Những góc nhìn Văn hoá
Đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh với việc phát triển chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX

Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936)
1. Vài nét về thân thế của Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 30 tháng 4 năm Nhâm Ngọ, (tức ngày 15.6.1882), tại phố Hàng Giấy, Hà Nội, nguyên quán làng Phượng Dực, thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Phú Xuyên). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, đông con. Tám tuổi ông làm nghề kéo quạt ở trường Thông ngôn của Pháp mở tại đình Yên Phụ.
Năm 11 tuổi nhờ chăm chỉ và ham học, ông được Hiệu trưởng D'Argence đồng ý cho dự thi tuyển vào lớp thông ngôn tập sự ngạch Tòa công sứ, niên khóa 1893-1895. Ông đỗ thứ 12 trong tổng số 40 học sinh. Ông đã đỗ thủ khoa khi mới 13 tuổi và được tuyển làm phiên dịch của Tòa công sứ Lào Cai, Tòa công sứ Hải Phòng, sau lại làm thông ngôn ở Tòa công sứ Bắc Giang (từ 1902-1905).
Bên cạnh công việc chính ở Tòa công sứ, Nguyễn Văn Vĩnh còn cộng tác với hai tờ báo tiếng Pháp: "Courrier de Hai Phong", và "Tribune Indochinoise" của Schneider. Sau đó, ông được Công sứ Bắc Giang là Hauser tuyển làm thư ký riêng. Vì vậy, khi Hauser được cử về làm Đốc lý Hà Nội, ông cũng đưa Nguyễn Văn Vĩnh về theo. Được Hauser tín nhiệm, Nguyễn Văn Vĩnh là sáng lập viên của các hội, các trường được thành lập ra lúc bấy giờ, tiêu biểu là: Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, “Hội dịch sách”, “Hội giúp đỡ người Việt đi sang Pháp học trung, đại học và kỹ thuật”, Hội Trí Tri, Khai Trí Tiến Đức,...
Cuối năm 1906, Nguyễn Văn Vĩnh xin nghỉ việc và cùng với một người Pháp tên là Dufour thành lập nhà in. Ông cùng với Phan Kế Bính dịch và xuất bản hai tác phẩm đầu tiên là Tam Quốc chí và Truyện Kiều. Trong Lời tựa của cuốn Truyện Kiều ông đã đưa ra câu nói nổi tiếng: “Nước Nam ta mai sau này hay hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ”. Câu nói này đã trở thành lời kêu gọi của các nhà truyền bá chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX, nó được in trên tất cả các bìa sách do nhà in của Nguyễn Văn Vĩnh xuất bản. Đồng thời, đây cũng là sợi chỉ đỏ trong suốt cuộc đời làm báo và xuất bản của ông.Từ năm 1907, Nguyễn Văn Vĩnh chuyển hẳn sang nghề làm báo và xuất bản, với nhiều bút danh khác nhau như: Tân Nam Tử, Đào Thị Loan, V, Bản Quán… tùy theo từng thể văn.
Nguyễn Văn Vĩnh là một trong số rất ít người Việt Nam lúc đó tham gia vào tất cả các tổ chức tư vấn của Chính quyền Pháp. Ông làm Ủy viên Hội đồng Thành phố Hà Nội khi mới 25 tuổi (1907), hội viên Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ (tức Viện Dân biểu) từ năm 1913 trong nhiều khóa liên tiếp, thành viên của Đại Hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương (cơ quan tư vấn tối cao về kinh tế của Chính phủ Liên bang Đông Dương). Ông còn tham gia Hội Nhân quyền Pháp tại Việt Nam và Hội Tam điểm Quốc tế. Chính vì thế, một số người cho rằng ông hoàn toàn phục vụ quyền lợi cho thực dân Pháp. Nhưng có một thực tế là ông đã hai lần từ chối Bắc Đẩu bội tinh, một huân chương mà người Việt và người Pháp thời ông đều mơ ước.
Nguyễn Văn Vĩnh là một trong những người Việt Nam đầu tiên tiếp nhận văn hóa Âu Tây và tích cực truyền bá vào Việt Nam. Ông là một trong những người có đóng góp lớn nhất cho việc phát triển chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX. Chữ Quốc ngữ thời kỳ này có rất ít người sử dụng, trong khi đó chữ Hán, chữ Nôm đã tồn tại lâu đời và được tất cả người dân chấp nhận nó như là một thứ chữ truyền thống.
