Người xứ Nghệ

Phan Đăng Lưu - Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, nhà báo cách mạng ưu tú

 

Phan Đăng  Lưu (1902-1941)

Phan Đăng Lưu sinh ngày 05/5/1902 (1) tại xã Tràng Thành (nay là xã Hoa Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng. Cha ông là cụ Phan Đăng Dư, một nhà nho yêu nước, từng tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp do cử nhân Chu Trạc, người cùng làng cầm đầu. Mẹ là bà Trần Thị Liễu, một phụ nữ rất mực thương con và biết hướng tình cảm của con vào những việc ích nước lợi nhà. Bà Liễu là con gái cụ Trần Danh Tiêu - từng đỗ cử nhân nhưng từ chối làm quan và hăng hái hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhã ở Yên Thành - Diễn Châu. Thuở nhỏ, Phan Đăng Lưu có tiếng học giỏi, thông minh, khi mới 16 tuổi, ông đã tham dự kỳ thi Hương, dù phải khai tăng thêm 2 tuổi để được đi thi (1918). Tư chất đó cùng với ảnh hưởng của truyền thống gia đình, Phan Đăng Lưu sớm đến với tư tưởng yêu nước, tiến bộ và quyết chí dấn thân cho sự nghiệp cách mạng.

Nhà lưu niệm đồng chí Phan Đăng Lưu, huyện Yên Thành. Ảnh  Mạnh Hà

Khi học hết năm đầu bậc trung học tại Trường Quốc học Huế, với ý muốn sau này giúp ích cho nước nhà một cách thiết thực, Phan Đăng Lưu thi vào Trường Canh nông thực hành ở Tuyên Quang. Sau khi tốt nghiệp hạng ưu năm 1923, ông được bổ vào ngạch Thông phán, làm nhân viên tại Sở Canh nông Bắc Kỳ. Cuối năm 1925, ông được điều về Sở Canh nông Nghệ An tại Vinh.

Là một thanh niên có tư tưởng chống thực dân Pháp và bọn vua quan bán nước, Phan Đăng Lưu nhanh chóng bắt liên lạc với một số thành viên Hội Phục Việt và tích cực tham gia các hoạt động yêu nước ở Vinh. Ông thường xuyên bàn luận thời cuộc với những người yêu nước, tìm đọc và phổ biến sách báo tiến bộ.

Cuối năm 1925, ông ký tên vào bản yêu sách đòi chính quyền thực dân Pháp trả lại tự do cho chí sĩ Phan Bội Châu. Vì thế, tháng 3 năm 1926, chính quyền thực dân đã điều ông về Diễn Châu để tách ông ra khỏi các ảnh hưởng của phong trào cách mạng tại Vinh. Không lâu sau, ông lại bị điều vào Bình Định rồi Đồng Nai Thượng (nay thuộc Lâm Đồng). Dù ở đâu, ông vẫn bộc lộ quan điểm chống chính quyền thực dân Pháp. Do đó, giữa năm 1927, ông bị thải hồi vì “thường xuyên chống đối và có hành động vô kỷ luật liên tiếp đối với người Pháp”.

Trở về quê nhà Nghệ An, ông tiếp tục hoạt động cho Hội Phục Việt. Tháng 2 năm 1928, ông được kết nạp vào Hội Phục Việt, lúc này được đổi tên là Hội Hưng Nam, cùng thầy giáo Trần Văn Tăng xây dựng cơ sở Hội ở Yên Thành. Thời gian sau, ông được Tổng bộ cử vào Huế phụ trách “Quan Hải Tùng Thư”, cơ quan xuất bản sách báo tiến bộ của Hội Hưng Nam.

Ngày 14 tháng 7 năm 1928, Hội Hưng Nam đổi tên là Tân Việt Cách mạng Đảng. Ông được bầu làm Ủy viên Thường vụ Tổng bộ phụ trách Tuyên huấn. Trong vai trò này, với kiến thức Hán học và vốn tiếng Pháp tinh tế, ông cùng với Đào Duy Anh và một số đồng chí khác dịch, hiệu đính, biên soạn nhiều tài liệu quý cho “Quan Hải Tùng Thư” như: “A.B.C Chủ nghĩa Mác”, “Dân chủ mới”, “Xã hội luận”, “Lược sử các học thuyết kinh tế”, “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”… Các cuốn sách, bài báo của Phan Đăng Lưu, Đào Duy Anh và các tác giả ở Quan Hải Tùng Thư góp phần thức tỉnh nhiều thanh niên, học sinh yêu nước. Từ họ, tư tưởng tiến bộ, cách mạng lan tỏa, thấm dần vào các tầng lớp Nhân dân.

