tia nắng bảy sắc cầu vồng xiên xiên rỉa quạt buổi hoàng hôn như một người thiếu nữ đài các cổ cao ba ngấn mà dáng hình của họ vẫn còn in bóng ở tận chân trời. Chúng tôi nghĩ, đây là hai câu thơ hay, xuất thần, bởi nó đã thâu tóm được sự luyến tiếc của một con người đứng trước sự trôi chảy của thời gian. Vẻ đẹp đó dù có rất mong manh, cứ chợt “vụt hiện” (chữ của Hoàng Hưng) rồi chợt ẩn mình trong bóng đêm, nhưng đã để lại sự bất tử trong nghệ thuật.
2.6. Tiếp nữa, dường như cũng vì những cái “dùng dằng”, mà cái Tôi trữ tình đã mấy lần bị “tiếng sét ái tình” suýt “đánh chết”. Cái Tôi ngu ngơ, non nớt ấy vẫn chẳng chừa cái thói “dùng dằng” đã ăn vào máu. Và trải qua những cuộc tình theo gió bay đi, thậm chí xa vời như “nắng vãn bên sông”, tàn tích còn lại, lắng đọng vào trong cõi thơ Hoàng Cầm là cái “bản lai diện mục” (chữ dùng của Phật học) của nhà nghệ sĩ. Phải chăng, đây là sự nhất quán trong các sáng tác của nhà thơ. Những kỷ niệm “dùng dằng” không chịu ngủ yên, nó thường trở đi, trở lại, thao thức thường trực cùng người nghệ sĩ và tạo nên những dòng chảy cảm xúc bền bỉ, vô hình mà ta có thể suy luận, liên tưởng được qua một số sáng tác của ông. Chẳng hạn, qua các bài thơ mà Hoàng Cầm viết về lễ hội Kinh Bắc như Thi sợi bún, Thi ăn mía thổi cơm, Hội Vân Hà, Hội vật, Thi đánh đu, Hội chen Nga Hoàng, Thi dệt vải, Thi thêu gấm, Hội Gióng..., người đọc có thể tri nhận được nhiều hệ giá trị khác nhau. Tuy nhiên, điều mà độc giả có thể cảm nhận được qua những lễ hội đó là những “má xuân hồng”, “cơn sốt bỏng môi hoa”, hay một hình bóng nào đó vẫn còn tìm về trong mộng ở Hội chen nga hoàng một thời trên bộc trong dâu. Đây chính là những trạng thái khiêu khích “dùng dằng” không dứt ra được.
3. Và nếu như trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã đưa những nhận định tinh tế, đồng thời khái quát, thâu tóm được nhiều phong cách thơ mà tên tuổi của họ đã góp phần quan trọng làm nên “Một thời đại trong thi ca” dựa trên tư tưởng thẩm mĩ và nghệ thuật của tác phẩm. Chẳng hạn, Thế Lữ được xem như một người khách bộ hành phiêu lãng, một hồn thơ “rộng mở”. Lưu Trọng Lư như một kẻ chinh phu đang “mơ màng” trước vẻ đẹp của một mùa thu mang hồn xứ sở. Huy Thông với âm vang Tiếng địch sông ô ngân nga những hồi trống giục từ trong chuyện xưa, tích cũ đất Trung Hoa đã đưa ông trở thành một phong cách thơ “hùng tráng” một thời. Nguyễn Nhược Pháp lại như một “ông già” tỉnh táo mơ làm ông Nghè, ông Thám võng anh đi trước, võng nàng theo sau. Dù cho giấc mơ ấy có rất mực ngộ nghĩnh, mang vài nét hồn nhiên và đáng yêu như những huyền thoại trong mắt trẻ con. Bởi vậy, chúng ta có thể nói ví von rằng, Nguyễn Nhược Pháp đã xây cất lên một “lâu đài cổ tích” bằng những tưởng tượng của một hồn thơ “trong sáng” đến tuyệt vời.