2. Những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh với việc cổ vũ và phát triển chữ Quốc ngữ
Giữa thế kỷ XIX rất ít người Việt Nam biết và dùng được chữ Quốc ngữ. Phải đến khi Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ thì chữ Quốc ngữ mới bắt đầu được dạy và được phổ biến ở mức độ rất hạn hẹp nhằm phục vụ cho chính quyền cai trị.
Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của là người Nam Kỳ đầu tiên có công truyền bá chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, cả hai ông lại không phát động, hô hào và làm dấy lên một phong trào học chữ Quốc ngữ sâu rộng như Nguyễn Văn Vĩnh sau này ở Bắc Kỳ.
Ngay trong số đầu tiên của Đăng Cổ tùng báo ra ngày 28-3-1907, trên cương vị là chủ bút phần tiếng Việt, Nguyễn Văn Vĩnh đã đăng bài “Người An nam nên viết chữ An nam”. Bài viết này đã phản ánh khá rõ quan điểm của Nguyễn Văn Vĩnh về những bất tiện của chữ Hán chữ Nôm (vì thế phải bỏ) cùng những tiện lợi của chữ quốc ngữ (vì thế nên khuyến khích). Không dừng lại ở việc chỉ hô hào cổ động suông cho việc dùng chữ quốc ngữ, tác giả bài viết đã kêu gọi những người tâm huyết với chữ quốc ngữ hãy góp tay vào sáng tác các tác phẩm bằng chữ quốc ngữ, bởi vì ai cũng biết rằng những tác phẩm có giá trị luôn có sức sống riêng của nó, có độ lan tỏa mạnh và trường ảnh hưởng rộng lớn: “Ông nào có tài, làm sách, làm chuyện (truyện) bây giờ, nên làm ra bằng chữ quốc ngữ”[i].
Đến năm 1913, khi tờ báo Đông Dương tạp chí ra đời, với cương vị là chủ bút, ông đã đưa vấn đề này ra: “Bản quán định đem hết những bài luận hay về các công nghệ, về việc buôn bán, dịch ra quốc văn cho người An nam được tận hưởng”[ii].
Nguyễn Văn Vĩnh và nhóm Đông Dương tạp chí (Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Nguyễn Bá Học…)đã sớm nhận thấy ở chữ Quốc ngữ là một thứ vũ khí lợi hại cần thiết cho dân tộc ta trong sự nghiệp phục hưng nước nhà. Tuy nhiên, do chữ Nho đã tồn tại ở Việt Nam hàng ngàn năm nên việc hủy bỏ để theo học một chữ mới không phải là dễ dàng. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Văn Vĩnh đã đề nghị không hoàn toàn loại bỏ chữ Nho ngay, bởi: “Ai chuyên học văn chương, tuy rằng phải gây cho An nam mình có văn chương riêng, nhưng mà cũng phải học lấy cái văn cũ, phải biết lịch sử văn chương của nước mình, phải biết gốc tích tiếng nói mình, thì mới hay được, mới gây được cho văn mình mỗi ngày một hay lên. Trong tiếng ta nhan nhản những chữ nho, dùng đến những chữ ấy, mà chẳng sao đừng dùng được, tất phải học tận căn nguyên nó, mới biết nghĩa nó được, về sau có làm tự vị, tự điển tiếng An nam, thì mới có cách biện nguyên mà cắt nghĩa từng chữ cho đúng được”[iii]. Ông cho rằng học chữ Quốc ngữ rất thuận lợi, bởi“Mở ngay tờ nhật báo này ra mà ngẫm xem bấy nhiêu điều luận trong báo, thử nghĩ: giá thử luận bằng chữ Nho thì có mấy người đọc được, mà trong những người đọc được, thì có mấy người hiểu cho hết nghĩa. Thế mà chữ Quốc ngữ, thì không những là người biết chữ Quốc ngữ đọc được, hiểu được, một người đọc cả nhà nghe cùng hiểu được, từ đàn ông cho đến các bà (không dám nói đàn bà sợ các bà quở) trẻ con cũng nghe được mà chỉ với chúng ta trong cuộc luận bàn thế sự thì có phải nó vui việc ra là bao nhiêu”. Để biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ rất dễ, ông cho rằng “ai có ý chí vài ngày, ngu đần là một tháng cũng phải thông”[iv]. Trong khi đó học chữ Nho thì phải “mất hàng nửa đời người, mà trăm người học không được một người hay, học được hay cũng chỉ ích lấy một mình, không đem ra mà dùng cho đời được nhờ cái học vấn của mình chẳng qua là một cái thú rung đùi mà thôi”[v]. Còn với chữ Nôm thì dễ hơn, nhưng có cái khó là mỗi miền, mỗi người lại có cách viết và hiểu khác nhau. Do vậy nó cũng gây khó khăn cho việc học, hiểu và phổ biến rộng rãi.
