Những góc nhìn Văn hoá

Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường - Những điều cảm nhận

 

 

Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường  (1909-1997)                                                           

Tôi không có may mắn được là học sinh, cũng chưa một lần diện kiến Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, nhưng ngay từ khi chính thức là thành viên của bộ môn Văn học nước ngoài, khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp, Hà Nội (tôi nhớ vào khoảng tháng 9 năm 1976, thời điểm Văn học nước ngoài còn gồm cả ba nhóm Nga, Phương Tây và Trung Quốc), tên tuổi và những giai thoại về ông, với tôi, luôn là một trong những ký ức hấp dẫn và ấn tượng nhất. Ấn tượng trước tiên với tôi, một “kẻ hậu sinh” trong lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu văn học nước ngoài, có lẽ trước tiên ở tài năng đáng nể của ông: ngay từ năm 23 tuổi, Nguyễn Mạnh Tường đã đậu tới hai bằng tiến sĩ Pháp (mà là tiến sĩ quốc gia - docteur d’État hẳn hoi, chứ không phải tiến sĩ mới - docteur nouveau ngày nay, mà nhiều người có thể đạt được). Thành tích của ông “chói sáng” đến mức khiến cho cả những người Pháp lúc bấy giờ cũng phải ngạc nhiên. Clément Vautel, một nhà bình luận bảo thủ và dân tộc chủ nghĩa nổi tiếng thời ấy đã từng có những “lời cảnh báo” trên một tờ báo Pháp về hiện tượng Nguyễn Mạnh Tường như sau: “Người Pháp nên cẩn thận: để người Việt Nam được học và học giỏi như vậy, liệu về nước họ có chịu ngồi yên không?”. Ấn tượng thứ hai về Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường thuộc về một nét cá tính, mà suy cho cùng thường chỉ có ở những người giàu lòng tự tin và bản lĩnh, có may mắn được hít thở nền giáo dục dân chủ phương Tây, thấm nhuần tinh thần duy lý của Descartes , nhà triết học Pháp thế kỷ XVII (“Tôi tư duy vậy thì tôi tồn tại” - Je pense donc je suis). Từng có một thời gian rất dài, chúng tôi những học trò khoa Văn thường lan truyền với nhau giai thoại về một ông thầy “tự kiêu”. Một cựu học trò của ông, giáo sư Trần Thanh Đạm, đã từng kể câu chuyện thú vị về “ông thầy tự kiêu” ấy của mình như sau: “Hồi dạy chúng tôi ở Thiệu Hóa, Thanh Hóa thỉnh thoảng thầy nói: Tôi thật sự là một cái quái thai. Các anh nghĩ có phải cái quái thai không?. Học trò đang ngơ ngác, thầy bảo: Ai như tôi, 23 tuổi mà đậu hai bằng tiến sĩ. Thầy tự hào mà nói ra như thế, học trò thì bảo: Thầy kiêu ngạo một cách thật thà, hồn nhiên”. Đại loại là như vậy, những câu chuyện về GS Nguyễn Mạnh Tường, cũng như của không ít những giáo sư nổi tiếng khác một thời của Đại học Văn khoa Hà Nội đã từng làm cho nhiều thế hệ học trò chúng tôi suốt nhiều năm sau vẫn không hết tự hào. Quả thật, sẽ còn lâu lắm, dù khoa học có đi lên bằng “tàu vũ trụ”, tôi vẫn tin rằng, chúng ta khó có thể tìm lại được một đội ngũ những nhà khoa học xã hội và nhân văn tài năng và ấn tượng như thế. GS Nguyễn Mạnh Tường là một trong những vị giáo sư ấn tượng hiếm hoi đó.

Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16 tháng 9 năm 1909 trong một gia đình công chức phố Hàng Đào, thành phố Hà Nội. Thực ra, quê chính của ông thuộc làng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Một cách ngắn gọn ta có thể biết những trang tiểu sử ngắn gọn của ông  như thế này: Hồi nhỏ, ông học trường Paul Bert, sau tiếp tục học trường Albert Sarraul, năm 26 tuổi ông đỗ tú tài triết học hạng ưu, nhờ đó đã nhận được học bổng du học tại Pháp. Từ năm 1927 đến 1933, bằng sự thông minh chói sáng của mình, Nguyễn Mạnh Tường đã có một cuộc thăng tiến kỳ diệu: ông lần lượt vượt qua các chương trinh trình cử nhân luật và văn chương, rồi sau đó đậu luôn hai bằng tiến sĩ thuộc hai lĩnh vực này. Tất nhiên, sự “thăng tiến kỳ diệu” của Nguyễn Mạnh Tường ngoài sự thông mình bẩm sinh, còn có một sự khổ học thật sự. Chính ông đã bộc bạch: “Từ lớp 6 cho tới Tú tài, tôi có thói quen mỗi tuần đọc 2 cuốn tiểu thuyết Tây […]; và nhất là do cật lực làm việc: suốt 5 năm dài, mỗi sáng tôi thức dậy từ 4 giờ, học và viết tới 8 giờ thì đi lớp, chiều lại học tới khuya”. Tháng 5 năm 1932, ông trở về nước, nhưng sau đó quay trở lại Pháp, du lịch và nghiên cứu tại một số quốc gia châu Âu (Tây Ban Nha, Ý, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kì, Hy lạp). Đến 1936, ông mới chính thức trở về Việt Nam và tham gia nhiều công việc khác nhau: được cử giảng dạy khoa Văn chương phương Tây, ngay sau khi Đại học Văn khoa được thành lập (1945); năm 1946, được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử vào phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị trù bị Đà Lạt. Cùng năm, khi đang tham dự một phiên tòa tại Hải Phòng, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngay lập tức ông gia nhập đoàn quân kháng chiến: lên chiến khu Việt Bắc, vào liên khu III và IV, được cử làm luật sư tại các Tòa án quân sự, Tòa án Đại hình và thành viên Ban giám đốc Đại học dự bị, khi đó ở Thanh Hóa và Nghệ An. Mặc dù vậy, điều không may mắn với giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, có lẽ do hoàn cảnh đất nước kháng chiến khó khăn bộn bề, những công việc dành cho một trí thức được đào tạo bài bản như ông, để ông có thể cống hiến, thật sự không nhiều. Thêm nữa, con đường sự nghiệp của Nguyễn Mạnh Tường tại Đại học Văn khoa thời điểm ấy lại rất ngắn, chỉ trong khoảng 3 năm, từ 1954 đến 1957 với vai trò Giám đốc khoa Luật và Phó Giám đốc Văn khoa Sư phạm. Khoảng tháng 10 năm 1957, do một “tai nạn” nghề nghiệp, ông vĩnh viễn rời bục giảng đại học. Bản thân ông cũng không ngờ rằng “tai nạn” bất ngờ ấy đã khiến cuộc đời của ông bước sang một ngã rẽ khác hẳn. Ông buộc phải “gác lại” vô thời hạn hai công việc vô cùng yêu thích từ hồi còn trẻ của mình: nghiên cứu giảng dạy văn chương và thực hành pháp luật. Với một người trí thức, điều đó chẳng khác nào một cuộc “lưu đày”…

Phải tới tận năm 1994, sau một thời gian dài “đứt đoạn”, Nguyễn Mạnh Tường mới có điều kiện quay trở lại công việc chuyên môn quen thuộc của mình: tham gia biên soạn xuất bản một số công trình tài liệu thuộc cả hai lĩnh vực văn chương và giáo dục. Ba cuốn sách Lý luận giáo dục châu Âu thế kỉ XVI, XVII, XVIII, từ Erasme đến Rouseau (NXB GD, 1994), Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp (NXB GD, 1994), Viergile và anh hùng ca La Tinh (NXB KHXH, 1996) có thể được coi là khát vọng hồi sinh “giấc mơ văn chương” của Nguyễn Mạnh Tường. Thực ra, nếu nhìn toàn diện hơn, sự nghiệp của Nguyễn Mạnh Tường gồm 18 đầu sách, báo, bao gồm cả dịch thuật, nghiên cứu, sáng tác bằng hai ngôn ngữ Việt và Pháp thuộc các lĩnh vực xã hội, văn học, luật học và giáo dục. Mảng sách viết bằng tiếng Pháp của ông đa phần đều chưa được in ra, ngay cả tại Pháp. Trong số những cuốn sách chưa được in đó, theo tôi biết, còn có tập bài giảng in rô nê ô Văn hóa và văn học Phục hưng phương Tây (đã từng được lưu giữ tại Phòng tư liệu khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội), vốn được sử dụng làm giáo trình giảng dạy chính thức tại khoa từ những ngày đầu. Rất tiếc, tập tài liệu này cho đến nay vẫn chỉ tồn tại ở dạng lưu hành nội bộ…

