So với họ và lấy họ làm chuẩn mực, không ít nhà phê bình phiền lòng chỉ ra ở những sáng tác của Dostoievski nhiều mặt khó chấp nhận, nhiều khuyết điểm khó giải thích. Cái chết đột ngột của Dostoievski với lễ tang rầm rộ tự phát làm chấn động kinh thành Peterburg - hàng vạn người đi theo sau linh cữu nhà văn, cả một nước Nga thu nhỏ với những khuôn mặt xã hội đối lập và đối kháng, từ đại diện hoàng gia đến những người cách mạng cực tả, từ giới tăng lữ chính thống đến lớp thanh niên, sinh viên vô thần, từ những đại trí thức đến những tiểu thương, tiểu chủ... - trong phút giây như làm lóe sáng ý nghĩa toàn dân tộc, toàn nhân loại của hiện tượng Dostoievski, song nhận chân đầy đủ ý nghĩa ấy, ý thức hết giá trị của cái tài sản tinh thần mà Dostoievski để lại còn là một quá trình dài lâu và rất quanh co khúc khuỷu.
Ba năm sau khi Dostoievski mất, Vladimir Soloviev, một triết gia và thi sĩ trẻ sớm nổi lên như sao sáng bậc nhất trên bầu trời tinh thần của nước Nga, cho in thành sách riêng Ba diễn từ tưởng niệm Dostoievski, khẳng định vai trò người đồng hành và người chỉ lối của Dostoievski trong hành trình của nhân loại châu Âu tìm đến vương quốc của cái tận thiện tận mĩ. Như thể đồng vọng lời tiên đoán ấy, một trí tuệ lớn khác người Pháp - E.M.Vogỹé đầu năm 1885 cho đăng ở Pháp một thiên tiểu luận dài dưới tiêu đề đập vào mắt người đọc : Dostoievski hay là tôn giáo của sự khổ đau; bài viết này sẽ trở thành một chương trong công trình rất nổi tiếng của tác giả này - Tiểu thuyết Nga, xuất hiện năm 1886 và mở đường cho cái mà có người sẽ gọi là “cuộc xâm lăng” của văn học Nga sang Tây Âu. Dè dặt hơn Soloviev và kiến giải sai lệch nhiều, Vogỹé dẫu sao vẫn nhận ra ở Dostoievski một thủ lĩnh tinh thần của dân tộc ông, vị thủ lĩnh này đã gửi tới thế giới phương Tây một thông điệp đầy ý tứ, không thể làm lơ bởi vì nó biến thành khả nghi quá nhiều giá trị mới lên ngôi trong nền văn minh châu Âu thời mới. Song những tiếng nói như Soloviev hay Vogỹé vẫn còn khá lẻ loi trong suốt thế kỉ XIX - thế kỉ còn tương đối bình ổn về mặt xã hội cũng như tinh thần con người và vì thế chưa mấy nhạy thính với những lo âu trăn trở, những dự báo và cảnh báo của Dostoievski.