Với bút danh Tân Nam Tử, trong bài “Văn chương An nam” (Đông Dương tạp chí số 9 ra ngày 10-7-1913), Nguyễn Văn Vĩnh phân tích những yếu tố hợp thành ngôn ngữ trong văn chương Việt (An nam):
“Trong văn chương ta hiện có 3 thứ tiếng hợp với nhau mà thành ra Quốc âm của ta thời nay.
Một là những tiếng nguyên âm của Việt Nam vốn từ khi chưa học chữ Tàu cũng đã có, như những tiếng người, một, hai, ba, bốn, giời, đất, ăn, uống, vân vân.
Hai là những tiếng do chữ Nho mà Nôm muốn đàm luận đến những việc hơi cao một chút phải có pha chữ Hán mới xong, vì chữ Hán đã thâm nhiễm vào tiếng An nam mình...
Ba là những chữ Nho mượn mà dùng lâu vào tiếng An nam như là tài, mệnh, phong, tình, vương, quan, gia, tinh, thần vân vân”[vi].
Qua đoạn trích trên đây, có thể thấy Nguyễn Văn Vĩnh khẳng định rằng chữ quốc ngữ không đoạn tuyệt với văn tự truyền thống, mà có sự kế thừa và phát triển trong dòng chảy lịch sử của nó. Vì vậy, nó hoàn toàn có đủ khả năng phong phú và đa dạng để tạo lập một nền văn học nghệ thuật độc lập của Việt Nam. Từ nghiên cứu này, Nguyễn Văn Vĩnh đặt vấn đề xây dựng một nền văn chương riêng, giản dị, với mục đích tối thượng là “làm cho nam phụ lão ấu cũng hiểu được”.
Ý thức được rằng sẽ rất khó khăn nếu chỉ một mình xông xáo trong cuộc cách mạng chữ viết, truyền bá tới tất cả mọi người, Nguyễn Văn Vĩnh luôn vận động, kêu gọi “những bậc tài hoa, những người có học thức trong nước, phải chuyên vào nghề văn quốc ngữ”, và cả những “bậc có Pháp học, thì tuy rằng cái ngoại tài ấy phải chuyên làm cách trên - cạnh, làm mối kiếm ăn, nhưng hễ muốn nhân việc lập thân mà lại có ích cho cả đồng bào mình, thì phàm luyện được chút tài nào của người, cũng nên dùng quốc văn mà phát đạt nó ra cho cả người đồng - bang được hưởng”[vii].
Thời gian đầu văn chương chữ Quốc ngữ vẫn còn vụng về, lủng củng, Nguyễn Văn Vĩnh thấy cần thiết phải khắc phục những mặt hạn chế đó để khi nói, viết diễn tả được đúng ý và chuẩn xác. Ông đã đề xuất một biện pháp đơn giản và hiệu quả là tất cả các thể loại như: báo, sách, văn chương, thơ, tiểu thuyết, nghị luận, đơn từ đến những câu đối, câu phúng, lời chúc mừng bạn bè... đều phải viết bằng chữ Quốc ngữ, để cho người dân làm quen dần và đồng thời cũng luyện cho người viết trôi chảy, chau chuốt hơn.
