Diễn đàn
Đường Lâm ở Hà Tĩnh và giao lộ từ Biển Đông đến Mekong [Kỳ 2]
Kỳ 2: Giao lộ Đông Tây từ Biển Đông đến Mekong
Việc xác định được vị trí của Đường Lâm và châu Phúc Lộc có một vai trò rất quan trọng trong việc tái nhận thức lịch sử thế kỷ VI-X, thậm chí soi sáng thêm nhiều góc khuất về lịch sử giao thông, lịch sử đối đầu - và giao thương giữa Đường và Khmer, quá trình hình thành và đi lên của Đại Cồ Việt/Đại Việt trong thế kỷ X-XII-XV khi “tứ bề thọ địch”.
Một góc huyện Hương Khê, Hà Tĩnh ngày nay. Nguồn: http://huongkhe.hatinh.gov.vn
Nhưng trước tiên, ta cần xác định rõ hơn con đường từ Hoan Châu đi Đường Lâm - Phúc Lộc đã diễn ra như thế nào. Bởi tôi hình dung, bờ biển Hoan Châu - Phúc Lộc châu là một chuỗi các thương cảng ven bờ, nối với nhau bằng hệ thống thủy lộ duyên hải, và đường bộ duyên hải, cũng như đường bộ ngược xuôi (Đông Tây). Giã Đam ký ghi: từ Hoan Châu đi hai ngày đến huyện Nhu Viễn châu Đường Lâm. Đào Duy Anh cho rằng vị trí của huyện Nhu Viễn và châu Đường Lâm phải ở miền Hoành Sơn, như thế châu Phúc Lộc ở miền thượng du phía Tây của tỉnh Hà Tĩnh. Thái Bình hoàn vũ ký ghi: từ Hoan Châu đi hai ngày dọc theo bờ biển dài 102 dặm (51km) là đến châu Phúc Lộc[1]. Với sử liệu này, Đào Duy Anh nhận định rằng: châu Phúc Lộc gồm cả miền Nam Hà Tĩnh và miền Quy Hợp và Ngọc Ma ở phía Tây của dãy núi Hoành Sơn[2]. Các tư liệu trong Tân Đường thư và Cựu đường thư đều ghi chuyện Tạ Pháp Thành thu phục 7000 bộ lạc[3] ở phía rừng núi của châu Phúc Lộc. Một số lượng lớn như vậy chắc hẳn không chỉ có phần đất của phía Tây Hà Tĩnh mà còn cả vùng đất của Lào. Đại Nam nhất thống chí ghi: huyện Hương Sơn (tỉnh Hà Tĩnh) đời Đường là châu Lộc Phúc[4]. Lộc Phúc chắc nhầm từ Phúc Lộc, mà ngay ở dưới ghi việc năm 1868 vẫn còn bảo lưu tổng Phúc Lộc, cùng các tổng Hương Khê, Quy Hợp, Châu Lễ, Phương Điền. Huyện Hương Sơn có núi Giăng Màn được mô tả là nhiều người Man Lạo. Nếu thế có thể nghĩ đến chuyện Hương Sơn xưa chính là huyện Nhu Viễn - huyện lị của châu Phúc Lộc. Tính từ thương cảng cửa Hội, đi Hồng Lĩnh, qua Đức Thọ, lên Phố Châu là 35km, đến Ngàn Phố là trên 40 km. Thời xưa đi 2 ngày là cũng có lý. Còn nếu theo đường dọc biển (dù là đi thuyền hay đi bộ), từ cửa Hội xuôi về cửa Nam Giới (sông Hạ Vàng, thành phố Hà Tĩnh nay) thì là 30 km. Như vậy, Nhu Viễn (Hương Sơn) là huyện lị của châu Phúc Lộc, còn Đường Lâm là huyện duyên hải gồm phần đất của bốn huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh ngày nay. Giới hạn của huyện Nhu Viễn đến đâu? Nếu tính theo ranh giới hiện nay thì là gồm 3 huyện: Hương Khê, Vũ Quang, Hương Sơn và phần đất của Lào.
