1. Trong nghệ thuật kể chuyện, giọng điệu (voice) cũng là một yếu tố cơ bản. Phản ánh quan điểm, thị hiếu thẩm mĩ của người sáng tạo, giọng điệu có vai trò quan trọng trong việc thể hiện cá tính sáng tạo của tác giả (gián tiếp qua hình tượng người kể chuyện). Giọng điệu được thiết lập từ mối quan hệ giữa người kể với người nghe từ thế giới sự kiện được miêu tả và tạo thành giọng điệu trần thuật.
Sau 1986, trong sự chuyển đổi của xã hội, trong cuộc sống “hậu hiện đại” ngổn ngang, chồng chất nhiều mặt đối lập, bản hợp âm pha tạp của đời sống đã xâm nhập vào tiểu thuyết, quyết định một giọng riêng của thời đại. Mỗi nhà văn trong sự đổi mới thể loại cũng làm mới giọng điệu, góp phần cách tân nghệ thuật tổ chức truyện kể. Nhiều tác giả đã khẳng định mình qua giọng điệu trần thuật như Nguyễn Khải, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Vũ Bão… Khảo sát giọng điệu trần thuật chính là cách để xác định khuôn mặt nhà văn. Bởi giọng điệu là một trong những yếu tố quan trọng để khu biệt phong cách tác giả, là “một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm” [7, 142].
2. Giọng điệu tiểu thuyết Việt Nam đương đại rất đa dạng. Tuy vậy, ở bài viết này, chúng tôi chỉ đi sâu vào những giọng chủ của tiểu thuyết đương đại, qua đó nhằm khẳng định sự phát triển của tiểu thuyết trên bình diện giọng điệu trần thuật.
2.1. Giọng điệu triết lí:
Xét từ cấp độ cấu trúc câu, kiểu giọng điệu triết lí thường được thể hiện qua tính chất khẳng định (phủ định) để nhấn mạnh những vấn đề mà nhà văn cần thông điệp, triết luận với người đọc. Ý kiến được đưa ra trở thành chân lí. Triết lí về cái chết: “Cái chết là một dấu chấm hết. Dấu chấm hết nào cũng muốn mang ý nghĩa của cái câu đi trước nó” (Và khi tro bụi); Triết lí về danh vị, quan trường: “Cái bệnh thèm làm quan, thèm danh, thích phân chia ngôi thứ ấy là căn bệnh cố hữu của người Nam từ nhiều đời” (Hồ Quý Ly ); Triết lí về tình yêu : “Trong tình yêu, hình như nhớ là quan trọng nhất. Nhớ nhiều nhớ dài là chung thủy. Sâu sắc nhớ là đau khổ. Chỉ khi yêu người ta mới có chung thủy và đau khổ” (Khải huyền muộn); Triết lí về sống nhờ, sống mượn: “Sống thông qua số phận các nhân vật của mình đâu phải là sống (Thượng đế thì cười)… Ở nhiều tác phẩm, giọng triết lí gắn liền với cách cắt nghĩa mới hay cung cấp thêm ý nghĩa cho một khái niệm đã quen thuộc của người kể chuyện: Chiến tranh là cơ hội giết người tốt nhất; Lịch sử thường không bao giờ giống như bản thân lịch sử (Đi tìm nhân vật); Dối trá là dấu hiệu của trưởng thành, và cao hơn thế, biết dối trá người ta mới dám sống (Khải huyền muộn)… Nhiều triết lí bắt nguồn từ những cách nghĩ riêng và có phần phi chính thống. Những lời bàn luận như thế thường khiến “chuyện” trở nên mới mẻ, bất ngờ. Người đọc hoặc gật gù đồng ý hoặc cau mày nghi ngại song đều phải ngẫm nghĩ. Tính “vấn đề” của tác phẩm, chiều sâu của “chuyện” được nâng cao.