Từ một tiểu sử và sự nghiệp có phần “đứt đoạn” như thế, cùng với những nhận xét chưa bao giờ thống nhất về Nguyễn Mạnh Tường, để dựng lại một bức chân dung đầy đủ và chính xác về ông, với một kẻ hậu sinh như tôi quả là rất khó. Cái khó trước tiên đến từ nguyên do, một thời gian dài, mặc dù không có bất cứ sự cấm đoán chính thức nào, nhưng những phát ngôn chân thực về ông lại rất ít cơ hội được dăng tải công khai để nhiều người cùng biết. Thêm lý do nữa, do nước ta một thời gian dài có chiến tranh, tất cả mọi nguồn lực đều tập trung cho công cuộc thống nhất đất nước, việc “khôi phục” danh dự cho một người trí thức như ông khó được ưu tiên. Rồi lâu dần nó bị rơi vào quên lãng. Đến khi người ta kịp nhớ ra thì đã quá muộn màng. Chuyện của ông bỗng nhiên trở thành “dĩ vãng”. Rồi còn có lý do khác nữa, Nguyễn Mạnh Tường vốn là một ông thầy “cá tính”, trong suốt thời gian “gặp nạn” và cả sau này, ông không bao giờ tỏ ra “hối hận” để mong được “giảm án”. Mối quan hệ giữa ông với bạn bè và học trò cứ thế vắng dần. Cả những người bạn tốt cũng “ngại” gặp gỡ ông dần. Trong khi không ít kẻ bên ngoài vốn chẳng “yêu” gì ông, nhưng vẫn lợi dụng “hình ảnh” của Nguyễn Mạnh Tường “khuấy tung” nguồn dư luận không đáng có nhằm vào những mưu đồ thiếu “trong sáng”. Thật may mắn, tình cờ một lần nhân kỷ niệm 35 năm thành lập khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp, Hà Nội (17/11/1991), giáo sư đương nhiệm chủ nhiệm khoa thời đó là Nguyễn Kim Đính đã có sáng kiến đề xuất mời “thầy Nguyễn Mạnh Tường” về dự và phát biểu ý kiến. PGS Phạm Quang Long hồi ấy là Phó khoa, kể rằng, chính ông đã trực tiếp đến tận nhà thầy Nguyễn Mạnh Tường tại 34, phố Tăng Bạt Hổ, “trịnh trọng” đưa ông tới Hội trường 17, Lê Thánh Tông bằng chiếc xe máy “cà tàng” của mình. Nhiều thầy cô giáo và sinh viên khoa Ngữ văn ngày ấy bỗng nhiên bất ngờ được diện kiến hình ảnh “ông thầy của hai bằng tiến sĩ” nổi tiếng một thời của Văn khoa Tổng hợp. Giáo sư Nguyễn Kim Đính thì nhắc lại rằng, khi ra đón thầy Tường bước lên từ bậc tam cấp phía cửa chính Hội trường, ông đã nhìn thấy ông thầy năm xưa của mình run run, xúc động. Thầy nói: “Đã hơn 30 năm nay tôi mới được quay lại trường, lại khoa của mình”. Rõ ràng là không ai khác mà chính khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp, cái nôi ban đầu của giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã làm một “cuộc chiêu tuyết” kỳ diệu cho ông. Bởi lẽ cho đến tận lúc này theo tôi được biết, danh dự của ông từ tận ngày ấy vẫn chẳng có tổ chức chính thức nào đứng ra “đính chính”. Trong khi, sự kiện lịch sử mà vì nó Nguyễn Mạnh Tường gặp “tai nạn” thì về sau đã chính thức được công nhận là “sai lầm”. Bản thân Nguyễn Mạnh Tường, dù có tới hai bằng tiến sĩ, trong đó có tiến sĩ Luật, trái lại không một lần được công khai tự bào chữa cho mình[1]. Đôi điều nói về ông công bằng và khách quan lúc này, nhân 110 năm ngày sinh, là thật sự cần thiết.

