Những góc nhìn Văn hoá
Hệ thống một ngôn ngữ

Nền tảng của tất cả các mô hình giao tiếp là mô hình giao tiếp đã thành truyền thống, do R. Jakobson hoàn thiện, thuộc loại hình như sau:
Từ quan điểm của mô hình này, thì sự tương thích trong giao tiếp (như bản thân chữ “communitas” đã gợi ra – là hiệp thông, cộng đồng) sẽ là mục đích của sự giao tiếp. Chướng ngại vật được tính đến là những cản trở do sự thiếu hoàn bị không thể tránh khỏi về mặt kĩ thuật tạo ra. Hình như trong mô hình lí tưởng, ở phạm vi lí thuyết, những chướng ngại này có thể bỏ qua.
Những lí lẽ ấy là cơ sở trừu tượng hoá dẫn tới sự đồng nhất tuyệt đối giữa người phát với người nhận, và sự đồng nhất này được chuyển sang hiện thực ngôn ngữ. Nhưng mô hình giao tiếp trừu tượng không chỉ hàm ý sử dụng chỉ một mã duy nhất, mà còn hàm ý dung lượng ghi nhớ giống nhau của người phát và người nhận. Trong thực tế, việc lấy thuật ngữ “mã” thay cho thuật ngữ “ngôn ngữ” chẳng hề an toàn chút nào như người ta vẫn tưởng. Thuật ngữ “mã” chứa đựng ý niệm về cấu trúc vừa được sáng tạo, mang tính nhân tạo và được sử dụng do thoả thuận nhất thời. Mã không bao hàm lịch sử, tức là về mặt tâm lí, nó hướng chúng ta tới một ngôn ngữ giả tạo được giả định bằng một mô hình ngôn ngữ lí tưởng nói chung. “Ngôn ngữ” gợi dậy một cách tự nhiên ở chúng ta ý niệm về chiều dài lịch sử của sự tồn. Ngôn ngữ là mã cộng với lịch sử của nó. Cách hiểu giao tiếp như thế chứa đựng trong bản thân những kết luận hết sức sâu sắc.
Truyền đạt thông tin bên trong một “cấu trúc không có kí ức” quả là sẽ đảm bảo tạo ra sự đồng nhất ở mức độ cao. Nếu chúng ta hình dung người phát và người nhận có cùng các mã như nhau và hoàn toàn bị mất trí nhớ, thì giữa họ, sự thông hiểu lẫn nhau sẽ đạt mức lí tưởng, nhưng giá trị thông tin được truyền đạt sẽ ở mức thấp nhất, còn bản thân thông tin sẽ bị giới hạn nghiêm trọng. Một hệ thống như vậy không thể thực hiện tất cả các chức năng đa dạng được tiến trình lịch sử trao cho ngôn ngữ. Có thể nói, người phát và người nhận giống hệt nhau sẽ hiểu nhau một cách tuyệt vời, nhưng họ sẽ chẳng có gì để mà nói với nhau. Lí lưởng của sự thông tin như thế có lẽ là truyền đạt các mệnh lệnh. Mô hình thông hiểu lí tưởng không ứng dụng cho giao tiếp nội tâm của con người với chính nó, vì giao tiếp nội tâm là chuyển đối thoại vào bên trong mỗi cá nhân. Theo lời nhân vật Faust của Goethe:
Zwei Seelen wohnen, ach, in
meinen Brust!
Die eine will sich von der
andern trennen[1]
Trong giao tiếp bình thường của con người, và, nhất là, trong sự hành chức bình thường của ngôn ngữ, bao giờ cũng có giả định về sự vênh lệch ban đầu giữa người nói và người nghe.
Trong những điều kiện như thế, tình huống giao nhau giữa không gian ngôn ngữ của người nói với không gian ngôn ngữ của người nghe sẽ là tình huống bình thường.
Trong tình huống không có sự giao nhau, giao tiếp sẽ không diễn ra, nhưng giao nhau một cách tuyệt đối (A và B hoàn toàn đồng nhất), giao tiếp sẽ không có nội dung. Bởi vậy, chỉ có thể có sự giao nhau nào đấy của các không gian nói trên và sự giao nhau đồng thời giữa hai xu hướng đối lập: mong muốn làm cho dễ hiểu, tức là thường xuyên cố gắng mở rộng phạm vi giao nhau và mong muốn tăng cường giá trị của thông tin, tức là xu hướng tăng cường tối đa sự khác biệt giữa A và B. Cho nên, cần phải áp dụng cho giao tiếp ngôn ngữ bình thường ý niệm về trương lực, một lực đề kháng nào đó do không gian A và B tạo nên.