Nguyễn Văn Vĩnh không chỉ là người đi đầu trong việc tuyên truyền, cổ vũ mọi người học chữ Quốc ngữ, mà ông còn tìm tòi, nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt sao cho dễ học, đọc và viết được nhanh nhất. Ông đưa vấn đề này ra bàn luận để đi đến thống nhất trong toàn quốc về cách đặt câu, cách viết, chấm phẩy, cách nói, viết cho cả 3 miền “Nay bản báo lấy việc cổ động cho chữ Quốc ngữ làm chủ nghĩa, tưởng cũng nên đem hết các khuyết điểm, các nơi không tiện ra mà bàn lại, chẳng dám đem cách nào mới mà xin thế vào lối cũ, sợ thiên hạ lại bảo vẽ vời, song cũng nên bàn các nơi bất tiện ra để ai nấy lưu tâm vào đó, thì dễ có ngày tự dưng chẳng phải ai làm mà chữ Quốc ngữ tự đổi dần dần đi”[viii].
Là người từng đi dọc 3 miền đất nước, Nguyễn Văn Vĩnh có điều kiện chú ý giọng nói, cách viết của 3 miền và thấy có sự khác biệt nhau rõ nét như chữ ch với chữ tr ngoài Bắc không phân biệt mấy nhưng “ở Nam Kỳ thì thật có phân biệt. Như con trâu mà viết thành châu (hạt châu) thì người Nam Kỳ không hiểu... Sự này tôi đã có ý nghiệm từ Thanh Hóa vô tới Quảng Nam và ở Sài Gòn”. Hay chữ s với chữ x: ngoài miền Bắc thì không phân biệt hai chữ này còn người miền Nam thì “chữ s uốn lưỡi như chữch tây, còn chữ x thì đọc như chữ s tây. Chữ gi, chữ d, chữ r thì ở Bắc Kỳ ta không phân, còn ở Nam Kỳ và Trung Kỳ phân biệt được chắc chữ r mà thôi, còn d vớigi cũng đọc như chữ y, mà không mấy người biết chắc được tiếng nào đáng viết d hay gi”[ix]. Mục đích của ông khi ông đưa ra sự so sánh giữa 3 miền là mỗi miền nên học những tiếng chuẩn của nhau, mỗi bên có thể “nhường nhịn” nhau một chút, như ngoài Bắc nên theo trong Nam mấy tiếng “githành tr, d thành nh, nh thành l… để dùng cho đều trong văn tự, ba miền cùng dễ hiểu cả”[x]. Theo ông nếu mỗi miền chịu học những từ chuẩn của nhau thì chữ Quốc ngữ ngày càng trở nên rõ ràng và trên văn tự có sự thống nhất trong cả nước.
Lúc đầu chữ Quốc ngữ rất đơn giản “viết có mẹo mực lối lăng. Lối chỉ có một, không phân ra lắm cách như bây giờ, cho nên dễ nhận. Lối ấy, tất là lối của những người Âu châu sang đây trước nhứt, tức là các cố đạo”. Nhưng Nguyễn Văn Vĩnh muốn chữ Quốc ngữ phải là một lối viết có luật lệ, có kinh điển để “xứng đáng làm văn chương riêng của nước Nam ta”[xi]. Cho nên ông cho rằng sự khác biệt giữa 3 miền và việc học hời hợt chữ Quốc ngữ của một số người đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển của chữ Quốc ngữ, vì nhiều khi các chữ viết không đúng đã làm cho người đọc phải suy nghĩ và dễ gây hiểu sai nghĩa. Từ thực tế đó ông sợ chữ Quốc ngữ dần dần “thành một lối chữ hỗn độn, không ai hiểu được nữa”[xii]. Với mong muốn mọi người học chữ Quốc ngữ một cách bài bản, nghiêm túc, ông đã đề nghị các quan cai trị xét trong các đơn từ nếu đơn nào viết sai lỗi chính tả thì không nhận, trừ những việc khẩn cấp. Nếu được “như thế thì chắc rằng chẳng bao lâu bắt được người An nam phải viết chữ Quốc ngữ theo phép chớ không viết liều được nữa”[xiii].