Trước tiên, tôi xin được khẳng định: cho dù ý kiến về Nguyễn Mạnh Tường từ trước tới nay có khác nhau thế nào, và dù bản thân ông từng để lại những phát ngôn “gai góc khó nghe” (qua những trang viết đã và chưa được công bố), nhưng về mặt nhân cách, ông hoàn toàn là con người chân thành, trung thực và ngay thẳng. Đã hơn nửa thế kỷ kể từ ngày một “tai nạn nghề nghiệp” ngẫu nhiên giáng xuống đầu, mọi ước mơ, sự nghiệp của vị giáo sư tài hoa bỗng bất ngờ lở dở. Tất cả cũng chỉ xuất phát từ đức tính ngay thẳng, trung thực vốn có của mình. Do trong đời sống riêng tư và cá tính có phần “gai góc”, lại từng được đào tạo trong môi trường giáo dục cởi mở phương Tây, những “phản biện” xã hội thẳng thắn của Nguyễn Mạnh Tường không dễ dàng được chấp nhận ở nước ta thời ấy. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu. Thực ra, bản thân ông là một người yêu nước, thiết tha với sự nghiệp phát triển chung của dân tộc. Không phải chỉ đến bây giờ, khi mọi sự thật về ông đã dần được sáng tỏ, mà ngay cả khi “sự thật và bóng tối” quanh ông còn chưa thật rõ ràng, tình cảm, tư tưởng  của Nguyễn Mạnh Tường vẫn luôn thẳng ngay, minh định. Bản thân ông bao giờ cũng mong muốn những điều tốt đẹp cho dân, cho nước. Báo chí, dư luận cả phía “yêu ông” và “ghét ông” đều gặp gỡ nhau ở vấn đề này. Mặc dù từng có thời gian dài chịu đựng “sự bất công, ghẻ lạnh” không đáng có, những năm cuối đời, khi có điều kiện được tự do bày tỏ, Nguyễn Mạnh Tường không bao giờ  làm trái lý tưởng đặt ra từ thời trẻ của mình. Để kiểm chứng điều này, chúng ta hoàn toàn có thể tham khảo một số bài viết gần đây về chuyến trở lại nước Pháp những năm cuối đời hồi tháng 12 năm 1987, của ông. Trong một cuộc gặp gỡ, giao lưu với một số bạn bè, trí thức ở Pháp, một số phóng viên báo chí ở đây đã bất ngờ “tấn công” ông: “Thưa ngài, ngài thấy chủ nghĩa cộng sản bây giờ thế nào?”. Nguyễn Mạnh Tường bình tĩnh trả lời: “Trước hết các ông đừng lẫn lộn chủ nghĩa cộng sản với những người đã thực hiện nó”. Hỏi tiếp: “Vậy ngài thấy các lãnh tụ cộng sản thế nào?”. Vị “giáo sư của hai bằng tiến sĩ” vẫn sáng suốt trả lời: “Cũng như vậy, các ông chớ xếp chung các lãnh tụ cộng sản vào một gói. Làm sao có thể đặt ngang hàng Ceaucescu với Hồ Chí Minh. Các ông đều biết cụ Hồ Chí Minh khi chết vẫn chỉ có bộ quần áo kaki đã sờn và đôi dép cao su đã vẹt gót”[2].  Về một số sự kiện “dân chủ” diễn ra ở một số nước Đông Âu lúc bấy giờ, ý muốn liên hệ với Việt Nam, Nguyễn Mạnh Tường kiên quyết thẳng thắn: “Tôi là một luật sư quen bào chữa, chứ không phải một công tố viên, quen lên án. Hơn nữa, ngụ ngôn Pháp có câu: Cú đá của con lừa (le coup de pied de l’âne) để nói về những kẻ hèn hạ thừa cơ người khác gặp khó khăn mà lợi dụng. Các ông đừng ép tôi làm con lừa ngu ngốc ấy”. Một câu chuyện khác, biết thời gian này Nguyễn Mạnh Tường thực sự có những khó khăn trong đời sống (cả vật chất lẫn tinh thần), một số người tỏ ý muốn ông ở lại nước Pháp. Với khí chất của một sĩ phu, ông cũng nhất quyết trả lời: “Tôi là người trí  thức Việt Nam, tôi có lòng tự trọng của mình. Tôi không thể vì miếng cơn manh áo mà bỏ đất nước nghèo ra đi” (dẫn theo Kiều Mai Sơn, Nguyễn Mạnh Tường - Người luật sư yêu nước: Lòng tự trọng của người trí thức). Nhà sử học Pháp George Boudarel trong một bài viết về ông đã khẳng định không hề sai rằng: “Dù hết sức ngưỡng mộ Paris và nước Pháp (khó có thể làm hơn), nhưng tới giờ phút quyết định, Nguyễn Mạnh Tường trong sâu thẳm của tâm hồn, vẫn là người Việt. Dường như ông nghĩ, mình chỉ trung thành với những lý tưởng hun đúc ở Paris: độc lập, tự do, nhân quyền và dân quyền. Năm 1945, cùng toàn bộ thành phần ưu tú của dân tộc, ông đi theo Chính phủ Hồ Chí Minh”. Những năm cuối đời, khi vấn đề Nguyễn Mạnh Tường được công khai nhắc lại, cũng từng có kẻ xấu cố ý “đào bới” một vài trang viết tự truyện có tính chất “phản biện” của ông để khẳng định “những hình phạt” dành cho ông và một số trí thức thời ấy là đúng. Bản thân tôi cũng nhận thấy, quả có một số điều, vì “bất bình” và không “cam chịu”, một vị trí thức cương trực và giàu bản lĩnh như Nguyễn Mạnh Tường buộc phải lên tiếng, thật khó mà khác được. Tất cả lại cũng lại vì sự thẳng thắn, khảng khái dường như đã hòa tan trong máu và huyết quản của người trí thức. Những “va dập” đó đã gây tổn hại cho hình ảnh cá nhân của ông, đã đành, nó còn làm tổn hại đến cả nền giáo dục và khoa học trong nước. Cả hai ước mơ giảng dạy văn chương và hành nghề luật sư trên chính đất nước mình của “ông thầy có hai bằng tiến sĩ” vì thế đã không có cơ thực hiện.