Bước sang thế kỉ XX, tình hình thay đổi hẳn. Thế giới cứ như đột nhiên phát hiện ra Dostoievski. Hàng loạt danh nhân Nga và châu Âu, đại diện cho những trào lưu tư tưởng - nghệ thuật mới nảy sinh, đua nhau phát biểu về Dostoievski, ngưỡng mộ nhìn thấy ở ông một tiền khu vĩ đại, người đã nói lên một sự thật mới, sâu sắc và phức tạp hơn xưa rất nhiều, về thế giới và con người, đã diễn đạt một cảm thức mới về cuộc đời, gần gũi với cảm thức của những con người sống trong thời đại của những biến động xã hội long trời lở đất sẽ diễn ra như phản ứng dây chuyền khắp hành tinh. Làn sóng mê say Dostoievski lan tràn khắp châu Âu từ đầu thế kỉ này đã tỏ ra không phải là thứ mốt tinh thần. Nó lắng đọng thành tình yêu bền bỉ của các thế hệ độc giả nối tiếp nhau đối với một thiên tài đã quyết liệt và hơi quá sớm đi trước thời đại mình, thành những nỗ lực chuyển dịch tác phẩm Dostoievski sang hàng chục thứ tiếng, thành hàng trăm, hàng ngàn công trình nghiên cứu cuộc đời, nhân cách, sáng tác của Dostoievski, khám phá, kiến giải thế giới nghệ thuật và tư tưởng của ông. Cùng với vinh quang toàn cầu, Dostoievski mau chóng phát huy ảnh hưởng tác thành tới văn học thế giới, tới những khu vực tưởng chừng xa lạ lắm với văn hóa Nga và châu Âu - một Akutagawa ở Nhật Bản, một Lão Xá ở Trung Quốc và một Nam Cao ở Việt Nam đủ cho thấy quy mô và chiều sâu của ảnh hưởng ấy. Song không chỉ trong văn học nghệ thuật, mà còn trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống loài người trong thế kỉ này, người ta thấy sự hiện diện giàu hiệu ứng của Dostoievski: triết học, thần học, đạo đức học, tâm lí học, chính trị học, luật học... Nhưng có mặt năng nổ như thế trong cuộc sống của hậu thế, Dostoievski tất yếu phải chịu số phận chìm nổi của người trong cuộc, người tham chiến, người can dự cuộc đấu tranh dai dẳng một mất một còn giữa các thế lực đối kháng của thời đại này. Trong cuộc đấu tranh ấy, bị chi phối bởi những quy luật của nó, nhiều khi cái tinh anh mẫn tuệ, cái xán lạn muôn đời ở Dostoievski lại bị che khuất đi, còn cái hạn hẹp, cái nhất thời thì lại nổi lên hàng đầu, quy định thái độ tiếp thu hay chối bỏ, tán dương hay phỉ báng di sản của nhà văn này ở phe này hay phe kia, ở nước này hay nước kia, trước tiên ở ngay tổ quốc của ông. Thế nhưng, kinh qua mọi thăng trầm của lịch sử, nơi nào Dostoievski đã thu phục được tâm hồn bạn đọc, nơi ấy vẫn còn lại không suy suyển tình yêu đối với ông, ý thức về sự cần thiết rất dài lâu của ông cho cả loài người trên mọi nẻo đường tiến hóa của nó.
Trong văn học thế giới ngày nay, sau một thế kỉ phát triển phong phú và phức tạp chưa từng thấy, với rất nhiều tài năng lỗi lạc, nhiều trào lưu, trường phái cách tân táo bạo đối đầu và phủ định lẫn nhau, xem ra Dostoievski vẫn giữ vị trí đầu bảng, ít nhất trong địa hạt văn xuôi: sau Anh em nhà Karamazov rõ ràng chưa xuất hiện tác phẩm tiểu thuyết nào có thể đặt ngang hàng với nó. Điều đáng chú ý nữa là cùng với Dostoievski - nghệ sĩ, không tách rời nhưng cũng không hòa đồng đến cùng, nhà tư tưởng Dostoievski hình như cũng đương ngày càng phát huy ảnh hưởng. Dưới ánh sáng của cái bản tổng kết thời đại mà loài người, như một thực thể mới, không thể không làm trong cục diện thế giới mới và bước vào thiên niên kỉ mới, nhiều trang viết cũ của Dostoievski được đọc lại bằng con mắt mới. Người ta nhìn ra ở tư duy Dostoievski, ở những mối bận tâm, những tìm tòi và định hướng tinh thần của ông những chiều sâu nhân bản mới, những khía cạnh chân lí vĩnh hằng trước đây còn ẩn khuất. Nếu trong những thập kỉ trước, ý thức xã hội bị cuốn hút nhiều hơn bởi những lo âu vật vã, những chẩn đoán và dự đoán bi quan của Dostoievski, bởi cái phần phủ định trong sáng tác của ông, thì ngày nay, tâm thức con người ngày càng tỏ ra nhạy bén hơn với những gì ông khẳng định, với ánh sáng của lí tưởng và niềm tin nơi Dostoievski. Khối tài liệu vốn đã hết sức đồ sộ về Dostoievski cuối thế kỉ vừa kết thúc được bổ sung bằng một loạt công trình quan trọng xuất hiện ở nhiều nước khác nhau, đánh giá một cách am hiểu, công bằng và tri ân cống hiến của Dostoievski cho nghệ thuật văn chương và kho tàng tư tưởng của loài người.