Với tư cách là chủ bút tờ Đông Dương tạp chí và là người tâm huyết với việc phát triển chữ Quốc ngữ, Nguyễn Văn Vĩnh đã cho đăng ngay từ số báo đầu tiên những bảng mẫu chữ cái Quốc ngữ bao gồm một số nguyên âm và phụ âm, nguyên âm đôi, các vần ghép: bơ, cơ, dơ, gơ, hơ, kơ... và một số đếm đơn giản từ 1 đến 9 và số 0. Bảng chữ cái viết hoa to và các chữ thường theo sau là cách phát âm khá chuẩn xác. Chúng tôi thấy đủ 23 chữ cái, 6 nguyên âm ngắn và 11 phụ âm. Cách phát âm các từ này có kèm theo tranh vẽ dễ hiểu như sách học vần của các em lớp 1 hiện nay, ví dụ: Dép (vẽ đôi dép), Tháp (vẽ cái tháp), lọ (vẽ cái lọ), người mẹ, cái chợ, con quạ... đều có vẽ tranh nhỏ minh họa. Đặc biệt ở Đông Dương tạp chí năm 1918 còn có bài hướng dẫn cách cầm bút, cách ngồi, cách viết...
Với mong muốn chữ Quốc ngữ ngày càng hoàn chỉnh, giúp cho mọi người đọc và hiểu được dễ dàng, bên cạnh việc chỉnh sửa những chữ còn sai khi nói và viết (chính tả) thì cần phải thống nhất cách phiên âm tên đất, tên người nước ngoài khi dịch ra chữ Quốc ngữ. Thông thường người dịch theo tiếng Trung Quốc, mặc dù rất dễ đọc và nhớ nhưng lại bị sai với nguyên bản, còn nếu dịch thẳng từ tiếng nước ngoài ra chữ Quốc ngữ thì nhiều người lại không hiểu, còn để nguyên như bản gốc thì những người không biết tiếng nước ngoài lại không đọc được. Từ những khó khăn đó, Nguyễn Văn Vĩnh đã đưa ra hai cách phiên âm: “Bao nhiêu những tên nước lớn, ai cũng biết theo tiếng Tàu rồi như là Pháp, Anh, Nga, Đức, Bỉ-lị-thì, áo, thì cứ để tiếng biết rồi mà dùng... Còn bao nhiêu những chỗ chưa mấy biết thì dịch theo cách mới, lấy cho gần nguyên âm”, tức là “khi viết lẫn những tên ấy vào văn quốc ngữ thì nên viết tiếng dịch trước rồi vòng hai bên hai cái viết nguyên dạng chữ vào sau cho người đã biết tiếng Tây dễ nhận ra”[xiv]. Đây là một vấn đề rất cần thiết và rất thời sự đối với báo chí, xuất bản lúc bấy giờ.
Chương trình giáo dục của chính quyền Pháp nhằm mục đích chính là đào tạo một số người trở thành phiên dịch phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, cho nên trong chương trình giảng dạy, chữ Quốc ngữ chỉ chiếm thời lượng rất ít mà phần lớn thời gian dành cho việc học chữ Pháp. Vì vậy, Nguyễn Văn Vĩnh, cùng với việc truyền bá văn hóa phương Tây đã rất tích cực tuyên truyền, cổ vũ người dân học chữ Quốc ngữ, dùng chữ Quốc ngữ để truyền tải những cái hay cái đẹp của nền văn minh Việt, phổ biến những tư tưởng Đông - Tây để làm cho nhân dân vừa hiểu được nền văn hóa Pháp, vừa giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Ông đã từng nói “Nước Nam ta mất vì những trí thức nho học chỉ biết làm văn Tàu. Chúng ta bây giờ đừng để trở thành những người trí thức mới chỉ biết làm văn chương Tây”[xv].
Để khẳng định, chữ Quốc ngữ có khả năng truyền tải được tất cả tư tưởng, tình cảm của con người, Nguyễn Văn Vĩnh đã viết nhiều thể loại khác nhau từ nghị luận, dịch tiểu thuyết, thơ ngụ ngôn... bằng chính chữ Quốc ngữ. Bên cạnh những bài viết tuyên truyền việc học chữ Quốc ngữ trên báo Đông Dương tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh còn biên soạn một quyển sách tự học chữ Quốc ngữ để phát tặng cho những người mua báo. Có thể nói, để cổ vũ người dân học chữ Quốc ngữ, Nguyễn Văn Vĩnh luôn tận dụng mọi điều kiện, mọi khả năng về phương diện báo chí của mình để tuyên truyền cho việc phát triển chữ Quốc ngữ.