Muốn hiểu thêm địa giới của Nhu Viễn đến đâu trên đất Lào ngày nay thì ta phải khảo thêm về giao thông ở khu vực này. Về lịch sử giao thông, ta thử khảo xem, con đường xuyên rừng vượt núi từ Đường Lâm - Hoan Châu sang sông Mekong - Chân Lạp như thế nào. Từ Hoan Nghệ sang Lào có 3 đường: 1/Diễn Châu/hoặc Vinh - Đô Lương- lên Mường Xén (Kỳ Sơn) đây là tuyến lớn nhất, đi từ Nghệ An; 2/ tuyến Hồng Lĩnh/Can Lộc - Hương Sơn - Ngàn Phố - đèo Keo Nưa; 3/tuyến Kỳ Anh hoặc Quảng Trạch (Quảng Bình) đi Tuyên Hóa sang Thakhek (Lào). Hai tuyến sau từ bờ biển Đông đến bờ sông Mekong chỉ trên 100 km. Cứ tạm coi như là các đường này kế thừa từ những con đường cổ xưa. Ta thử khảo xem sự thật như thế nào. Đại Nam nhất thống chí ghi: về tỉnh Nghệ Tĩnh “phía Tây thông sang Ai Lao, phía Nam đến bể, ... Thượng du thì có các đồn Hà Trai, Hà Tân, Quy Hợp ngăn được bọn Man Lạo. Phòng giữ mặt bể thì có Cửa Hội, Cửa Sót, Cửa Nhượng”[5]. Cửa Sót là cửa Nam Giới thế kỷ X. Cửa Nhượng là cửa biển Cổ La - Kỳ La từ thế kỷ VII- XI. Sách này ghi: “cửa ải Quy Hợp ở phía Tây huyện Hương Khê 60 dặm (30 km), đầu đời Lê có đặt đồn ải. Triều ta (Nguyễn) để như trước. Sau đổi thành cửa Tấn, đặt quân canh phòng. Có đường thông với phủ Trấn Tĩnh”[6].
Tuyến đường xuyên lục địa: biên giới giữa Đường và Chân Lạp
Đây có thể là những dấu hiệu cho thấy một mô hình trao đổi thượng hạ nguồn ở vùng Thanh Nghệ. Như K.R. Hall đã rất tinh ý khi cho rằng, các cảng vùng Nghệ - Tĩnh là nối liền tuyến buôn bán “xuyên lục địa” thông qua vùng Nam Lào và Chân Lạp. Từ thế kỷ X, thương nhân từ Nghệ An, đã qua ải Hà Trại ở dãy Khai Trướng (Khai Môn, cửa khẩu Cầu Treo?) theo đường sông Mekong xuống Băn Thăt để đi vào kinh đô Angkor của Chân Lạp.[7] Nhưng với các sử liệu thời Đường, ta đang có một hình dung sớm hơn về con đường “trầm hương” (香道) thượng hạ nguồn. Khi đó, Đại Đường đã đặt các thương cảng Diễn - Hoan - Phúc Lộc vào mút cuối quan trọng của đế chế thương mại ở phương Nam, và khi bị chặn lại bởi Hoành Sơn, cùng một Lâm Ấp chấn giữ kín bờ biển, có thể nhà Đường đã tìm đường lên nguồn tìm lối ra Mekong để xuôi xuống Angkor. Tìm hệ thống bản đồ về thời Đường, ta thấy chính ở chỗ Đường Lâm - Phúc Lộc này, bản đồ đế chế phình ra, trải từ bờ biển Phúc Lộc cho đến bờ sông Mekong. Ai cũng có thể nghĩ đến Đường Lâm - Phúc Lộc - Hoan Châu ở đây đang chiếm vai trò như một mắt xích tiền tiêu trong hệ thống thương mại liên bang quốc, nối liền các bờ biển của nhà Đường ở Giao Châu với hệ thống thương cảng duyên hải khắp nơi ở Đông Á - Đông Nam Á, và trên đất liền từ Mekong đi xuống Angkor của đế chế Khmer hùng mạnh[8]. Điều này phù hợp với việc Tân Đường thư (1060) ghi rằng, nhà Đường có 7 lối lớn đi khắp nơi, trong đó An Nam chiếm 2 lối, một lối thông từ An Nam sang Thiên Trúc, một lối từ Quảng Châu đi sang các biển man di[9]. Sở dĩ Đường chỉ có lối này là đường bộ qua Tây Trúc vì khi đó, phía tây Đường bị cách bởi Thổ Phồn và Nam Chiếu. Lối đi này được mô tả kĩ hơn như sau: “từ Hoan Châu đi về phía Tây Nam mất 3 ngày, đi qua đỉnh Vụ Ôn/Vụ Thấp [núi Giăng Màn, núi Vũ Quang, cửa khẩu quốc tế Cầu Treo: 18o25’23’N 105o14’52E][10], lại đi 3 ngày nữa đến huyện Nhật Lạc [Ban Lakxao][11] của Đường Châu, lại đi qua sông La Luân [?, 18o05’13’N-105o02’33E][12] và núi Thạch Mật [?, 17o59’30’’N- 104o45’00’E] của động Cổ Lãng [thuộc Đường Châu][13], 3 ngày thì đến huyện Văn Dương của Đường Châu [Nakai, 17o33’41’N-105o08’49E][14]. Lại đi qua khe Ly Ly [?, 17o33’06’N - 105o09’03E]*[15], 4 ngày thì đến huyện Toán Đài [Thakhek][16] của nước Văn Đan, lại đi 3 ngày nữa đến ngoại thành Văn Đan [Kaeng Krabao], lại 1 ngày thì đến nội thành [Mukdahan - Savannakhet, vị trí: 16o31’52’N - 104o44’14’E][17], [nước ấy] có chỗ còn gọi là Lục Chân Lạp, phía Nam là Thủy Chân Lạp[18]. Lại phía Nam đến Tiểu Hải [Biển Hồ- Tonlesap], phía nam là nước La Việt, lại về nam nữa thì đến biển lớn”[19]. Từ Hoan Châu đến đô thành của Lục Chân Lạp là mất 17 ngày đường bộ[20].