Nhưng nếu chỉ so sánh phong cách thơ Hoàng Cầm với một số phong cách thơ trên, có lẽ, chúng ta cũng chưa có đủ cơ sở để khẳng định về sự độc đáo, sự thống nhất trong đa dạng của phong cách thơ Hoàng Cầm trong dòng chảy thơ Việt Nam thế kỷ XX. Chúng tôi xin dẫn thêm một số kết quả nghiên cứu của Hoài Thanh để tiếp tục công việc định danh này. Trong làng Thơ mới, Huy Cận được gọi là “Một cái linh hồn nhỏ/ Mang mang thiên cổ sầu”, thơ ông đâu chỉ có áo trắng buổi tan trường mà còn có cái buồn thương “ảo não” trước những đêm mưa, những cảnh đời chia lìa đôi ngả, những tâm sự “mòn xói tâm can”. Chế Lan Viên - một nhà thơ “kinh dị” lại có một chốn nương thân thoắt ẩn, thoắt hiện trong những Tháp Chàm. Đọc thơ ông, ta thấy ám ảnh, rờn rợn bởi những đống xương tàn, những kiếp “ma hời sờ soạng đêm thâu”, và cả một nền văn hóa Chàm chỉ còn vang bóng. Đến với Hàn Mặc Tử, chúng ta bắt gặp một con người cô độc đến muôn kiếp, có lúc dở khóc, dở cười, và dám làm nhà thơ “điên cuồng”, “ngộ dại” bằng cái phần tinh hoa sâu lắng nhất trong tâm hồn mình, đồng thời bay vút lên bằng đôi cánh của ước mơ. Ông như một “nhà chân thi sĩ” đang gồng mình vượt thoát trên những giới hạn chật hẹp của cuộc sống tầm thường. Ta có cảm tưởng rằng, tập thơ Xuân như ý đã nói được rất nhiều điều về con người, mảnh đất vùng Nam Trung Bộ. Trong tập thơ trên, chúng tôi thấy Hàn Mặc Tử giống như một vị sứ giả của Thượng đế đến cư ngụ chốn trần gian để “ban ơn phước lành cho cả thiên hạ” bằng những câu thơ đẹp đẽ, sáng láng, thơm tho như dâng mật ngọt cho đời. Trở về với vùng đất Sơn Nam chiêm khê mùa thối, cùng những hội chèo làng Đặng, thôn Đoài, thôn Đông, hàng cau, giàn trầu, ao bèo, giếng thơi, giậu mồng tơi... Chúng ta bắt gặp được nhiều bài thơ mà đọc lên cứ thấy nhẹ nhàng, mộc mạc, quê kiểng như những điệu ca dao, hay những câu Kiều du dương từ mấy trăm năm trước. Có lẽ, chỉ đến với Nguyễn Bính, đề tài đồng quê xứ Bắc, cách yêu đương, tỏ tình, tương tư kiểu “nhà quê” mới thật sự phát lộ qua các cung đường trở về với “Chân quê”. Và chừng nào làng Việt cổ truyền còn là một đề tài thú vị của văn hoá và thi ca, chừng nào còn có hình bóng của những anh trai làng mơ làm Quan trạng, thì chừng ấy “hương đồng”, “gió nội” vẫn còn vấn vương trong thơ Nguyễn Bính. Thiết nghĩ, đây là một đề tài rất hay, chúng tôi hy vọng sẽ có dịp trở lại trong một bài viết khác. Cùng dòng chảy Thơ mới, chúng tôi muốn dẫn thêm một nhà thơ “mới nhất” mà tác phẩm của ông còn rất thân thiết với tuổi trẻ. Xuân Diệu là thế, ở ông, ta bắt gặp một cái tôi “thiết tha, rạo rực và băn khoăn”. Và chỉ đến nhà thơ này, thời đại của chữ Tôi mới có một bức tranh hoàn hảo sắc màu. Đây không phải là “màu đỏ choét” mà các cụ ta ưa thích, quen thân, màu đại diện cho “Thơ cũ”. Mà là “màu xanh nhạt” hay một cách gọi tên tương đối khác, đó chính là “Thời đại màu xanh” (chúng tôi nhấn mạnh). Nếu không có công đầu của Xuân Diệu ở những câu thơ “rất Tây” không có chỗ trú ngụ cho hình bóng người già, thì sẽ rất khó có một kiểu tư duy thơ hiện đại vươn