Ở một phương diện khác, “nỗi đau” của nhà trí thức Nguyễn Mạnh Tường, đó là sự dang dở trong chuyên môn, sự nghiệp. Với ông, đó đó là “nỗi đau” lớn nhất. Bởi lẽ suy cho cùng, ước mơ duy nhất khi trở về nước của ông chỉ là để làm chuyên môn: giảng dạy văn chương để truyền giảng cái đẹp cho mọi người; làm nghề luật sư để thực thi công lý. Thật tiếc, những mộng ước ấy của Nguyễn Mạnh Tường đã không thành, chính xác hơn, nó có quá nhiều dang dở. Kể từ sau khi trở về nước, do hoàn cảnh chiến tranh, công việc thường xuyên bị gián đoạn, phần lớn các công trình, sáng tác của Nguyễn Mạnh Tường bằng tiếng Pháp không có điều kiện được dịch và in ra. Những gì chúng ta, những người Việt đương thời và hậu thế có cơ hội tiếp xúc chỉ gồm 4 đầu sách, trong đó 3 cuốn được xuất bản tại Việt Nam (bằng tiếng Việt) từ khoảng năm 1994 đến 1996, một cuốn bằng tiếng Pháp nhưng chưa được dịch và in ở Việt Nam (L’Annam dans la littérature francaise, Jules Boissière). Chừng ấy chưa đủ để đánh giá hết sự đóng góp của giáo sư Nguyễn Mạnh Tường cho nền khoa học nước nhà. Thêm nữa, “kho tàng trí tuệ” của vị giáo sư hai bằng tiến sĩ lại “bị phân tán”, mở rộng sang quá nhiều lĩnh vực: văn chương và luật học, triết học và giáo dục, khảo cứu và sáng tác, biên soạn và dịch thuật…, nên rất khó đạt đến độ chuyên sâu. Do không hiểu nhiều về mảng luật học, tôi xin không được “lạm bàn”. Còn nói riêng về văn học, sở trường của Nguyễn Mạnh Tường chính là mảng văn học Pháp, Hy Lạp và La Mã. Ở cả ba mảng văn học này, Nguyễn Mạnh Tường đã có sách được in ra, dù chưa thể coi là xuất sắc. Từ thực tế ấy, việc đánh giá về ông cả ở hai khuynh hướng đề cao đến mức “siêu phàm” lẫn “phủ nhận sạch trơn”, tôi cho rằng đều thiếu chính xác và công bằng. Đúng là ở thời điểm nền đại học Việt Nam còn rất ít thành tựu và thiếu kinh nghiệm (thập niên 40 của thế kỉ trước), một tài năng được đào tạo bài bản như Nguyễn Mạnh Tường không được”khai thác triệt để” là một điều hết sức đáng tiếc. Nhưng dẫu biết vậy, ta vẫn phải thừa nhận, điều “hết sức đáng tiếc” đó chủ yếu thuộc về phần lỗi của lịch sử. Mà lịch sử đôi khi vẫn có “cái lý riêng” của nó. Đến thời điểm này, sự bàn cãi quá nhiều về sự đóng góp của ông cho nền học thuật nước nhà thiết tưởng đã không còn cần thiết. Chúng ta chỉ có thể khẳng định, sau hơn 70 năm ra đời của Đại học Tổng hợp Văn khoa (1945), bởi những lý do lịch sử, sự đóng góp “khiêm tốn” của Nguyễn vẫn là niềm tự hào của trường, của khoa. Con người và sự nghiệp “khiêm tốn” đó vẫn rất đáng được trân trọng.