Ngày 12 tháng 12 năm 1928, ông cùng Hà Huy Tập được Tổng bộ Tân Việt cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) để tìm hiểu thái độ của Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội về vấn đề hợp nhất tổ chức này với Tân Việt Cách mạng Đảng. Bị Chính phủ Tưởng Giới Thạch khủng bố, Tổng bộ Thanh niên ở Quảng Châu đã rút vào hoạt động bí mật. Sau 5 tháng không bắt được liên lạc, tháng 5 năm 1929, ông trở về nước. Chưa yên tâm với nhiệm vụ của mình, tháng 9 năm 1929, ông lại bí mật đi Hải Phòng để sang Quảng Châu lần thứ hai nhằm bàn tiếp việc hợp nhất hai tổ chức. Vừa tới Hải Phòng, ông bị mật thám Pháp bắt và đưa về Nhà lao Vinh. Mặc dù bị tra tấn dã man, ông vẫn không hề khuất phục. Ngày 21 tháng 01 năm 1930(2), ông cùng 60 đảng viên Đảng Tân Việt bị tòa án Nam triều ở Vinh đưa ra xử. Phan Đăng Lưu bị kết án 7 năm tù khổ sai, đày đi Buôn Ma Thuột, đây là mức án cao nhất dành cho những người lãnh đạo Đảng Tân Việt. Ở trong tù, ông tích cực hoạt động, vận động anh em học tiếng Ê-đê và bí mật ra tờ báo tường, lấy tên là “Doãn - Đê tuần báo”(3) sau đổitên là Bôn - sê - vích, nhằm mục đích tuyên truyền, giáo dục anh em tù đoàn kết, giữ vững tinh thần cách mạng. Phan Đăng Lưu là một trong những người đóng góp nhiều công sức để xây dựng tờ báo đó. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Phan Đăng Lưu được kết nạp Đảng ở trong tù và tham gia ban lãnh đạo những người cộng sản ở trong tù.

Năm 1933, nhân một số đảng viên người Nghệ Tĩnh được tha, Phan Đăng Lưu gửi về quê một bài báo tố cáo chế độ tàn bạo của thực dân Pháp ở nhà tù Buôn Ma Thuột. Việc bị lộ, ông đã bị tăng án lên 5 năm tù khổ sai, cấm cố tại xà lim, bị liệt vào “loại nguy hiểm”.

Giữa năm 1936, phong trào đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ và đòi thả tù chính trị dấy lên trên đất Pháp và cả Đông Dương. Thực dân Pháp ở Đông Dương buộc phải thả một số tù chính trị. Phan Đăng Lưu được ra tù nhưng vẫn bị quản thúc ở Huế.

Tại Huế, ông lại tiếp tục hoạt động cách mạng và đã có những đóng góp xuất sắc vào các cuộc vận động hợp pháp và nửa hợp pháp ở Trung Kì như lãnh đạo Phong trào Đông Dương Đại hội (1936); Lãnh đạo cuộc “đón tiếp” Gôđa - người cầm đầu phái bộ của Chính phủ Pháp sang Đông Dương điều tra tình hình (1937); Chỉ đạo đấu tranh và vận động tranh cử đưa người của Đảng vào Viện Dân biểu Trung Kỳ (1937); Tổ chức Hội nghị báo giới Trung Kỳ…

Phan Đăng Lưu và các đồng chí khác mua lại tờ Sông Hương của Phan Khôi, đổi tên thành Sông Hương tục bản. Ông chỉ đạo nội dung và trực tiếp viết các bài xã luận, bình luận, tiểu phẩm. Trên tờ báo mới này, Phan Đăng Lưu và các đồng chí của ông trình bày quan điểm của Đảng; phát động quần chúng đấu tranh đòi dân chủ, tự do; tuyên truyền cho cuộc vận động Đông Dương Đại hội Trung Kỳ; giải thích cho Nhân dân biết về quyền bầu cử, ứng cử. Báo thể hiện tính giai cấp, tính chiến đấu rất sâu sắc. Với bút danh Nghị Toét trong mục “Chiếu điện”, Phan Đăng Lưu đã vạch mặt, chỉ tên bọn tay sai bán dân hại nước (đó là Bùi Huy Trứ, Nguyễn Quang Triệt, Cao Văn Chiểu…), dùng các âm mưu, thủ đoạn để lừa gạt cử tri. Sông Hương tục bản trên thực tế đã trở thành cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Trung Kỳ, ra được 14 số (từ 15 tháng 6 đến 14 tháng 10 năm 1937), sau đó bị chính quyền thực dân thu hồi giấy phép.