Tượng Phật nhập niết bàn, núi Thạch Mật, vị trí: 17o58'36'N-105o01'32E. Nằm trên tuyến đường từ Hoan Châu đến Văn Đan. Ảnh: Sinica.
Tư liệu mới này cho thấy một châu mới trong bản đồ hành chính nhà Đường, chưa từng được biết đến. Đó là Đường Châu (棠州), nằm ở phía Tây và Tây Nam của Hoan Châu và Phúc Lộc Châu. Như sử liệu thì Đường Châu có 2 huyện trực thuộc là huyện Nhật Lạc và huyện Văn Dương, số lượng bằng châu Phúc Lộc. Có lẽ nhà Đường coi đây là châu Ki Mi. Cung đường mà từ Hoan Châu (Cửa Hội) đi Lục Chân Lạp là phải xuyên qua núi Khai Màn (đồn Quy Hợp), tức qua huyện Nhu Viễn châu Phúc Lộc, nếu đi từ Đường Lâm lên (từ thành phố Hà Tĩnh nay) thì đường đi chênh nhau 10-15 km. Nếu tính đơn giản, thì ranh giới của châu Phúc Lộc (đi từ sông Lạc, huyện Đường Lâm/thành phố Hà Tĩnh nay) qua Khai Màn (Hương Sơn) đến huyện Nhật Lạc của Đường Châu là mất khoảng 6 ngày đường. Sử liệu không nói là đi đến ranh giới Đường Châu hay là trung tâm huyện lị Nhật Lạc, ta có thể trừ đi một quãng thời gian/không gian còn khoảng 4,5 ngày đến 6 ngày đường. Nếu tính mỗi ngày đi được 15 km hoặc 20km (đường núi) thì ranh giới dao động trong khoảng 67.5 km - 90km, và 90km - 120 km. Trong khi đường đo trên không ảnh hiện tại, thì khoảng cách hơn 130 km[1], còn chiếu thẳng từ thành phố Hà Tĩnh sang đến bờ sông Mekong là 105 km đường chim bay.
Bản đồ mạng lưới thương mại đế chế Khmer, K. Hall (1985, p. 188).
(Ghi chú: Bổ sung thêm cứ liệu từ 3 tuyến giao thương thượng hạ nguồn tại Phúc Lộc - Hoan Châu - Đường Châu nối liền với dòng Mekong theo trục Đông - Tây, chiều dài đường 2 tuyến từ Đường Lâm dài khoảng 100 km, và tuyến Thị Nại qua thượng nguồn sông Côn sang bên Khmer)
Tuyến Vinh - Kỳ Sơn sang đến bờ Mekong hay Luang Phrabang đều dài trên 300 km.
Nguồn ảnh: https://satellites.pro/Laos_map#18.450952,104.545898,8, hạ tải ngày 30/07/2021. So sánh với hai tuyến từ Hà Tĩnh sang Lào ở dưới.
Điểm nóng giữa các đế chế: sự trỗi dậy của vùng Hoan - Ái
Sự tồn tại của Đường Châu cho thấy cụ thể hơn biên giới cực Nam của nhà Đường. Đây chắc chắn cũng đã là một điểm nóng, bởi chính chỗ này là giáp ranh giữa hai thế giới và hai mô hình nhà nước. Theo Đường thư, năm 706, Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp đã thành hình[1]. Năm 713, Mai Huyền Thành khởi nghĩa ở Hoan Châu, liên minh với Lâm Ấp, Chân Lạp đánh chiếm An Nam đô hộ phủ[2]. Năm 717 đã có một đoàn sứ bộ của Chân Lạp để giúp một thủ lĩnh bản xứ chống lại người nhà Đường[3]. Năm 722, quy mô có vẻ lớn hơn, lần này là một đội quân được gửi đến[4]. Toàn thư ghi tổng số lượng quân của họ Mai lên đến 300.000 người (sic)[5]. Sau đó quân nhà Đường là Dương Tư Húc đã đánh bại[6]. Năm 767, người Côn Lôn, Chà Và đến cướp châu thành, vào đến tận Chu Diên [đồng bằng sông Hồng], Kinh lược sứ Cao Chính Bình xin viện binh từ Cao Chính Bình châu Vũ Định mới đánh hạ được. Bắc sử nói chung thường gọi gộp người da đen nam đảo (gồm cả Chân Lạp, Java, etc) làm người Côn Lôn. Từ năm 767 đến năm 780 khi Giao Châu loạn lạc, Phùng Hưng và Phùng Hải - người ở Đường Lâm đã chuẩn bị lực lượng riêng, bằng cách buôn bán và liên minh với nhóm người khác Hán. Năm 791, Phùng Hưng馮興đánh đô hộ phủ, Cao Chính Bình chết.[7] Năm 819 có khởi nghĩa của Dương Thanh - ông này gia tộc tù trưởng man - mấy đời làm Thứ sử Hoan Châu. Khi đó Thanh làm nha tướng cho Lý Tượng Cổ, Cổ sai Thanh đi đánh Man Hoàng Động. Quân Đường đánh Dương Thanh chạy vào Man Lạo, sau đó viện binh Man Lạo lại quay ra đánh phủ thành. Phần lớn những những bất ổn chính trị đều đến từ phía Hoan Châu với sự hậu thuẫn của Chân Lạp, Chiêm Thành[8]. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan là một liên minh ba nhóm quyền lực để chống lại sự bành trướng của nhà Đường. Cho đến khi Dương Thanh đánh úp Tượng cổ thì cả Man Hoàng Động lẫn Hoàn Vương đều dẫn quân vào. Sử chép các sự kiện rời rạc, nhưng có lẽ đằng sau đó là một truyền thống liên minh của phương Nam chống lại sự càn lướt của người Hán. Những liên minh chính trị quân sự này vừa có thể hỗ trợ nhau về buôn bán, tài trợ kinh tế, nhưng cũng có khi sai quân lực đồn trú tham chiến. Và như nhiều cuộc chiến khác, Hoan Ái vẫn là vùng bàn đạp (có hậu phương) để các lực lượng bản địa tràn lấn khi người Hán yếu thế. Tình thế ấy đã trở thành hiện thực vào thế kỷ X, khi nhà Đường sụp đổ, các nhân vật Dương Đình Nghệ - Ngô Quyền - Đinh Công Trứ và Đinh Bộ Lĩnh đã tạo nên một thế kỷ bản lề cho tự chủ của mảnh đất phương Nam.
Nhiều người đến đây có lẽ vẫn chưa tin lắm vào sự hình thành của tuyến đường xuyên từ biển Hoan Nghệ sang đất Lào cách nay hơn 1.300 năm. Nhưng 6 tư liệu thời Đường Tống ghi chép về các sự kiện Đường Lâm liên tục vào các năm từ 663- 791 là những bằng chứng không thể ngó lơ. Thêm nữa, tư liệu bi ký tại Phum Mien năm 987, xác nhận trong thế kỷ X, người Việt đã có những nỗ lực duy trì con đường thượng đạo này[9]. Tôi ngờ rằng, khi đó, bản đồ của Đại Cồ Việt không thể tràn sang đến tận bờ Mekong, mà có lẽ đã hẹp hơn trước. Không ai có thể chứng minh những ranh giới luôn biến động trong lịch sử. Nhưng dù những cột mốc bị xô đổ khi đế chế tàn lụi, thì những dòng người vẫn tiếp nối những tuyến cổ đạo phục vụ cho buôn bán, và đôi khi cả chiến tranh, cướp bóc. Đầu năm 1128, khi vua Lý Nhân Tông vừa băng hà, 20.000 người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An[10], tức bến Tam Soa (nơi hợp lưu của sông Ngàn Phố và Ngàn Sâu đổ vào sông La, sông La xuôi 7- 8km rồi hợp lưu vào sông Lam ngay ở Phù Thạch - cảng bến lớn nhất của Nghệ An trong lịch sử). Triều đình phải sai Nhập nội Thái phó Lý Công Bình đem quân đánh dẹp, một tháng sau mới chém được tướng giặc[11]. Tháng 8 năm 1128, người Chân Lạp vào cướp hương Đỗ Gia ở châu Nghệ An, có đến hơn 700 chiếc thuyền. Năm 1137, Phá Tô Lặc người Chân Lạp lại cướp châu [ở vùng Hà Trại][12], Lý Công Bình lại đi đánh dẹp.[13] Năm 1335, Thượng hoàng Trần Minh Tông đem sáu quân tuần thú Ai Lao, thế tử các nước Chiêm Thành, Chân Lạp, nước Xiêm La cùng các thổ tù Đạo Khuông, Quỳ Cầm, Xa Lặc, các man tù ở Bôi Bồn là Đạo Thanh, Xa Man cùng đến hành tại yết kiến. Chỉ có Vông Chấp Tóc sợ tội nên trốn[14]. Năm 1479, vua Lê Thánh Tông trong bài chiếu đánh Ai Lao có ghi: “Thuận Bình, Sa Bôi do vậy rối ren; Lâm An, Quy Hợp bị chúng giày xéo.” Quy Hợp là đồn ở Hương Sơn (Hà Tĩnh), lối Đông Tây thứ hai đã nêu ở trên. Như vậy, ít nhất từ thế kỷ XV về trước, các con đường cổ từ biển vào đến đất Lào vẫn thường được sử dụng. Bình thường, có thể đó là con đường được sử dụng cho hoạt động buôn bán (muối, thực phẩm, hương liệu,...), khi cần có thể phục vụ việc ngoại giao: Ai Lao thường vào chầu cống Đại Việt qua ải Quy Hợp [15]. Đặc biệt, các con đường Đông Tây này có vị trí địa quân sự, có vai trò rất lớn trong việc phòng thủ hoặc tấn công. Điều này làm ta hiểu rõ hơn về vai trò của Đường Lâm - Phúc Lộc trong lịch sử Giao Châu thời nhà Đường. Và những nhân vật lịch sử Phùng Hưng, Dương Thanh, cho đến Ngô Quyền, Đinh Công Trứ, Đinh Bộ Lĩnh,... cũng từ đất này mà làm nên lịch sử.