Chữ Quốc ngữ có tới 5 dấu thanh: nặng, sắc, huyền, hỏi, ngã và những râu ở chữ đ, ơ, ư và có tới 72 nguyên âm. Với vai trò là chủ bút Đông Dương tạp chí, Trung Bắc Tân văn, Nguyễn Văn Vĩnh đã chủ trương cải cách ngay trên tờ báo. Theo đó chữ F thay dấu huyền, chữ W thay dấu sắc...Theo Hồ Lân Trinh trong “Sự cải cách vần chữ Việt” thì “Muốn cho chủ và thợ nhà in áp dụng những tiến bộ về kỹ thuật ấn loát cho chữ Việt, thì phải cải cách chữ viết thế nào cho ít dấu chữ chừng nào hay chừng nấy. Đi từ ý này và đưa ý đó đến chỗ cùng tột, Nguyễn Văn Vĩnh đề nghị hạn chế các dấu lại còn 26: đó là số người Anh hùng. Như vậy bất cứ máy sắp chữ mua ở thị trường nào trên thế giới cũng có thể “phụng sự” chữ Việt được. Nhưng làm sao để nhốt 72 nguyên âm Việt vào trong phạm vi chật chội của 7 nguyên âm Anh? Nguyễn Văn Vĩnh liền đề nghị hai ước lệ: thay thế một số nguyên âm bằng những nguyên âm đôi và đánh dấu giọng thấp cao bằng những phụ âm không ở cuối vần mà người sẽ để ở chót tiếng”[xvi]. Sự cải cách của ông rất tiện lợi trong thời kỳ máy chữ mua của Pháp. Tuy nhiên, chủ trương đó của ông không được nhiều người cùng thời hưởng ứng. Mãi sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, và sau ngày hòa bình lập lại, ngành Bưu điện Việt Nam đã áp dụng chính hệ thống “chữ Quốc ngữ cải cách của Nguyễn Văn Vĩnh” trong các điện tín.
3. Kết luận
Đến năm 1918[xvii] năm kết thúc của tờ Đông Dương tạp chí, đồng thời cũng là năm chữ Quốc ngữ thắng lợi hoàn toàn, không còn ai có thể nghi ngờ khả năng của chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ đã có thể truyền tải được tất cả những áng văn hay của nước ngoài, cũng như diễn tả được những tư tưởng và cảm xúc một cách chân thực. Chữ Quốc ngữ đã được sử dụng rộng rãi thay thế chữ Hán và chữ Nôm (chữ Hán bị bãi bỏ trong thi cử năm 1915 ở Bắc Kỳ, và chấm dứt trên cả nước năm 1919 ở Trung Kỳ). Từ đây chữ Quốc ngữ đã trở thành thứ chữ phổ thông chiếm vị trí quan trọng và được tất cả người dân Việt Nam ưa dùng.
Có thể nói, trong số những người có chung tư tưởng muốn cổ vũ, truyên truyền và phát triển chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX như Phan Kế Bính, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đỗ Mục, Phạm Quỳnh... thì Nguyễn Văn Vĩnh được coi là người tràn đầy nhiệt huyết và có công đóng góp nhiều nhất. Ông luôn thực hiện bằng cả hai hình thức: diễn thuyết và xuất bản (hay ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết).
Để đạt được thành quả đó, những người đi tiên phong cổ vũ và cải cách chữ Quốc ngữ như Nguyễn Văn Vĩnh đã trải qua rất nhiều khó khăn. Vì trong chương trình giáo dục của chính quyền Pháp lúc đó, chỉ 3 năm đầu cấp tiểu học được học bằng chữ Quốc ngữ, đến bậc trung học chữ Quốc ngữ chỉ còn là một môn sinh ngữ, trong khi tiếng Pháp được nâng lên trong tất cả các môn học. Và đến bậc cao đẳng, đại học thì chữ Việt mất hẳn, chỉ còn lại chữ Pháp. Ngoài ra, những người đi tiên phong trong phong trào cổ vũ, truyền bá chữ Quốc ngữ những năm đầu thế kỷ XX phải đối đầu với ý thức hệ phong kiến lạc hậu, bảo thủ trong xã hội Việt Nam. Vì vậy, cổ động cho việc học chữ Quốc ngữ từ thành thị đến nông thôn là rất khó khăn, vất vả. Trước thực tế đó, những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh và những người cùng chí hướng với ông trong việc phát triển chữ Quốc ngữ là rất đáng trân trọng.