Cuối năm 1937, theo gợi ý của Phan Đăng Lưu, một số đại biểu vừa trúng cử Viện Dân biểu Trung Kỳ đã làm đơn xin xuất bản tờ báo lấy tên là “Dân”. Thực chất, đây vẫn là tờ báo của Xứ ủy Trung Kỳ do Phan Đăng Lưu trực tiếp chỉ đạo. Báo Dân kết hợp chặt chẽ với các đại biểu tiến bộ trong Viện Dân biểu và phong trào cách mạng của quần chúng, tạo nên sức mạnh to lớn chống sưu cao, thuế nặng, chống áp bức, bất công, đòi tự do ngôn luận, đặc biệt là đánh bại dự án Thuế thân và dự án Thuế điền thổ do khâm sứ Trung Kỳ đưa ra, làm rung chuyển bộ máy cai trị ở chính nơi đầu não của chúng. Trong thành công lớn lao ấy, Phan Đăng Lưu có những cống hiến hết sức quan trọng. Cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình, sắc sảo, các bài viết của ông thực sự là những tác phẩm báo chí giàu tính chiến đấu, tính giai cấp, tính văn hóa, tính Nhân dân.

Báo Dân không tồn tại được bao lâu do kẻ địch biết đó chỉ là sự thay đổi tên gọi của Sông Hương tục bản và đứng đằng sau tờ báo là Phan Đăng Lưu, là Xứ ủy Trung Kỳ (Báo ra được 17 số, từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1938). Cơ quan Xứ ủy và Phan Đăng Lưu tiếp tục cho ra tờ Dân Tiến. Theo tuyên ngôn của Báo: “Dân là dân, tiến là tiến tới. Dân tiến là dân tiến tới, dân cứ đi mãi. Dân có bị giết chết, bị tù, bị phạt, bị đói… dân vẫn cứ sống, vẫn cứ tới” (Dân Tiến, số 3, ngày 17/11/1938).

Để tránh sự kiểm duyệt gắt gao của Khâm sứ Trung Kỳ, Báo Dân Tiến được biên tập ở Huế, sau đó đưa vào Sài Gòn in ấn, phát hành ở Nam Kỳ. Báo Dân Tiến vẫn do Phan Đăng Lưu trực tiếp chỉ đạo, Huỳnh Văn Thanh làm Quản lý, Lưu Quý Kỳ làm Thư ký Tòa soạn. Dân Tiến lại bị nhà cầm quyền đóng cửa. Không chịu khuất phục, Phan Đăng Lưu cho ra tiếp tờ báo mang tên Dân Muốn, vẫn biên tập ở Huế, in và phát hành ở Sài Gòn.

Song song với hoạt động báo chí, Phan Đăng Lưu còn cho ra mắt bạn đọc nhiều sách lý luận chính trị, lý luận văn học như Thi văn các nhà chí sỹ Việt NamLịch sử học thuyết kinh tếXã hội luậnXã hội tư bảnThế giới cũ và thế giới mới… Đây là những tài liệu để giác ngộ, tuyên truyền chủ trương cách mạng và đặc biệt giới thiệu học thuyết kinh tế của C.Mác… Là người rất gần gũi với Phan Bội Châu, được coi là Thư ký của cụ Phan, Phan Đăng Lưu còn động viên, giúp việc để cụ Phan hoàn thành cuốn sách “Phan Bội Châu niên biểu”. Phan Đăng Lưu cũng là người có ảnh hưởng sâu sắc đến những người hoạt động cách mạng ở Nghệ Tĩnh và Huế lúc đó như: Trịnh Xuân An, Tôn Quang Phiệt, Trịnh Quang Xuân, Hà Thế Hanh hay lớp thanh niên yêu nước như: Tố Hữu, Trần Tống, Trần Quỳnh, Nguyễn Chí Thanh.