Sau 1986, ngày càng xuất hiện nhiều cuốn tiểu thuyết đề cập sâu sắc những vấn đề triết lí nhân sinh, về thân phận con người. Số phận cá nhân, bi kịch cá thể trở thành vấn đề nổi bật trong nhiều tác phẩm. Con người ngày càng cảm nhận sâu sắc chính mình. Quan tâm đến đời tư, nhiều cuốn tiểu thuyết chạm tới những vấn đề sống chết của con người. Nói như Freud: Sống tức là tự khấu trừ đi sự sống, tiến gần hơn đến cái chết. Nhiều tác phẩm trở thành những triết luận của nhà văn về sự sống, cái chết, ở đó giọng chủ là giọng triết lí. Giọng triết lí về cái chết: “Con người không làm gì được hơn ngoài sự chuẩn bị cho cái chết của chính mình. Vì thế, họ phải chuẩn bị đến nơi đến chốn” (Thiên thần sám hối); “Cái chết bao giờ cũng là điều vĩ đại cuối cùng mà con người đạt đến” (Những đứa trẻ chết già). Giọng triết lí về cuộc đời: “Cuộc sống có vẻ cồng kềnh lằng nhằng, nếu có thể sẽ cắt bỏ bớt đi cho nhẹ để tiến lên nhanh hơn, thoải mái hơn. Chẳng biết nên cắt bỏ cái gì?” (Trí nhớ suy tàn), “Dường như mỗi số phận giống như một con rối nối một sợi dây được điều khiển bởi những cỗ máy giấu trong bóng tối (Đi tìm nhân vật)…
Xã hội Việt Nam sau chiến tranh hiện ra với tất cả những mặt phức tạp của nó. Con người cá thể trở thành quan niệm chung của văn học đương đại. Đặc biệt, cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, con người ngày càng ý thức về bản ngã và càng khao khát tìm kiếm bản ngã. Những tiếng vọng về bản thể âm vang trong văn học đương đại, nhất là tiểu thuyết. “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất luôn biến đổi, do đó, nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản hơn, nhạy bén hơn sự biến chuyển của bản thân hiện thực”; “Tiểu thuyết luôn nhận thức lại, đánh giá lại mọi thứ” (Bakhtin). Theo M. Kundera: “Tất cả mọi tiểu thuyết của thời đại đều chăm chú vào bí ẩn của cái tôi. Từ lúc anh bắt đầu sáng tạo một con người tưởng tượng, một nhân vật, tức thì anh đối mặt với câu hỏi: Cái tôi là gì? Bằng cách nào nắm bắt được cái tôi? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản, trên đó tiểu thuyết được hình thành với tư cách là tiểu thuyết” [6, 27].
Với tinh thần “nhận thức lại”, các nhà viết tiểu thuyết quan tâm đến những vấn đề bản thể. Với nhiều nhà văn, viết tác phẩm trở thành một hành trình tìm kiếm chính mình, chăm chú vào bí ẩn của cái tôi, lật xới vấn đề muôn thuở cái tôi là gì? Bằng cách nào nắm bắt được cái tôi? Xuất hiện kiểu người kể chuyện tự kể về mình bằng giọng điệu trải nghiệm, với những suy ngẫm triết lí về bản thể. Người kể chuyện xưng tôi trong tác phẩm Và khi tro bụi luôn trăn trở, đau đáu vì những câu hỏi: “Tôi là ai? Tôi đã sống như thế nào? Quá khứ của tôi là gì?”. Ngay cả nhan đề tác phẩm cũng chính là một tín hiệu thẩm mỹ giàu chất triết lí về sống chết, phận người. Triết lí về bản thể cũng lặp đi lặp lại trong tiểu thuyết Vũ Đình Giang, một thế giới vỡ vụn, thế giới của ảo giác, bản năng, vô thức, thế giới của những con người tìm đến khoái lạc về thân xác nhưng ám ảnh, hoảng loạn về tinh thần: “Tôi thuộc về những vùng tăm tối”, “Tôi sở hữu thói cô độc”, “Trong tận cùng bản chất tôi là kẻ vô cảm… (Song song). Và đây là giọng điệu triết lí hoài nghi của nhân vật tôi -người kể chuyện trong Đi tìm nhân vật: “Vậy tôi là ai? Là hắn hay một cái tôi khác?”; “Có thể cái mặt tôi chỉ là cái mặt nạ kia?...”; “Rốt cuộc thì mặt mình là mặt thật hay mặt bịa”; “Cuộc sống nào mới là cuộc sống đích thực? Tôi tồn tại chỉ là bản sao vậy bản gốc của tôi có hình dạng ra sao?”.
Đi tìm bản thể, nhân vật tiểu thuyết đương đại thường rơi vào tâm trạng cô đơn, khủng hoảng. Nhân vật của Thuận sau những giờ phút đối diện với bản thể đã tìm cái chết như một lựa chọn thích hợp (Paris 11 tháng 8). Nhân vật của Đoàn Minh Phượng sau cuộc hành trình đi tìm cái chết –cũng là hành trình tìm kiếm và đối diện với bản thể - đã uống 20 viên thuốc ngủ khi đã ý thức thế nào là sự sống (Và khi tro bụi). Nhân vật của Vũ Đình Giang “kết thúc chuỗi ngày vật lộn với bóng tối. Tôi sẽ chìm dần dưới tầng nước sâu. Vĩnh viễn” (Song song)… Triết lí hiện sinh in đậm dấu ấn trong tiểu thuyết đương đại. Thực tại hiện tồn trở nên vô nghĩa. Mỗi tác phẩm là một cuộc tìm kiếm bản thể đầy giằng xé. Vì vậy, giọng chủ là giọng triết lí tranh biện. Chính giọng điệu này đã mang lại cho tiểu thuyết đương đại một âm sắc mới.