Xem ra, vận mệnh nhà văn Nga này đương bước vào một thời kì mới, bớt sóng gió ồn ào, nhưng lại tỏa sáng sâu rộng và bền lâu hơn.
I
Sự ra đời của thiên tài bao giờ cũng là bí ẩn không tuân theo quy luật tư duy tư biện nào, lại càng không thể giải thích bằng những nguyên nhân ngoại giới. Trường hợp Dostoievski cũng thế: không có gì báo hiệu sự xuất hiện trong văn học Nga một ngòi bút khác thường như Dostoievski, cũng như ở trong gia đình bác sĩ trưởng bệnh viện tế bần Mikhail Andreevich Dostoievski chẳng ai có thể ngờ rằng người con trai thứ hai trong bảy người con của ông, sinh ngày 30 tháng Mười năm 1821 theo lịch Nga cũ tại Moskva, sẽ trở thành một trong những nhà văn lớn nhất của mọi dân tộc và mọi thời đại. Nếu cứ cố tìm gien di truyền, thì nhiều nhất chỉ có thể nói rằng người mẹ dịu hiền và chết sớm đã truyền cho Fiodor Dostoievski (và cả anh ông) lòng yêu văn chương, để sau này, đến lượt mình, Dostoievski đã “di truyền” cho con gái mình cái khiếu viết văn. Người con gái nối nghiệp nhưng không có được thiên tài của người cha ấy, Liubov Fiodorovna Dostoievskaia, mồ côi cha từ 11 tuổi, đã lưu danh hậu thế không bằng những sáng tác của mình (mặc dù bà viết và in khá nhiều) mà bằng cuốn hồi kí về người cha, mà trong đó thực hư hết sức lẫn lộn. Chẳng hạn, hoàn toàn hư cấu là cái “nòi giống Litva” của nhà đại văn hào Nga, trong khi như mọi tư liệu chứng nhận, ông nội Dostoievski đã sinh ra, lớn lên ở vùng nam Ucraina và là một linh mục của nhà thờ chính thống Nga. Người con gái của Dostoievski cũng cường điệu và thêu dệt nhiều xung quanh quan hệ phức tạp giữa Dostoievski và cha ông. Một phần dựa vào đấy mà sau này Freud đã dựng lên huyền thuyết về “mặc cảm sát phụ” ở Dostoievski, góp phần bóp méo hình ảnh của Dostoievski trong con mắt độc giả phương Tây cả tin. Chỉ những khảo cứu tận tường trong những thập kỉ gần đây mới cho phép xác lập bức tranh chân thật về tuổi thơ ấu của Dostoievski - nó không thiếu hơi ấm và ánh sáng của tình yêu, của sự chăm sóc từ cả hai phía cha mẹ. Điều quan trọng là Dostoievski được hưởng một nền giáo dục có hệ thống, được học hành đến nơi đến chốn. Về mặt học thức, Dostoievski sau này vượt hẳn nhiều nhà văn Nga nổi tiếng cùng thời với ông, và nếu trong sáng tác, ông thỉnh thoảng đề cập đến những vấn đề khoa học hiện đại, chẳng hạn hình học phi Euclide của Gauss và Lobatchevski, thì là vì ông có những hiểu biết vững chắc, chứ tuyệt không nghe hơi nồi chõ.