Sự “trân trong” đó nên được hiểu từ góc độ nào? Như trên đã nói, công bằng mà xét, những công trình khoa học Nguyễn Mạnh Tường để lại (trong cả tiếng Việt và tiếng Pháp, đã in hoặc chưa in), ở cả thời kỳ đầu lẫn thời gian trở lại sau này, chưa có được sự  ảnh hưởng sâu rộng đến nền khoa học xã hội và nhân văn trong nước. Hay đúng hơn, vì bản thân ông đã từng bị “quên lãng” quá lâu, nên khi quay trở lại với chuyên môn khoa học, những cuốn sách ông công bố không còn được nhiều người chú ý. Phần viết tiếng Pháp chưa được dịch thì không phải ai cũng đọc được. Phần viết bằng tiếng Việt được công bố ở thời điểm tên tuổi của ông không còn “hót” nữa, thậm chí đã bị “lãng quên”. Bản thân ngành nghiên cứu xã hội và nhân văn trong nước lúc đó cũng đã bắt đầu có sự đổi mới. Quả thật rất khó cho một nhà nghiên cứu rơi vào “hoàn cảnh đặc biệt” như Nguyễn Mạnh Tường. Dù vậy, vốn là người bản lĩnh và trung trực, Nguyễn Mạnh Tường rất ít khi thay đổi. Ngay từ những ngày đầu tiên mới bước vào nghề, dù làm luật học hay văn chương, giáo dục hay những vấn đề xã hội, thiên hướng nhất quán của Nguyễn Mạnh Tường trong các trang viết và hành xử đều luôn hướng đích đến là con người.Chính xác  hơn, đó là con người cá nhân. Đây là nét nổi bật của nền khoa học nhân văn ở đất nước ông từng được đào tạo. Đó là Tự do, Bình đẳng, Bác ái, và cao nhất là Hạnh phúc với con người. Với văn chương đó là là niềm hạnh phúc được thỏa mãn cái Đẹp. Và luật học đó là Công lý và sự Công bình. Nội dung chính trong bản luận án tiến sĩ luật của ông, L’individu dans la vieille cite annamite (cá nhân trong xã hội Việt Nam cổ), về mặt lý thuyết là đi theo hướng đó. Trong khi trên phương diện thực tế, sau này khi trở về Việt Nam, Nguyễn Mạnh Tường đã từng tham dự nhiều phiên tòa trong tư cách luật sư, và theo giáo sư Nguyễn Kim Đính kể lại, vốn là người “khẩu khí”, ông luôn có ý thức bênh vực những người ở “vị trí thấp kém” và nghèo khổ. Con người Nguyễn Mạnh Tường là như vậy, cho dù không phải có khi bản thân ông cũng “tự mâu thuẫn’ với chính mình, nhưng trong mọi hành xử cuộc sống và khoa học, ông giàu tính nhân văn và nhất quán. Nhìn vào bảng thư mục các đầu sách văn chương của ông, chúng ta dễ dàng thấy Nguyễn Mạnh Tường dành khá nhiều cho mảng sách hư cấu, sáng tác, phần nghiên cứu còn lại, chính xác, chỉ gồm 4 đầu sách như chúng tôi đã dẫn ở trên: Essai sur la valeur  dramatique du théâtre d’Alfred (Khảo cứu giá trị tính kịch trong kịch/sân khấu của d’Alfred Muset), Luận án tiến sĩ văn chương, 1932, tiếng Pháp trong nguyên bản, chưa in [1], Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp, NXB GD, Hà Nội, 1996 [2], Viergile và anh hùng ca La Tinh, NXB KHXH, Hà Nội, 1996 [3], L’Annam dans la littérature francaise, Jules Boissières, chưa dịch [4]. Trong số các công trình này, chỉ duy nhất Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp là được viết mới. Cuốn sách thể hiện rất rõ năng lực chuyên môn cơ bản của ông. Tuy nhiên, người đọc Việt Nam không có cơ hội tiếp xúc nhiều với những cuốn sách kiểu này. Cũng có lẽ vì những công trình đã viết (bằng tiếng Pháp) không được dịch sang tiếng Việt, trong khi những công trình bằng tiếng Việt lại quá ít. Tuy nhiên, có thể khẳng định, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, văn chương, luật học hay giáo dục, vị “giáo sư của hai bằng tiến sĩ” này cũng đều hướng mối quan tâm thường trực của ông vào vấn đề con người (trong tư cách cá nhân) và giá trị nhân văn của con người cá nhân đó. Không phải ngẫu nhiên, cả ba công trình quan trọng nhất của ông, hai bản luận văn tiến sĩ văn chương và luật học, cùng cuốn Giáo dục châu Âu, đều toát ra nội dung cơ bản đó. Quả là căn cứ trên những nhận xét này, chúng ta chưa thấy có sự cân xứng giữa tài năng thực và kết quả vị giáo sư này để lại. Cũng có thể chúng ta quá kỳ vọng vào ông. Nhưng như trên đã nói, điều đáng tiếc đó không thuộc về ông mà thuộc về lịch sử. Nhân 110 năm ngày sinh của “vị giáo sư của hai bằng tiến sĩ”, dù không phải là thế hệ học sinh trực tiếp của thầy, tôi vẫn dám quả quyết, Nguyễn Mạnh Tường là một nhà khoa học tài ba, một nhà hoạt động xã hội tâm huyết, bản lĩnh và một công dân yêu nước.