Một trong những nhà tiểu thuyết thể hiện đậm đặc và nhất quán giọng triết lí trong toàn bộ tác phẩm của mình là Nguyễn Khải. Từ những năm 60 của thế kỉ XX, Nguyễn Khải đã định hình một cách viết “hiện thực tỉnh táo”. Mỗi cuốn tiểu thuyết Nguyễn Khải là một cuộc xung đột: xung đột tôn giáo và đội lốt tôn giáo, xung đột trong kiểu tư duy của các thế hệ, xung đột giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, xung đột giữa cá nhân và xã hội. Nội dung đó chi phối giọng điệu trần thuật của tác phẩm. Tác phẩm Nguyễn Khải là sự đan xen nhiều giọng điệu, nhưng yếu tố quyết định giọng riêng của người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Khải là giọng triết lí, tranh biện. Nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Khải là những triết gia với những triết lí chiêm nghiệm về thời thế (Gặp gỡ cuối năm), về tôn giáo (Cha và con và…), về cõi sống cõi chết (Một cõi nhân gian bé tí), về danh vọng, về nghề nghiệp (Thượng đế thì cười). Trong nhiều tác phẩm, ngôn ngữ bình luận, đánh giá xuất hiện đậm đặc. Giọng kể của kiểu người kể chuyện này có khuynh hướng tranh biện (tự tranh biện hoặc tổ chức tranh biện), đúc kết vấn đề theo quan điểm cá nhân. Trong Thượng đế thì cười dẫu chọn cách kể từ ngôi thứ ba, nhưng bằng cách đọc tiểu sử, thông qua những lời đánh giá, triết lí, bình xét của người kể chuyện, chân dung Nguyễn Khải hiện ra sinh động qua một đời văn, một đời người. Cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Khải phải chăng được gợi ý từ câu ngạn ngữ Do Thái nổi tiếng: Con người suy nghĩ, còn Thượng đế thì cười. “Thu vén một đời văn” Nguyễn Khải đã gợi những suy ngẫm về nhiều lẽ đời. Ngẫm, suy, triết lí… chính là một trong những yếu tố đậm nổi của tiểu thuyết đương đại, nó làm thành một giọng chủ đạo trong bản hợp âm nhiều chất giọng.
2.2. Giọng điệu trào phúng, giễu nhại
Kundera quan niệm: “Tiểu thuyết sinh ra không phải từ tinh thần lí thuyết mà từ tinh thần hài hước” [6, 127]. Một trong những nhà lí luận sớm quan tâm đến tiếng cười trong tiểu thuyết là Bakhtin. So sánh tiểu thuyết với sử thi, Bakhtin nhấn mạnh tinh thần của tiểu thuyết là yếu tố trào tiếu: “ Chính tiếng cười đã xóa bỏ khoảng cách sử thi và nói chung mọi khoảng cách ngôi thứ- giá trị- ngăn chia”. Khảo sát Tiểu thuyết như một thể loại văn học, Bakhtin đã nêu lên mối quan hệ giữa tiếng cười và tiểu thuyết, mà theo cách nói của dịch giả Phạm Vĩnh Cư: “Tiếng cười đúng là môi sinh của tiểu thuyết: ở nền văn học nào vắng tiếng cười thì ở đó tiểu thuyết hoặc không thể trưởng thành, hoặc thui chột” [2, 17].
Sau 1986, tiểu thuyết Việt Nam ngày càng nhạt dần chất sử thi, tiểu thuyết áp sát vào đời sống, tiếp xúc suồng sã đến thô bạo hiện thực. Sự mở rộng các phạm trù thẩm mĩ khiến tiểu thuyết gần với đời thường hơn. Cái bi không còn phải dè dặt né tránh; tinh thần hài hước gia tăng. Cái nhìn ở thì hiện tại không hoàn kết, con-mắt-tiểu-thuyết đã nhìn trực diện hiện thực cuộc sống đương đại. Khi những chuẩn mực bị lệch pha, cái hài xuất hiện. Cái nhìn phi thành kính, suồng sã, giễu nhại của chất tiểu thuyết đã quy định một giọng điệu riêng của tiểu thuyết đương đại.