Đường Lâm châu và Đường Châu trong lộ trình 17 ngày đi từ Hoan Châu
đến kinh đô Văn Đan quốc (Chân Lạp). Tái lập: Trần Trọng Dương, 2021. Bản đồ: AS.
Tiểu kết
Như vậy, đến đây, tôi đãhoàn thiện thêmcông việc của hơn 10 năm trước: đi tìm Đường Lâm là Đường Lâm nào. Khi dò dẫm trong khu rừng sử liệu, rối trí vì hàng trăm ngàn chi tiết, và đôi khi bị lạc đường,hoặc đúng hướng nhưng đi chưa tới hết cung đường.Chúng tôi từng cho rằng Đường Lâm ở nam Thanh Hóa bắc Nghệ An. Nhưng với cách giải đọc sử liệu mới này, tôi củng cố thêmquan điểmấy, rằng: Đường Lâm (“đất hai vua” vào thời Đường) không phải ở Phúc Thọ (Sơn Tây, Hà Nội nay). Có thể xác định chính xác hơn, huyện Đường Lâm của châu Phúc Lộc thời Đường có thể nằm ở tỉnh Hà Tĩnh (tương ứng với huyện Can Lộc, thành phố Hà Tĩnh, huyện Cẩm Xuyên, huyện Kỳ Anh ngày nay), đúng như GS Đào Duy Anh nhận định.Và huyện Nhu Viễn của châu Phúc Lộc (châu Đường Lâm), tương ứng với các huyện miền núi phía Tây Bắc tỉnh Hà Tĩnh gồm: Hương Khê - Vũ Quang - Hương Sơn và một phần phía Tây của Lào. Bài này quan trọng hơn, đã tái lập một tuyến đường Đông Tây từ biển Đông đến Mekong, băng qua những rặng núi, để hòa nhập vào mạng lưới tra đổi khu vực. Nó bổ sung một mảng sử quan trọng cho lịch sử chính trị cũng như lịch sử kinh tế- văn hóa Đông Nam Á lục địa mà Kenneth Hall, Nguyễn Văn Kim, Trần Kỳ Phương[1], đã từng vạch ra.
Cuối cùng, với vị trí địa quân sự - địa kinh tế - địa văn hóa, vùng Đường Lâm (Phúc Lộc châu), rộng hơn là Hoan Châu - Ái Châu, đã trở thành điểm nóng của khu vực, là nơi va đập quyền lực giữa các đế chế (Đường - Chân Lạp - Hoàn Vương - Nam Chiếu), là nơi chà đi xát lại của các tập đoàn người (Hoa Hán từ Bắc, Champa từ phía Nam, Tày Thái từ phía Tây và Tây Bắc, Khmer từ phía Tây Nam,...). Từ vị trí “thập diện mai phục”, người Hoan Ái đã có một cuộc trỗi dậy liên tục trong nhiều thế kỷ. Vừa buôn bán với kẻ thù, vừa chiến đấu với đồng minh, vừa tự cường bằng năng lực vốn có, vừa mượn thế và lực của văn minh nhà Đường, vừa đà đao theo sự trỗi dậy của Hoàn Vương - Chân Lạp, những thủ lĩnh hào trưởng Hoan Ái (họ Phùng - họ Dương - họ Ngô - họ Lê - họ Đinh... ) đã tạo nên những xung lực mạnh mẽ để thoát khỏi sự kìm kẹp của các đế chế, và tạo nên sự độc lập của mảnh đất phương Nam. Từ những chiến thắng trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền cho đến công cuộc phạt Bắc bình Chiêm của Lê Hoàn, một bang quốc đã dần hình thành với mô hình nhà nước Nho giáo thực thụ mang tên Đại Cồ Việt, để sau đó Đại Việt nhà Lý nhà Trần trỗi dậy trở thành một cường quốc của khu vực, làm nền tảng cho giai đoạn ngàn năm độc lập tự chủ.
T.T.D.