Không gian giao nhau giữa A và B sẽ là cơ sở tự nhiên của sự giao tiếp. Những bộ phận không giao nhau của các không gian ấy dường như bị loại trừ ra khỏi sự đối thoại. Tuy nhiên, ở đây, cỏ vẻ như chúng ta đang đứng trước một mâu thuẫn: trong phần giao nhau của không gian ngữ nghĩa, sự trao đổi thông tin thường bị thất thiệt vì một loại khiếm khuyết tầm thường. Giá trị của đối thoại có vẻ như không gắn với bộ phận giao nhau này, mà gắn với các bộ phận không giao cắt lẫn nhau. Điều này đặt chúng ta trước một mâu thuẫn không thể giải quyết: chúng ta hứng thú với sự giao tiếp ở chính phạm vi khiến cho giao tiếp trở nên khó khăn, thậm chí, ở mức độ cao nhất, không thể diễn ra. Chẳng những thế, việc phiên dịch một bộ phận không gian không giao nhau sang một ngôn ngữ khác càng khó, càng không tương thích, thì thực tế giao tiếp nghịch lí này càng có giá trị trong quan hệ thông tin và quan hệ xã hội. Có thể nói, phiên dịch cái không thể phiên dịch là hiện thân cho giá trị cao của thông tin.
Chúng ta sẽ xem xét các thí dụ: một mặt, phiên dịch với các ngôn ngữ có sự gần gũi tương đối, mặt khác, phiên dịch với các ngôn ngữ hoàn toàn khác biệt nhau. Ở trường hợp thứ nhất, việc phiên dịch sẽ diễn ra tương đối dễ dàng. Ở trường hợp thứ hai, phiên dịch tất yếu sẽ gặp nhiều khó khăn và sẽ sinh ra sự thiếu xác định ngữ nghĩa. Chẳng hạn, nếu là trường hợp thứ nhất – phiên dịch một văn bản phi nghệ thuật từ một ngôn ngữ tự nhiên sang một ngôn ngữ khác, thì bản dịch ngược sẽ đưa chúng ta quay trở lại với ý nghĩa xuất phát ở mức độ chính xác. Nếu xem xét trường hợp dịch từ ngôn ngữ thơ sang ngôn ngữ âm nhạc, thì về nguyên tắc, sự chính xác ngữ nghĩa theo kiểu đơn trị sẽ không thể đạt được. Điều này được thể hiện ở cả tính dị bản sâu sắc của trường hợp dịch ngược[2].
Giao tiếp ngôn ngữ hiện ra trước mắt chúng ta như là sự giao nhau đầy căng thẳng giữa những hành vi ngôn ngữ tương thích và không tương thích. Hơn nữa, sự không thông hiểu (hội thoại bằng những bằng những ngôn ngữ không hoàn toàn đồng nhất) cũng là cơ chế có giá trị ngữ nghĩa giống hệt như sự thông hiểu. Chiến thắng khác thường của bên nào trong số hai cực ấy đều là sự phá vỡ thông tin sẽ được tạo ra trong phạm vi trương lực giữa chúng. Những hình thức tiếp xúc khác nhau – với giao tiếp ngôn ngữ thông thường ở cực này và ngôn ngữ nghệ thuật ở cực kia – là sự chuyển dịch từ tâm điểm trung lập khi thì về phía dễ hiểu, khi về hướng ngược lại. Nhưng chiến thắng tuyệt đối của một bên nào đó giữa các cực ấy, về mặt lí thuyết, sẽ không thể xẩy ra, còn về mặt thực tiễn, sẽ rất tai hại. Tình huống, khi đơn vị sinh nghĩa tối thiểu không phải là một, mà là hai ngôn ngữ, sẽ tạo ra cả một chuỗi hệ quả. Trước hết, tự bản chất của hành vi trí tuệ có thể được mô tả bằng các thuật ngữ phiên dịch, sự xác định ý nghĩa là sự phiên dịch từ một ngôn ngữ sang ngôn ngữ khác, thêm vào đó, hiện thực ngoài ngôn ngữ cũng sẽ được xem như một ngôn ngữ nào đó. Hiện thực ấy cũng có tính tổ chức cấu trúc và khả năng hoạt động tiềm tàng như là nội dung của một tập hợp các cách biểu đạt đa dạng.
Người dịch: Lã Nguyên
Nguồn: : Лотман Ю.М. Семиосфера. - С.-Петербург: «Искусство-СПБ», 2000. С. 14-17.
[1]“Trong ngực tôi, than ôi, hai tâm hồn cùng sống! Mà tâm hồn này muốn lìa bỏ tâm hồn kia” (J.W. Goethe. Faust. Leipzig,1982. S.51-52).
[2]Trường hợp dịch từ ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật sang ngôn ngữ điện ảnh là sự thực hiện thuộc loại phức tạp nhất phương án thứ hai, bởi vì sự giống nhau giữa ngôn ngữ văn xuôi và ngôn ngữ điện ảnh hoàn toàn chỉ là sự tưởng tượng. Ở đây, khó khăn không giảm bớt, mà chỉ tăng thêm. Coi thường điều này là nguồn gốc của vô số thất bại trong việc dựng phim.
tin tức liên quan
Videos
Nhìn lại sự nhường nhịn trong cuộc sống gia đình hiên nay
Nghệ An sẽ tổ chức 26 lễ hội trong năm 2025
Xác định đúng đắn vai trò của văn hóa, khơi dậy khát vọng dân tộc
Vì sao Trần Đông Phong tự vẫn
Các nhà thơ xứ Nghệ trong phong trào thơ mới
Thống kê truy cập
114575154

2172

2295

2467

222211

130677

114575154