Giọng điệu hài hước trong tiểu thuyết đương đại có nhiều cấp độ. Có giọng châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu cay (tiểu thuyết Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng), có giọng trào lộng, châm chích (tiểu thuyết Tạ Duy Anh), có giọng tự trào (tiểu thuyết Chu Lai, Lê Lựu), có giọng giễu nhại (tiểu thuyết Hồ Anh Thái, Thuận). Nhiều tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc nhờ người kể chuyện “biết đùa”. Giọng điệu trào phúng, hài hước trở thành một giọng chủ, đem lại sắc thái mới mẻ cho văn học nói chung và tiểu thuyết đương đại nói riêng.
Một trong những yếu tố làm nên sự đổi mới giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết đương đại là giọng giễu nhại. Giễu nhại là bắt chước để cười. Xét từ phương diện cấu trúc câu, giọng điệu giễu nhại thường xuất hiện ở kiểu câu có thành phần giải ngữ. Theo Từ điển Tu từ - Phong cách – Thi pháp học: “Giải ngữ là biện pháp tu từ dùng một từ, một cụm từ hay một câu, một chuỗi câu xen vào câu chính để lí giải, nhấn mạnh hoặc bổ sung một giọng điệu khác với giọng điệu kể hay giọng trình bày các lập luận” [5, 84]. Trong tiểu thuyết Utopi – một miếng để đời (Vũ Bão), khi kể về sự kiện Quốc vương và thủ tướng Baloditxtan khao dân và tổ chức cho cả nước ăn mừng nhân sự kiện chuyến tàu đầu tiên của đất nước xuất biên, người kể chuyện đã sử dụng một cách hiệu quả hình thức giải ngữ:
“…Quốc vương Sangxông Đamua và Thủ tướng Iécctơđê Oanxơmo vay tiền ngân hàng quốc tế khao dân, không làm lễ hội đóng khố, đội mũ lông chim hay mặc áo giáp, đội mũ trụ, tay cầm chùy đi hò hét như hóa dại chỉ tổ cho mấy tay gọi là cai thầu lễ hội thăn đầu, thăn đuôi còn dân thì cứ mốc mép chen chúc nhau đi coi cái trò diễn đi diễn lại trong bao nhiêu lần kỉ niệm Quốc khánh… Nhà nào nhà nấy tổ chức lấy bữa liên hoan Có dầu thì sẽ giầu. Nhân dân được một ngày vui chứ không phải ngồi xếp chân vòng tròn nghe diễn văn phát dài dòng trên máy thu hình… Quốc vương và Thủ tướng chỉ xuất hiện độ một phút trên màn hình và mỗi Ngài chỉ nói đúng một câu ngắn gọn: Có dầu thì sẽ giầu. Mọi người đều vui vẻ và không ai làm khổ lỗ nhĩ và đôi mắt của nhau”.
Nếu lược hết những chỗ in nghiêng, đoạn văn trên chỉ còn là một lời tường thuật khách quan với thái độ của người kể chuyện bị mờ hóa. Giọng điệu người kể chỉ lộ ra trong những đoạn bình luận, chú giải thêm. Nói rõ những việc mang tính hình thức, tưởng là tôn vinh văn hóa nhưng thực ra lại phản văn hóa mà quốc vương và thủ tướng đã không làm (lễ hội đóng khố, đội mũ lông chim hay mặc áo giáp, đội mũ trụ, tay cầm chùy đi hò hét như hóa dại), là cách người kể chuyện giễu nhại những trò diễn đi diễn lại trong các hội lễ. Bình luận thêm Nhân dân được một ngày vui chứ không phải ngồi xếp chân vòng tròn nghe diễn văn phát dài dòng trên máy thu hình hay Mọi người đều vui vẻ và không ai làm khổ lỗ nhĩ và đôi mắt của nhau cũng là giễu nhại hình thức đọc diễn văn dài dòng vẫn thường gặp trong các buổi mitting. Thấp thoáng sau thành phần giải ngữ là sự hóm hỉnh, là cái cười nhẹ nhàng phê phán của người kể chuyện.