Một hằng số khác trong nhân cách Dostoievski được tiếp thu từ cha mẹ, đó là lòng mộ đạo, đức tin tôn giáo. Sau này, khi đã lớn khôn, trong thời đại, khi mà chủ nghĩa vô thần đương ưu thắng ở châu Âu và ở Nga và trở thành thói thời thượng trong giới trí thức, thanh niên, sinh viên, nhà văn và kí giả Dostoievski sẽ kiên trì bảo vệ lập trường tôn giáo của mình, từ đấy mà ông tiếp cận với mọi vấn đề của xã hội và con người. Ta sẽ trở lại điểm hệ trọng này, điều cần nói ngay bây giờ là Dostoievski không thể không ý thức, lập trường tôn giáo ấy làm ông mất tín nhiệm đến đâu trong những giới xã hội mà ông hoạt động. “Bọn vô lại chế giễu tôi tin một cách cổ hủ và vô học vào Thượng Đế...” - dòng viết này ta tìm thấy trong sổ tay của Dostoievski chỉ mấy tháng trước khi ông qua đời. Và mặc dù ngay sau đó, ta sẽ đọc tiếp những suy nghĩ rất có trọng lượng về quan hệ giữa tri thức và đức tin, giữa cái thực tại và cái siêu tại, giữa luật đời và thiên ân, từ toàn bộ đoạn nhật kí vẫn toát ra cảm xúc cô đơn chua chát của một con người đi ngược dòng thời đại. Nhưng nếu Dostoievski thích nghi hoàn toàn với thời đại của mình, nếu ông dửng dưng hay làm lơ trước vấn đề tâm linh, tín ngưỡng của con người, thì liệu ông có còn là một Dostoievski mà các thế hệ mai sau sẽ tìm đến hội kiến, chất vấn?
Mê văn chương và ao ước trở thành nhà văn, Dostoievski từ nhỏ và suốt đời đọc rất nhiều, bằng tiếng mẹ đẻ và tiếng Pháp, tiếng Đức mà ông thông thạo. Ngoài văn học Nga và châu Âu, Dostoievski am tường lịch sử nước ông và châu Âu trung-cận đại và rất yêu triết học. Sau này, ngay thời làm lính ở Xibia, ông sẽ yêu cầu anh trai gửi cho ông nào Kant, nào Hegel; ở nhà ông ở Peterburg và Staraya Russa luôn luôn có Platon mà ông thích đọc đi đọc lại. Ông sẽ đối thoại tuyệt vời với Platon, Kant, Hegel và nhiều nhà tư tưởng khác bằng những tiểu thuyết triết lí của mình, nhưng cũng có khi sẽ tranh luận trực tiếp như một kí giả. Cuối đời ông kết bạn vong niên với Vladimir Soloviev, nhà triết học và thần học Nga vĩ đại nhất này thích đàm đạo với Dostoievski và luôn luôn hâm mộ trí thông minh sắc sảo, linh hoạt phi thường ở ông. Trong các dòng văn học nước ngoài ảnh hưởng mạnh đến sáng tác sau này của Dostoievski cần nhắc riêng đến văn xuôi lãng mạn châu Âu với hai phân nhánh chính: xã hội - tình cảm và kì ảo - giả tưởng. Như ta biết, Dostoievski suốt đời xem mình là nhà văn hiện thực, nhưng ông khá ghẻ lạnh với sáng tác của nhiều văn sĩ cùng thời mà giới phê bình ở trong và ngoài nước tán dương như những cây bút hiện thực chủ nghĩa “chính hiệu”. Ông phê phán “trường phái tự nhiên” ở Nga, mặc dù khi mới khởi nghiệp, ít nhất bề ngoài, ông là thành viên của nó. Trong văn học Pháp, ông thờ ơ, hầu như không để ý đến Flaubert và không chấp nhận Zola. Ông hâm mộ Balzac và thuở thiếu thời có dịch một tiểu thuyết của Balzac (“Eugénie Grandet”) ra tiếng Nga, song Balzac trong con mắt Dostoievski là một “trí tuệ vũ trụ” chứ không phải một “thư kí của xã hội”. Trong khi ấy, ông suốt đời yêu và đề cao Hugo và Georges Sand, mà ở Pháp thì, từ giữa thế kỉ XIX , Georges Sand bị coi là đã hết sức lỗi thời, là “người đại diện cho chất thơ của những hư ảo giả dối” (lời Zola). Cái hư ảo, kì ảo, cái không có trong đời thực mà chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, của những khát vọng và thất vọng, những lo âu và sợ hãi của con người - Dostoievski yêu nó trong sáng tác của cả những cây bút lãng mạn phóng túng đến cực đoan như Hoffmann, Maturin, Poe, và sau này chính ông cũng sẽ sử dụng rộng rãi cái chất liệu phi hiện thực ấy trong những nỗ lực “lột tả mọi bề sâu của tâm hồn con người”.