ngang tầm nhân loại. Vậy đâu là sự khác biệt giữa Hoàng Cầm và các phong cách thơ trên? Theo quan điểm của L.X. Vưgôtxky trong công trình Tâm lý học nghệ thuật nổi tiếng “Không có một sự nghiên cứu chuyên môn về tâm lý thì chúng ta chẳng bao giờ hiểu nổi những quy luật nào đang điều khiển cảm xúc trong tác phẩm nghệ thuật, và chúng ta có thể, bất cứ lúc nào, sa vào những sai lầm thô bạo nhất”[6, 47]. Từ những điều mà chúng tôi đã chứng minh qua một số sáng tác của ông, có thể nói, “dùng dằng” là cách gọi tên ước lệ dành riêng cho Hoàng Cầm. Chúng tôi nói như vậy vì có những cơ sở như sau :
Thứ nhất, “dùng dằng” là một từ thuần khiết của người Việt, một phạm trù giá trị cấu thành đặc điểm “thị tài đa tình” trong mẫu người nhà Nho tài tử. Vấn đề này đã được Nguyễn Du lựa chọn để mô tả về những cuộc gặp gỡ của các bậc tài tử - giai nhân trong Truyện Kiều. Rõ ràng, chứng tích của các khúc thức “dùng dằng” còn bàng bạc trong sinh hoạt văn hóa Quan họ, phổ biến trong truyện Nôm, đồng thời tích hợp mạnh mẽ trong cảm quan thẩm mĩ Hoàng Cầm. Thứ hai, có thể nói ước lệ rằng “dùng dằng” như một sự khúc xạ từ hình ảnh các dòng sông, bãi bờ làng quê trù mật, nên thơ của người Việt tụ cư lâu đời trên lưu vực vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, hoặc một sự níu kéo dằng dai bên trong hội hát đối đáp của những liền anh, liền chị quan họ thôn quê. Đây là một đặc điểm tâm lý của con người làng xã với những suy nghĩ quanh quẩn trên một vùng liên tưởng thẩm mĩ hạn hẹp trong nhà ngoài ngõ, hoặc những khuôn mặt thân quen trong làng trong nước, trong canh hát quan họ, hoặc một số nét văn hóa giao tiếp ứng xử hào hoa, thanh lịch, nền nã, hữu tình góp phần kích hoạt lên trong tư duy hướng nội của Hoàng Cầm một nhu cầu hồi qui vĩnh cửu. Nói cách khác, đó là nét duyên dáng, mặn mà quyến rũ của một thế giới người xưa - người đẹp còn hằn in trong sự trải nghiệm cá nhân, đồng thời vượt qua ngưỡng cửa thời gian, tồn tại trong cái nhìn ẩn ức, trong bản chất, cá tính sáng tạo của tác giả để bất tử đến muôn đời. Thứ ba, nếu theo mô hình tâm lý học nhân cách, thì “dùng dằng” còn có thể được xem như một nét tâm lý - văn hóa ứng xử, một đặc điểm đáng yêu về tình sâu, nghĩa nặng giữa người với người trong làng, trong nước, là những tình cảm phổ quát, tiềm ẩn bên trong bề sâu tâm hồn người Việt “Bất chấp tất cả những đổi thay của lịch sử, sẽ không có gì làm thay đổi tâm hồn ấy được. Đó là chất quê hương xứ sở”[5]. Hơn nữa, để chạm đến các giá trị Chân - Thiện - Mĩ, chắc chắn những con người làng xã phải luôn phấn đấu hoàn thiện nhân cách, giữ gìn phẩm chất góp phần tô điểm thêm cho khuôn mặt của gia đình -làng - họ, và dĩ nhiên người ta cũng phải tự xác định được đâu là các giới hạn, quy ước, tôn chỉ của “lệ làng” đã được cả cộng đồng chấp nhận như một thứ luật bất thành văn. Nó luôn nhắc nhở người Quan họ phải biết định vị được điểm dừng trước bến bờ của cái đẹp, cái cao cả để trân trọng, nâng niu. Phải chăng, đó là nét ứng xử chừng mực của con người một vùng đất học, một miền quê