Giọng điệu giễu nhại thường xuất hiện ở câu có nhiều từ “hình tượng”, từ mang sắc thái biểu cảm. Giễu nhại thơ của người đang yêu: Những bài thơ rất nhiều anh nhiều em nhiều yêu trong veo không có ẩn ức tính dục (Khải huyền muộn); giễu nhại “sự ăn” của bậc đại trí thức: Nhà văn hóa lớn đang vục đầu vào ăn. Nhai chòm chọp chèm chẹp. Những cái đĩa lớn đựng thức ăn chung cho bao nhiêu người giờ đây chỉ có một mình ông vung vẩy công phá (Mười lẻ một đêm). Tuy nhiên, khác với giọng trữ tình thương cảm cũng đầy sắc thái biểu cảm, ngữ cảnh xuất hiện giọng giễu nhại thường “có vấn đề”. Công thức chung của kiểu giọng điệu này là sự đối nghịch giữa hai vế câu, hai mệnh đề hoặc hai câu, hai ý: một – trang trọng, nghiêm túc; và hai – bỡn cợt, châm chích; một – kể, đánh giá khách quan và hai – giải thích thêm theo cái nhìn chủ quan của người kể: “Để khẳng định một cái gì đó, người Anh bảo có, người Đức bảo chắc chắn, người Mĩ bảo đồng ý… người Việt Nam bảo để còn xem đã…(Đi tìm nhân vật); “Đường công danh của chị trở thành đường cao tốc. Loại đường vận tốc tự do, không có cảnh sát đứng bên đường bắn tốc độ (Mười lẻ một đêm); hay “Cạc vi dít của thầy, mục chức danh có nhiều nhà. Nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà nghệ thuật học. Nhiều nhà như thế đáng nhẽ phải gọi là phố” (Khải huyền muộn).
Một trong những hiệu quả thẩm mỹ của giọng điệu giễu nhại là khả năng đem đến tính bất ngờ. Ở những trường hợp này, người kể chuyện thường giả vờ nghiêm trang thuật lại mọi chuyện để rồi “lỡm” độc giả bằng những bình luận sắc sảo, chua cay. Độc giả, nhiều khi đến cuối câu chuyện mới bật ngửa ra trước cái hài hước mà người kể chuyện đã đem đến. Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà thường giễu nhại bằng liên tiếp những bất ngờ. Đoạn văn sau là một ví dụ tiêu biểu: “Truyền thống văn hóa Việt Nam thường trọng người già, những bộ trưởng chưa tới năm mươi đều được coi là những chính khách trẻ. Nhà văn trẻ thì được sân siu một ít, lưng lửng cộng trừ bốn mươi. Tôi xem qua ti vi hội nghị những cây bút trẻ, ca mê ra quay nhanh. Loang loáng những cái đầu và trên màn hình chỉ hiện lên một màu muối tiêu” (Khải huyền muộn). Yếu tố hài hước từ sự đối lập giữa nhà văn trẻ với tóc muối tiêu đến cuối đoạn mới được bật ra. Sự giễu nhại của người kể chuyện đối với truyền thống trọng người già (dẫu là đúng) đến mức hiếm hoi lắm mới có người trẻ được trọng dụng (mà trẻ theo quan niệm này cũng chẳng còn đầu xanh, cũng ít nhất là tứ thập hay ngũ thập – cái tuổi đã “tri thiên mệnh”) hoàn toàn lộ rõ.
Giọng điệu là một hiện tượng nghệ thuật mang tính cá nhân cao độ. Nguyễn Đăng Điệp phân chia giọng điệu thành hai dạng: giọng điệu cá nhân và giọng điệu thời đại. Theo tác giả: “Ở đây, diễn ra sự tương tác hai chiều: một mặt, giọng điệu cá nhân chịu sự quy định/ ảnh hưởng của giọng điệu thời đại, mặt khác, giọng điệu cá nhân, nhất là những cá nhân tài năng, góp phần làm phong phú, thậm chí thay đổi cấu trúc giọng điệu thời đại” [3, 14]. Có thể xem Hồ Anh Thái là hiện tượng tương tác hai chiều như vậy. Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn có phong cách riêng. Nếu xem giọng điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ thuật (M.B. Khravchenko), là một trong những tiêu chí xác định phong cách tác giả thì Hồ Anh Thái là nhà văn có giọng. Tiểu thuyết (kể cả truyện ngắn) Hồ Anh Thái đa giọng điệu. Giọng xót xa, thương cảm trong Người và xe chạy dưới ánh trăng; giọng thân mật suồng sã trong Trong sương hồng hiện ra; giọng triết lý trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi… Tuy vậy, một trong những giọng chủ của tiểu thuyết Hồ Anh Thái là giọng hài hước- giễu nhại.