Mùa Covid, hè 2021
Thượng nguồn Nhuệ Giang, Từ Liêm cố huyện.
* PGS-TS, Viện Nghiên cứu Hán Nôm
[1]Xem thêm mạng lưới giao lưu kinh tế, và văn hóa bằng đường bộ trong vùng Đông Nam Á lục địa của Trần Kỳ Phương, “Thung lũng An Khê: một “không gian thiêng” của Vương quốc Chiêm Thành vào thế kỷ XV”, Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (153), 2019, trang 74-85.
[1] Nguyên văn: “自神龍以後,真臘分為二:半以南近海多陂澤處,謂之水真臘;半以北多山阜,謂之陸真臘,亦謂之文單國。” [Lưu Hú劉昫, 945, Cựu Đường thư<舊唐書>, 底本:清懼盈齋刻本,楊家駱主編, 台北:鼎文,1979]. Nhưng theo quan điểm của L. Kelley, việc phân chia này là từ góc nhìn của người Đường về phương nam, chứ Chân Lạp vẫn nhất thể và tồn tại song song với Tam Phật Tề với kinh đô Angkor.
[2] Vấn đề này có nhiều tư liệu ghi khác nhau, đặc biệt là còn đang tranh cãi về thời gian. Tôi nghiêng về giả thuyết của Phan Huy Lê cho rằng thời gian của khởi nghĩa Mai Thúc Loan từ năm 713 đến năm 722 thì thất bại. Bắc sử thì đẩy gọn thành 1 sự kiện trong năm 713, trong khi Toàn thư lại ghi gọn vào 1 năm 722. “開元初,安南首領梅玄成叛,自稱「黑帝」,與林邑、真臘國通謀,陷安南府,詔思勗將兵討之。” [Lưu Hú劉昫, 945, Cựu Đường thư<舊唐書>, 底本:清懼盈齋刻本,楊家駱主編, 台北:鼎文,1979, trang 4756]. Xem bài, Phạm Lê Huy, 2013, “Một số vấn đề về phương pháp luận sử học và vấn đề thời điểm bùng nổ của khởi nghĩa Mai Thúc Loan”, Nghiên cứu Lịch sử, số 4/2013.]
[3] P. Pelliot, (Année 1904). “Deux itinéraires de Chine en Inde à la fin du VIIIe siècle”. BEFEO, Vol.4, pp. 131-413, trang 212.
[4] Henri Maspéro, “La Frontière de l’Annam et du Cambodge du VIIIe au XIVe siècle”, BEFEO 18, 3 (1918), p.29.
[5] Đây là con số thổi phồng của Đường thư, có lẽ để ghi chiến công của người đã dẹp loạn. Kể cả 30.000 cũng là một con số cực lớn vào thời đó, khi Giao Châu (đồng bằng sông Hồng) có dân số chỉ khoảng 70.000 dân.
[6] Nguyên văn: “壬戌唐玄宗隆基開元十年賊帥梅叔鸞㨿州稱黑帝外結林邑真臘人等眾號三十萬唐帝遣内侍左監門衛將軍楊思朂都護元楚客討平之” [Toàn thư 1998, trang 190]. Đọc thêm hệ thống sử liệu về Mai Thúc Loan: Phan Huy Lê, Di sản văn hóa Việt Nam góc nhìn lịch sử, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội, trang 760- 801.
[7] Geng Hui Ling耿慧玲,《越南史論——金石資料之歷史文化比較》台北:新文豐出版公司,2004年,649頁
[8]Toàn thư 1998, trang 192. Về khởi nghĩa Dương Thanh đọc thêm [Phạm Lê Huy, Khảo cứu khởi nghĩa Dương Thanh (819-820) qua nguồn tư liệu mộ chí thời Đường, Đề tài cấp cơ sở, USSH, Hà Nội, 2014].
[9] Henri Maspéro, “La Frontière de l’Annam et du Cambodge du VIIIe au XIVe siècle”, BEFEO 18, 3 (1918), p.447; Coedès, George, Inscription du Cambodge 6 (Hanoi-Paris, 1942–66), pp. 183–86. Kenneth R. Hall: Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia, University of Hawaii Press, Honolulu, 1985, p.188.
[10] Maspéro (1918, 33) cho rằng Ba Đầu bộ là Phố giang trên địa bàn của huyện Hương Sơn.
[11] Nguyên văn: “甲寅真臘二萬餘人入㓂乂安州波頭步詔入内太傅李公平将官職都及乂安州人討之. 二月,... 癸亥李公平敗真臘人于波頭步擒其主將及士卒” [Toàn thư 1998, sđd, trang 299]. Toàn thư ghi: "波頭步" (ba đầu bộ) là sai về ngữ văn, phải là "Ba Đầu bộ đầu", vì “bộ đầu” là “bến”, tức là bến Ngã Ba. Bến đó nay gọi là bến Tam Soa. Từ bến Tam Soa xuôi xuống phố chợ lớn nhất của Nghệ là Phù Thạch chỉ có 5-6 km, từ Phù Thạch xuôi về Vinh chỉ 6 km nữa. Chắc Chân Lạp đánh cướp dọc cả dọc cửa biển và thành trì, nhưng sử chỉ ghi 1 chỗ.