Tháng 9-1937, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng tại Hóc Môn, Bà Điểm, Gia Định, Phan Đăng Lưu được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1939, ông được điều động vào Nam Kỳ hoạt động và được Trung ương phân công phụ trách phong trào cách mạng các tỉnh Nam Kỳ. Cùng với Xứ ủy Nam Kỳ, ông đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của Nhân dân Nam Kỳ tiến lên một bước mới.

Sau ngày Pháp đầu hàng Đức, Phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, trước khí thế sôi sục cách mạng của quần chúng, tháng 7-1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp, đề ra chủ trương khởi nghĩa. Lấy tư cách đại diện Trung ương đến dự, với phân tích sâu sắc ông đã chỉ rõ những nguyên tắc khởi nghĩa và khuyên Xứ ủy hãy chờ xin chỉ thị của Trung ương. Sau đó, Phan Đăng Lưu ra Bắc dự Hội nghị Trung ương lần thứ 7. Ông được bầu làm Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng và trở thành một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó. Tại Hội nghị này, ông báo cáo, phân tích tình hình ở Nam Kỳ, cho rằng tình thế cách mạng chưa chín muồi, xin Trung ương cho hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Đề nghị của ông được chấp thuận. Ngay sau Hội nghị, ông quay trở lại miền Nam để hoãn khởi nghĩa nhưng đã bị mật thám Pháp bắt khi vừa mới đặt chân về Sài Gòn vào đêm 22/11/1940, chưa kịp truyền đạt chỉ thị của Trung ương về việc hoãn khởi nghĩa. Sáng hôm sau, 23/11/1941, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo kế hoạch của Xứ ủy Nam Kỳ. Thực dân Pháp đã dìm cuộc khởi nghĩa trong biển máu. Hàng vạn chiến sỹ và quần chúng cách mạng bị chém giết, tù đày. Ngày 03/3/1941, Pháp mở tòa án binh, Phan Đăng Lưu bị kết án tử hình và đem vào giam ở xà lim.

Trong những ngày còn lại của đời mình, Phan Đăng Lưu đã tìm mọi cách truyền đạt những chủ trương của Trung ương Đảng và những kinh nghiệm hoạt động cách mạng của mình cho những đồng chí cùng bị giam và khuyên mọi người hãy giữ vững tinh thần, tiếp tục chiến đấu.

Ngày 26/8/1941, Phan Đăng Lưu cùng các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần bị xử bắn tại trường bắn Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định. Trước họng súng quân thù, cùng với các đồng chí lãnh đạo Đảng ta, Phan Đăng Lưu đã tỏ rõ khí phách anh hùng của người cộng sản Việt Nam.

Tượng đài đồng chí Phan Đăng Lưu tại huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ảnh Mạnh Hà

 

Hơn 80 năm đã trôi qua từ ngày Phan Đăng Lưu ngã xuống, tên tuổi và sự nghiệp cách mạng của ông không chỉ sáng ngời trong sử sách mà còn gắn bó với nhiều địa phương trên đất nước ta. Hiện tên của ông được đặt cho nhiều trường học, đường phố, địa danh ở Việt Nam như: Hà Nội, Hạ Long, Hải Dương, Hải Phòng, Yên Bái, Ninh Bình, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định (Quy Nhơn), Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ, Kiên Giang và Phú Yên. Ông là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta, Nhân dân ta, một nhà báo cách mạng ưu tú, hết sức tiêu biểu trong thập niên ba mươi của thế kỷ hai mươi.

_______

Chú thích:

1. Theo tộc phả họ Phan Đăng, họ này có nguồn gốc là họ Mạc Đăng. Theo hồ sơ công chức của Sở Canh nông Bắc Kỳ, ông sinh ngày 02/01/1901.

2. Theo Bản án được Viện Cơ mật chuẩn y, tài liệu gốc bằng tiếng Pháp, có đóng dấu đỏ do Léon Thibaudeau ký, được lưu tại Kho Kiểm kê, bảo quản, Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh.

3. Tờ báo hàng tuần của người Kinh và người Ê-đê     

Tài liệu tham khảo:

1. Nghệ An, những tấm gương cộng sản. Tập 1. NXB Nghệ An, năm 1988

2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114443187

Hôm nay

278

Hôm qua

2305

Tuần này

21000

Tháng này

218361

Tháng qua

112676

Tất cả

114443187