Mười lẻ một đêm là cuốn tiểu thuyết thành công của Hồ Anh Thái, ở đó chủ âm là giọng giễu nhại, hài hước. Được kể chủ yếu theo kiểu hoạt cảnh nhờ việc tạo dựng ra những màn kịch nhỏ trong một màn kịch lớn, vở hài kịch về chuyện hẹn hò thời hiện đại được Hồ Anh Thái “cường điệu” một cách hợp lí. Lồng vào câu chuyện hẹn hò của hai nhân vật chính này là biết bao con người, biết bao mảnh đời khiến độc giả cười ngả nghiêng mà chua xót. Hồ Anh Thái đã sử dụng grotesque với chất giọng giễu nhại để “lật tẩy”. Giễu nhại văn hóa thi hoa hậu: “Bạn sẽ làm gì ngay sau khi đăng quang hoa hậu? Em kính thưa ban giám khảo, nếu em đăng quang hoa hậu, việc đầu tiên em sẽ hiến thân cho người nghèo trong xã hội” (Mười lẻ một đêm); Giễu nhại hội Lim: “…Bờ ao kè xi măng. Không còn bờ cỏ tự nhiên. Mấy con thuyền bằng sắt tây chen nhau đi vòng quanh bờ ao. Anh hai đi giày Tây, chị hai đi giày khủng bố. Anh hai khăn đóng áo dài, chị hai tứ thân mớ ba mớ bảy. Mỗi người cầm một cái micơzô. Còn duyên ngồi gốc cây thông, Hết duyên ngồi gốc cây hồng hái hoa” (Mười lẻ một đêm); Giọng điệu giễu nhại không chỉ bộc lộ qua cảm hứng mà thể hiện rõ qua việc cấu tạo ngôn ngữ, cấu trúc câu. Chất giễu nhại kiểu grotesque, chất trào tiếu dân gian làm nổi rõ sự va đập giữa hai mảng sáng tối: một thế giới của văn hóa và một thế giới lộn nhào mọi giá trị, lố bịch và kệch cỡm. Chính sự dung hợp giữa chất trào tiếu dân gian và chất suy tưởng bác học ấy đã khu biệt giọng điệu Hồ Anh Thái trong bản hợp xướng nhiều bè của tiểu thuyết Việt Nam đương đại Việt nam.
2.3. Giọng điệu vô âm sắcGiọng điệu vô âm sắc “chỉ cung cấp sự thật mà không kèm theo giọng điệu, không có ngữ điệu, hoặc mang ngữ điệu ước lệ. Lời văn biên bản, thông báo khô khan dường như là lời vô giọng điệu, là chất liệu sống để tạo thành tiếng nói” [1, 233]. Ở một số tiểu thuyết, giọng điệu vô âm sắc nhằm thể hiện những rạn nứt đáng sợ trong đời sống giao tiếp hiện đại. Con người hiện đại nói với nhau nhưng không hề hiểu nhau (tiểu thuyết Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Thuận…). Trong nhiều trường hợp, ngôn ngữ chỉ là cái vỏ rỗng không, phi giao tiếp.
Giọng điệu vô âm sắc thường gắn liền với kiểu “trần thuật theo con mắt máy ảnh”, là cách trình bày sự kiện từ bên ngoài và mang tính hành vi- phần lớn là trần thuật ngôi thứ ba mang tính chất trung tính, thiếu vắng điểm nhìn bên trong và có cái nhìn tĩnh tại của máy quay phim [4, 50]. Trong Song song, kể về cuộc sống, thế giới tâm hồn của những người đồng tính, Vũ Đình Giang đã chọn cách kể quay phim này. Người kể chuyện với thái độ lãnh đạm, dửng dưng khi chỉ tái hiện sự việc hay những hành động bên ngoài. Nhân vật của Nguyễn Đình Giang là những con người dị biệt trong một thế giới dị biệt, Liên tục chuyển điểm nhìn, nhân vật của Vũ Định Giang thay nhau kể, tự bạch, hổi ức tuổi thơ. Có lúc người kể chuyện ngôi ba đứng ngoài, quay Camera, những đoạn Camera là những đoạn mang giọng điệu vô âm sắc. Tất cả nhằm tô đậm thế giới khép kín, một thế giới khủng hoảng về tâm trạng.