[12] Maspéro (1918) cho rằng Chân Lạp theo đường đèo Mụ Giạ vào Hà Trại. Mụ Giạ là đèo ở huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình.
[13]Nguyên văn: “丁巳五年[宋紹興一年]春正月乂安州驛奏真臘将破蘇棱㓂本州詔太尉李公平将兵擊之... 公平敗真臘人” [Toàn thư 1998, sđd, trang 309]
[14] Nguyễn Trung Ngạn, 1335, Ma nhai kỷ công văn, bia trên sườn núi Thành Nam, thôn Trầm Hương, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, Thác bản: 13494 tại Viện NC Hán Nôm [Thích Đức Thiện - Đinh Khắc Thuân, Văn bia thời Trần, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, tr.123]. Toàn thư thì lại ghi trái ngược: “năm 1335, Đoàn Nhữ Hài đem quân nhà Trần đi đánh Ai Lao vì họ xâm lấn đất Nam Nhung là thuộc ấp của Nghệ An. Trận chiến diễn ra ở sông lớn Tiết La, định bụng thắng xong xuôi dòng đi qua Chân Lạp giễu võ dương oai. Nhưng kết cục đại bại, Hài chết cùng nửa số quân. [Toàn thư 1998 T2, trang 123]. Nay theo văn bia là tài liệu nguyên cấp. Ngờ rằng đoạn về Nhữ Hài là do sử gia đời sau chép nhầm từ một niên điểm trước hoặc sau sự kiện này.
[15] Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nxb. Khoa học Xãhội, H., 1993, tr.65.
[1] Đo tương đối trên bản đồ được hơn 120 km, đường núi ngoằn ngoèo lên xuống có thể tính xa lên thành 130 hoặc hơn nữa. Nhưng khoảng cách thì không sai dịch là bao nhiêu.
[1] Nhạc Sử 樂史, 983, Thái Bình hoàn vũ ký<太平寰宇記> , Bản nền: Tứ Khố toàn thư, Văn Uyên Các,q.171, trang 6b.
[2] Đào Duy Anh, 2017, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Khoa học Xãhội, Hà Nội, trang 171.
[3] Con số 7000 bộ lạc là rất lớn, e là có nhầm lẫn. Giả thuyết 1: có bản ghi là 7000 hộ. Kể cả khi 7000 hộ cũng là con số khá lớn, so sánh cùng thời thì Phong Châu: 5.444 hộ, 6.435 khẩu. Giả thuyết 2: “thất thiên” có thể nhầm từ “thất thập” (70 bộ lạc/hoặc thôn xóm của toàn bộ vùng bắc Chân Lạp (trung lưu Lào). Dẫu sao cả 2 số này đều hơi lớn. Nếu 70 lạc nghĩa là 70 thôn lạc/ thôn xóm, thì có lẽ phù hợp hơn chăng? Giả thuyết cuối: con số 7000 bộ lạc là tính tất cả dân số của cả Đường Lâm- Lộc Châu và phần bên đất Lào.
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn, 1882, Đại Nam nhất thống chí, 2012, sđd, trang 709.
[5] Đại Nam nhất thống chí, 2012, sđd, trang 710.
[6] Đại Nam nhất thống chí, 2012, sđd, trang 733.
[7] Nguyên văn: “Vietnamese traders such as the Yvan of KaṃvaṅTadiṅ mentioned in a PhumMīen inscription (987) likely used a Mekong River route to enter Cambodia, coming from Nghê-an through the Ha-trai pass and down the Mekong.” [Kenneth R. Hall: Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia, University of Hawaii Press, Honolulu, 1985, p.188; Nguyễn Văn Kim. 2013. Các thương cảng vùng Nghệ - Tĩnh và giao thương khu vực thếkỉ XI-XIV, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12 (440), 2012, tr.1-18 & số 1 (441), 2013, tr.16-25.]
[8] Christopher Goscha, Vietnam, a New History, New York, Basic Books, 2016, p.111-112.
[9]“其入四夷之路與關戍走集最要者七:一曰營州入安東道,二曰登州海行入高麗渤海道,三曰夏州塞外通大同雲中道,四曰中受降城入回鶻道,五曰安西入西域道,六曰安南通天竺道,七曰廣州通海夷道。” [Âu Dương Tu 歐陽修và Tống Kì 宋祁, 1060, Tân Đường thư<新唐書>, 底本:北宋嘉祐十四行本, 楊家駱主編, 台北:鼎文, 1979, trang1146].
[10] Đỉnh Vụ Ôn:Yan (2009, tr.970) quy đổi núi núi mang tên của Lào: Keo Neua, E105o10’-N18o23’.