 

*Khoa Văn học, trường ĐHKHXH & NV

 

Danh mục công trình và tác phẩm chính

1. Lý luận giáo dục châu Âu thế kỉ XVI, XVII, XVIII, từ Erasme đến Rouseau, NXB KHXH, Hà Nội, 1994

2. Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp, NXB GD, Hà Nội, 1996.

3. Viergile và anh hùng ca La Tinh, NXB KHXH, Hà Nội, 1996.

4. Essai sur la valeur dramatique du théâter  d’Alfred Musset (Khảo cứu giá trị kịch trong vở diễn của d’Alfred Muset), Luận án tiến sĩ văn chương, 1932, tiếng Pháp trong nguyên bản.

5L’individu dans la vieille cite annamite(cá nhân trong xã hội Việt Nam cổ), luận án tiến sĩ triết học, 1932, tiếng Pháp trong nguyên bản.

6. L’Annam dans la littérature francaise, Jules Boissières (chưa dịch)

7. Sourires et larmes d’une jeunesse (Revue Indochinoise, 1937)

8. Construction de l’Orient-Aprentissage de Méditerranése, Collection Tendances, Ha Noi, 1943)

9. Le voyage et le sentiment (kịch 3 màn, Collection Tendances, Ha Nội, 1943)

10. Một cuộc hành trình (Minh Đức, Hà Nội, 19540)

11. Une princssse nesee dans une chaumière, tiểu thuyết, 1978, chưa in.

12. L’Armes et sourrires d’une vieilesse, tự truyện, 3 tập, chưa in.

13. Triptyque (bức họa ba tấm), chưa in.

14. Un excommunie (Kẻ bị khai trừ), Quê mẹ, Paris, 1992.

15. Malgre lui, malge elle, chưa in

16. Partir, est ce mourir?, chưa in.

17. Une voix dans la nuit, tiểu thuyết về VN từ 1950 đến 1990.

18. Palinodies (Phủ nhận), chưa in

 

 


[1] . Chính xác hơn, căn cứ vào thư mục 18 đầu sách của Nguyễn Mạnh Tường, có 3 cuốn, đã in và chưa in đề cập đến vấn đề này: Kẻ bị mất phép thông công (Un Excommunie), in tại Pháp 1992,  L’Armes et sourrires d’une vieilesse (Nước mắt và nụ cười của một ông già)  tự truyện, 3 tập, chưa in, và Palinodies (Phủ nhận), chưa in

[2] . Theo Ngô Trần Đức, Hồn việt 1/2011, tr.63

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114511077

Hôm nay

276

Hôm qua

2359

Tuần này

21451

Tháng này

217950

Tháng qua

121356

Tất cả

114511077