Trong một số cuốn tiểu thuyết, giọng vô âm sắc là do người kể chuyện cố ý bẻ vụn câu văn và kìm nén âm giọng. Các câu văn “vô âm sắc” thường ngắn gọn, những từ ngữ mang sắc thái biểu cảm bị triệt tiêu, giọng điệu bị “tẩy trắng”. Câu văn mang tính chất thông báo đơn thuần: Paris 11 tháng 8 năm 2003, 39 độ trong bóng râm, 42 độ tầng áp mái. 39 độ làm hai nghìn chín trăm cụ già đột tử. 42 độ khiến Liên có thêm sáu cái mụn, bốn cái đối xứng trên cằm, hai cái hai cánh mũi (Paris 11 tháng 8 – Thuận). Phổ biến dạng câu có cấu trúc: S (Chủ ngữ) + V (động từ). Bổ ngữ (Object) bị lược bỏ. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, chủ ngữ, chủ thể của hành động cũng bị bỏ qua trong câu kể của người kể chuyện. Lúc này, người đọc chỉ được cung cấp những thông tin thật cần thiết. Người kể chuyện cố tình giữ thái độ “miễn bình luận” đối với tất cả mọi chuyện và để cho độc giả tự phán xét. Mức độ khách quan, trung tính của truyện kể (là chuyện đã được hư cấu) được đẩy lên mức tối đa. Trong Thoạt kì thủy, giọng kể đều đều, như một “giọng văn trắng”; các câu văn được đặt cạnh nhau khô khốc, rời rạc; các chi tiết bị người kể chuyện lược giản đến tối đa. Người kể chuyện thậm chí còn lược bỏ luôn lời chỉ dẫn khi kể lại các đoạn thoại của nhân vật, thậm chí lược bỏ cả chủ thể phát ngôn: “Bị dắt đi, dắt đi. Có mấy sợi lông mao treo dưới tán lá đen. Hai người ngồi trong hốc cổ thụ nói về máu. Đập đập đập đập đập… đẻ ả từ nách này” (Thoạt kì thủy).
Giọng điệu vô âm sắc trở thành đặc điểm của phong cách Thuận. Tiểu thuyết của Thuận thường là dạng tiểu thuyết ngắn, ít đối thoại, lời đối thoại nằm trong lời kể của người kể chuyện. Câu văn ngắn, câu sau gối lên câu trước, cấu trúc câu lặp lại. Hầu hết các tiểu thuyết của Thuận đều đề cập nỗi cô đơn, các mối quan hệ rời rạc của con người trong xã hội phương Tây đương đại. Họ hụt hẫng, không tìm thấy chỗ tựa về mặt tinh thần trong một cuộc sống phi lí, xơ cứng về tâm hồn. Cảm thức về cái phi lí, sự đổ vỡ, bất tín nhận thức đã chi phối giọng điệu tiểu thuyết Thuận. Có thể xếp những cuốn tiểu thuyết của Thuận vào xu hướng văn xuôi vô cảm (một xu hướng văn xuôi xuất hiện ở Mỹ từ những năm 80 của thế kỉ XX), miêu tả một thực tại tàn nhẫn, trống rỗng, không chút tình người trong xã hội đồng tiền ở phương Tây.
Sau đây là những đoạn mở đầu và kết thúc tác phẩm của Thuận, từ đầu đến cuối là giọng đều đều, vô cảm của người kể chuyện:
Tiểu thuyết Phố Tàu
Mở đầu: “Đồng hồ đeo tay chỉ số mười. Thằng Vĩnh nhổm dậy kêu mỏi. Nó ngủ trong tàu điện ngầm. Đầu ngả vào vai tôi. Tàu đến một ga nhỏ thì dừng lại. Mười lăm phút rồi vẫn không nhúc nhích. Người ta phát hiện một túi du lịch vô chủ. Người ta nghi âm mưu đánh bom một cái ga hiu hắt thế này chứa một âm mưu khác nguy hiểm hơn nhiều”.
Kết thúc: “Chẳng ai phản ứng. Cái túi vô chủ vẫn đang đợi công an đặc nhiệm đến điều tra. Tôi vẫn không biết nên ngồi đợi hay ra bắt xe buýt mà đi tiếp. Đồng hồ đeo tay chỉ số mười hai”.
Từ đầu đến cuối câu chuyện (2 tiếng đồng hồ) là lời người kể chuyện xưng tôi, kể về tình yêu của mình với câu văn trắng, giọng vô âm sắc: “Thụy kể Thụy sinh ở Yên Khê. Chúng tôi sinh cùng năm. Thụy trước tôi ba tháng hai ngày. Hôm sau cả lớp nói với nhau tôi phải lòng Thụy. Hôm sau nữa toàn trường xôn xao tôi bị thằng tay sai Bắc Kinh bắt mất hồn...”.
Tiểu thuyết Paris 11 tháng 8
Mở đầu: “Paris 11 tháng 8 năm 2003, 39 độ trong bóng râm, 42 độ tầng áp mái. 39 độ làm hai nghìn chín trăm cụ già đột tử. 42 độ khiến Liên có thêm sáu cái mụn, bốn cái đối xứng trên cằm, hai cái hai cánh mũi”.