[11] Huyện Nhật Lạc [Ban Lakxao]:Yan (2009, tr.970) không quy đổi được địa danh này. Về cơ bản, Yan cho rằng thủ đô của Văn Đan là Viên Chăn. Nhưng Viên Chăn thành lập muộn hơn rất nhiều so với thời điểm thế kỷ VII-VIII.
[12] Sông La Luân: Yan (2009, tr.970) quy đổi là sông Nam Cading. Tôi cắm trên bản đồ là vị trí 18o13’53’’N 104o39’39’’E. Tức là ông theo đường đi hơi chếch tây bắc. Ban đầu tôi cũng hơi lạc theo hướng này (vì nó là hướng ra sông Mekong gần nhất). Hướng Tây Bắc này sang thủ đô Vientiane là gần. Có thể giai đoạn từ thế kỷ XV về sau được dùng làm đường triều cống của Ai Lao.Nhưng đây không phải là hướng chếch Tây Nam như sử liệu ghi để đi về Chân Lạp.
[13] Núi Thạch Mật của động Cổ Lãng: Yan (2009, tr.970) không quy đổi hai địa danh này. Núi Thạch Mật chưa rõ tên, nhưng xác định trên bản đồ thì đây là một dãy núi chạy song song với dãy Giăng Màn và biên giới Việt Lào, hai rặng núi này kẹp giữa là một đồng bằng rộng có sông Cổ Luân. Vùng đồng bằng này có lẽ là động Cổ Lãng tương ứng với trung tâm của tỉnh Bolikhamxai của Lào.
[14] Huyện Văn Dương của Đường Châu: Yan (2009, tr.970) không quy đổi địa danh này.
[15] Khe Ly Ly: Yan (2009, tr.970) không quy đổi địa danh này.
[16] Huyện Toán Đài của nước Văn Đan: Yan (2009, tr.970) không quy đổi địa danh này. Thực ra đến Muang Khamouan mới là đến sông Mekong. Yan
[17] Kinh thành Văn Đan: được quy đổi thành Mukdahan bờ phải của Mekong thuộc Thái Lan và bờ trái là Savannakhet của Lào. Mukdahan (sử triều Nguyễn phiến là Mục Đa Hán) là một thành phố cổ, có di chỉ khảo cổ học, đây có lẽ là một điểm gút quan trọng của lịch sử, khi nó chiếm diện tích cả hai bên bờ sông, để kiểm soát dòng người và hàng hóa ở cả 2 tuyến đò dọc và đò ngang. Hiện cây cầu Hữu Nghị Thái - Lào đã nối đôi bờ, và đồng thời giữ chức năng cửa khẩu giao thông quan trọng giữa hai nước. Đây cũng là con đường ngắn nhất từ Quảng Trị đi Thái Lan. Cảm ơn chú Nguyễn Bá Dũng về đề xuất về Mukdahan - thành phố đôi bờ”, và Vũ Đức Liêm đã giúp đỡ tư liệu. Về lịch sử văn hóa của Mundahan xem [Wichian Intasi, 2013, “Mukdahan - Suvannakhet Sister Cities: the Studies of Cultural Factors that Affect the Appropriateness of the Sister City relationship-building Policy between Border Towns in the Mekong sub-Region”, The International Journal of East Asian Studies, Vol.17, No.2, p.50-66]
[18] Tính trung bình mỗi ngày đi được 30km, đi mất 17 ngày, tổng lộ trình là trên 500 km. Lưu ý, nói kinh đô của nước Văn Đan hay Thủy Chân Lạp (sic?) có thể chỉ là một tiểu quốc trong đế chế Khmer theo mô hình mandala. Nếu Đường thư chép đúng thì kinh đô của Văn Đan nằm ở trên địa bàn của Savanakhet (có chiều dài từ 86-150 km tính từ Thakhek).
[19]Nguyên văn: (自驩州西南三日行,度霧溫嶺,又二日行至棠州日落縣,又經羅倫江及古朗洞之石蜜山,三日行至棠州文陽縣。又經漦漦澗,四日行至文單國之算臺縣,又三日行至文單外城,又一日行至內城,一曰陸真臘,其南水真臘。又南至小海,其南羅越國,又南至大海。)[Âu Dương Tu 歐陽修và Tống Kì 宋祁, 1060, Tân Đường thư<新唐書>, 底本:北宋嘉祐十四行本, 楊家駱主編, 台北:鼎文, 1979, trang1153-1154.]
tin tức liên quan
Videos
Người Amish ở Mỹ
Quê hương Nghệ Tĩnh trong lòng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp
Đền Hồng Sơn
Khu di tích Kim Liên hành trình đến với trẻ em miền núi
Các di sản văn hóa về Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Thừa Thiên Huế
Thống kê truy cập
114511033
232
2359
21407
217906
121356
114511033