Tuy chữ Quốc ngữ và những người truyền bá chữ này được đặt dưới sự bảo trợ của Chính quyền Pháp, nhưng khi chữ viết được cả dân tộc chấp nhận và sử dụng nó thì Pháp đã không thể kiểm soát được và nó đã trở thành nhân tố quan trọng trong công cuộc giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Điều này được minh chứng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tất cả các văn bản họp hành, báo chí, truyền đơn tuyên truyền cách mạng… đều được viết bằng chữ Quốc ngữ. Cách mạng Tháng 8 thành công, chữ Quốc ngữ được giảng dạy trong tất cả các cấp từ bậc tiểu học đến đại học.
*. Viện Sử học
[i] Đăng Cổ tùng báora ngày 28-3-1907.
[ii] Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ nghĩa, Đông Dương tạp chí, số 2-1913, tr. 2.
[iii] Đông Dương tạp chísố 31, ra ngày 22-12-1913
[iv] Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ nghĩa, Đông Dương tạp chí, số 2-1913, tr. 2.
[v] Nguyễn Văn Vĩnh, Chữ Nho nên để hay nên bỏ, Đông Dương tạp chí, số 31-1913, tr. 3.
[vi] Đông Dương tạp chísố 9 ra ngày 10-7-1913),
[vii] Nguyễn Văn Vĩnh, Tiếng An nam, Đông Dương tạp chí, số 40-1914, tr. 4.
[viii] Nguyễn Văn Vĩnh, Chữ quốc ngữ,Đông Dương tạp chí, số 33-1913, tr. 4.
[ix] Nguyễn Văn Vĩnh, Chữ quốc ngữ,Đông Dương tạp chí, số 33-1913, tr. 4.
[x] Nguyễn Văn Vĩnh, Cách viết chữ Quốc ngữ, Đông Dương tạp chí, số 82-1914, tr. 6.
[xi] Nguyễn Văn Vĩnh, Đông Dương tạp chí, số 51-1914, tr. 4-5.
[xii] Nguyễn Văn Vĩnh, Đông Dương tạp chí, số 51-1914, tr. 4-5.
[xiii] Nguyễn Văn Vĩnh, Đông Dương tạp chí, số 51-1914, tr. 4-5.
[xiv] Nguyễn Văn Vĩnh, Cách dịch các tiếng tên xứ, tên người Âu châu ra chữ quốc ngữ Đông Dương tạp chí, số 67-1914, tr. 9.
[xv] Sơn Tùng: Tiểu thuyết hoa râm bụt. Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1998, tr. 181. (trích lời ông Nguyễn Văn Vĩnh).
[xvi] Hồ Lân Trinh. Sự cải cách vần chữ Việt, trong “Phê bình văn nghệ”, tập 1, ngày 8-2-1958. Dẫn lại của Tân Phong Hiệp: “Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936)". Bách Khoa, số 32-1958.
[xvii] Nhiều tài liệu cho rằng năm 1917 là năm kết thúc của tờ Đông Dương tạp chí, nhưng chúng tôi khảo sát tờ báo lại là năm 1918.
tin tức liên quan
Videos
Phân tầng xã hội và di dộng xã hội ở Việt Nam hiện nay [kỳ cuối]
Bàn về “Học thật, thi thật, nhân tài thật” ( Kỳ 2)
Những âm thanh vang vọng núi rừng Tương Dương
Hội nghị Sơ kết cụm thi đua 6 tỉnh Bắc Trung Bộ năm 2023
Chuyện về những người phụ nữ có ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp của vua Mai
Thống kê truy cập
114559430

2130

2317

2748

226973

122920

114559430