Kết thúc: “Xác Liên đặt giữa nhà, hàng xóm thế nào cũng mang ba mươi chín bông hồng trắng sang viếng, nửa tiếng sau cả phố biết mặt Liên còn bao nhiêu cái trứng cá bọc, nửa ngày sau cả Hà Nội biết đi Tây kiếm chồng khó ra làm sao. Liên nhắm mắt. Mắt cay xè. Nước mắt chảy lúc nào, rồi khô lúc nào, Liên không biết. Liên sẽ chẳng bao giờ mở mắt để thấy một đám lửa cao 13 mét. 0h13. Con số 13 chưa bao giờ hoàn thiện hơn thế”.
Từ đầu đến cuối tác phẩm là giọng điệu vô cảm của người kể chuyện ngôi ba kể về Liên, cô gái xấu xí, phải đi kiếm chồng ở xứ người, sống trong mặc cảm, trong sự cô đơn đến kinh hoàng. Nhân vật Liên không nói câu nào, chỉ gật đầu, lắc đầu hoặc im lặng. Triệt tiêu lời nói của nhân vật, tăng cường ngôn ngữ trần thuật với giọng vô âm sắc, nhà văn nhằm mục đích tô đậm thêm phận người xa xứ, cuộc sống bấp bênh, tủi nhục và cuối cùng là cái chết.
Tiểu thuyết T mất tích
Mở đầu: “T mất tích. Cảnh sát, sau bốn mươi tám tiếng đúng qui định hình sự, đã khẳng định như vậy và tung kế hoach truy tìm trên phạm vi toàn quốc. Ngay trước đó, trong một buổi tối, tôi phải qua hai cuộc thẩm vấn, cuộc đầu tiên vào sáu giờ là của thanh tra phó đồn cảnh sát địa phương, cuộc thứ hai một tiếng rưỡi sau là của thanh tra trưởng đồn cảnh sát địa phương”.
Kết thúc: “T không quay về sài Gòn, và cũng như bà cụ mười năm trước đó, cô ấy chọn một nơi rất xa, thuê một căn phòng nhỏ, điện thoại không lắp, tài khoản không mở, bạn bè không kết. Mai danh ẩn tích để được mãi mãi nằm trong danh sách mất tích của sở Nội vụ thành phố”.
Suốt chiều dài câu chuyện là giọng điệu trống rỗng vô hồn, dửng dưng đến tàn nhẫn của nhân vật tôi- người kể chuyện- người chồng, trước sự kiện bỗng dưng biến mất của vợ mình: “Tôi chẳng làm gì nên tội. T mất tích thì cảnh sát cứ việc đi tìm”. Giọng vô âm sắc trong tác phẩm chủ yếu do người kể chuyện không dừng lại để tả, hay bình luận. Cảm thức về cái phi lí đậm đặc. Dấu ấn của Tiểu thuyết mới, chủ nghĩa hiện sinh (cái phi lí trong Người xa lạ của A.Camus) đậm nét: “Hôm nay, mẹ chết. Hoặc có thể hôm qua, tôi không biết. Tôi đã nhận được một bức điện từ trại dưỡng lão: “Mẹ mất. Mai đưa tang. Thành thật phân ưu”. Những dòng chữ chẳng nói được gì. Hay có lẽ là hôm qua”.
Tiểu thuyết Thuận mang nhiều dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện đại. Giọng điệu vô âm sắc cũng góp phần làm nổi rõ một hiện thực phân rã, vỡ vụn, qua đó làm nói lên trạng thái cô đơn của con người.
3. Phân chia thành nhiều kiểu giọng điệu trần thuật là cách để nhận diện rõ những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết đương đại, xét từ phương diện lời người trần thuật. Trong thực tiễn văn học, không phải bao giờ các giọng này cũng tách bạch, rõ ràng. Bởi “giọng điệu chủ đạo không những không loại trừ mà còn cho phép tồn tại trong tác phẩm văn học những giọng điệu khác nhau” (Khravchenko). Khôi hài nhưng không khỏi chua xót; châm biếm, mỉa mai nhưng giàu chất triết lí; ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết đương đại thường là kiểu kết hợp nhiều âm sắc- nhất là những tác phẩm xuất hiện cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI – giai đoạn giao thời với nhiều biến chuyển, khi hòa chung vào xu thế hậu hiện đại thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bakhtin, M. (1992), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Bakhtin, M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
3. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội.
4. Janh Manfred (2005), Trần thuật học: nhập môn lí thuyết trần thuật (Nguyễn Thị Như Trang dịch), tài liệu ở dạng bản thảo.
5. Nguyễn Thái Hòa (2005), Từ điển tu từ – phong cách – thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Kundera, Milan (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), NXB Đà Nẵng.
7. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập, NXB Giáo dục, Hà Nội.