có bề dày truyền thống văn hóa. Bởi vì, sinh hoạt văn nghệ quan họ thường đi liền với tục kết bạn giữa các làng quan họ liên tục qua nhiều đời, kèm theo qui ước không được lấy nhau. Quan niệm này tạo ra một nét văn hóa ứng xử chan chứa tình nghĩa, thân thiết trong tình cảm bạn bè, và sự gắn bó keo sơn bền chặt, đi lại thăm hỏi nhau đến trọn đời. Tuy nhiên, xu hướng của nghệ thuật không chỉ phản ánh những vẻ đẹp của ánh mắt, bờ môi, nụ cười duyên dáng, mà còn cảm mến trước những cung bậc bổng trầm của câu hát giao duyên, những biến thái rung động bên trong của cõi lòng, hoặc những khoảnh khắc “phải lòng” không cưỡng lại được. Cho nên, một mặt người Quan họ vừa e sợ trước sức ép tỏ chiết của tinh thần quân chủ làng mạc, mặt khác lại vừa thích thú mê say với cái đẹp lúng liếng đa tình, “dùng dằng” trong tâm thức kiểu “hội đã tan rồi không buông vạt áo”, hoặc luyến tiếc với “người ở đừng về” như một nhu cầu nhân bản. Phải chăng, do những ranh giới, ức chế không thể đạt tới trong tình yêu mà đỉnh điểm của nó là hôn nhân, không có sự hòa hợp giữa tâm hồn và thể xác nên người Quan họ đã sáng tác ra nhiều làn điệu rất hay, dìu dặt, phổ vào lớp ca từ nhiều cung bậc của tình cảm lứa đôi như một cách giải tỏa những ẩn ức của riêng mình. Có lẽ, sống trong không khí hội hát đối đáp giao duyên, Hoàng Cầm đã phần nào thâu nhận được những nét văn hóa ứng xử của người Quan họ, tích hợp vào trong thơ trữ tình như một sự di truyền những đặc điểm tâm lý tộc người. Cuối cùng, nếu cơ chế của khoa học là thích đi trên con đường thẳng băng, ưa sự tường minh, khúc chiết, rạch ròi thì nghệ thuật lại quan tâm đến những giây phút trì hoãn, quanh co ngập ngừng, thích đi trên một con đường vòng vèo ngoắt nghéo không mấy thuận chiều, đồng thời tự tiết chế, kìm nén để thăng hoa và thỏa mãn trong niềm vui, sự khoái cảm thẩm mĩ.
Tóm lại, Hoàng Cầm đã sáng tạo ra một di sản tinh thần trên cơ sở tích hợp nhiều giá trị văn hóa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Ông đã đưa được những cung bậc tình cảm, những nét văn hóa ứng xử của người Việt vào trong thơ mình. Do vậy, nó vẫn có sức sống bền bỉ. Và chính mối liên hệ qua lại giữa văn học và văn hoá đã giúp chúng tôi nhận diện các giá trị tư tưởng thẩm mĩ, nghệ thuật của người nghệ sĩ thêm sáng rõ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn Quốc gia - Viện Đông Nam Á (1996) Cao Huy Đỉnh, Bộ ba tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
2. Nguyễn Thụy Kha (1999), Nguồn cảm hứng sáng tạo Văn học Nghệ thuật của người nghệ sĩ (viết về đời nghệ sĩ, tình nghệ sĩ), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
3. Phan Ngọc (2007), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
4. Nhiều tác giả (2009), Tìm về cội nguồn Quan họ, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy Văn hóa dân tộc - Nxb Sân Khấu, Hà Nội.
6. L.X. Vưgôtxky (1995), Tâm lý học nghệ thuật, Hoài Lam - Kiên Giang dịch, Phạm Vĩnh Cư - Hoàng Ngọc Hiến hiệu đính, Nxb Khoa học Xã hội -Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.