“Con người là một bí ẩn. Cần tìm ra bí ẩn ấy, và nếu có tìm suốt đời, thì cũng đừng cho là đã mất thì giờ. Tôi vật vã với nó, vì tôi muốn làm người” - mười tám tuổi, Dostoievski viết cho người anh, như thể vạch cương lĩnh cho cuộc đời của chính mình. Trong một bức thư khác, sớm hơn một năm, ta đọc: “Tôi cảm tưởng, thế gian này là nơi tẩy tội của những linh hồn thiên giới đã mờ đục đi do tư tưởng tội lỗi. Tôi thiết tưởng, thế giới đã chuốc lấy một ý nghĩa tiêu cực và từ tinh thần thanh cao trang nhã hoá thành một trò châm biếm. Con người sao ươn hèn! Hamlet, Hamlet!” - Giống như nhân vật của Shakespeare, người thanh niên Dostoievski dày vò về sự bất hoàn thiện của thế giới và con người, khao khát tìm ra nguồn gốc siêu lí của tội lỗi và cái ác. Và sẽ mãi mãi là thế : ngòi bút Dostoievski sau này sẽ chuyên tâm nắm bắt không phải những hiện tượng trên bề nổi cuộc sống, mà những trạng huống tâm thức ẩn khuất sau chúng và chi phối chúng, không phải những tính cách thực chứng trong những hoàn cảnh thực chứng, mà những thực thể tinh thần - trong những sáng tác chín muồi của ông những thực thể tinh thần ấy sẽ hiện ra rõ mồn một, khiến ta nhiều khi quên bẵng đi rằng chúng có và phải có cái vỏ thân xác.
Năm 1838, theo sự lựa chọn của cha mình, Dostoievski vào học Trường cao đẳng công binh Peterburg. Bốn năm sau, khi cha ông đã mất, ông ra trường, bỏ nghề được đào tạo, quyết tâm theo nghiệp văn chương.
II
Đầu năm 1846, cách nhau không đầy một tháng, hai tác phẩm đầu tay của Dostoievski ra mắt bạn đọc: Những người nghèo(*) và Kẻ song trùng. Số phận của chúng rất khác nhau. Những người nghèo lập tức được nhiệt liệt hoan nghênh như một kiệt tác xuất chúng, công luận qua tiếng nói của các nhà phê bình có uy tín nhìn thấy ở tác giả của nó một ngôi sao sáng mới mọc trên bầu trời văn chương Nga lúc ấy còn thưa thớt minh tinh. Nhưng Kẻ song trùng thì lại bị mọi người đánh giá là một truyện dở, tối nghĩa và nhàm chán, tác giả, theo nhận xét cũng của các nhà phê bình đã tán dương Những người nghèo, ở đây bắt chước Gogol một cách trơ trẽn, muốn vượt hơn Gogol mà lại không có được một phần thiên tài của Gogol. Dostoievski từ đỉnh của hân hoan và say sưa vì vinh quang rơi tõm xuống vực tuyệt vọng. Cú sốc quá mạnh do thăng trầm đột ngột trong bước đầu của văn nghiệp ở Dostoievski đã chuyển hóa thành chứng tâm thần để lại di chứng bằng bệnh động kinh sẽ đeo đuổi Dostoievski suốt đời. Bệnh động kinh, một căn bệnh vẫn được coi là “thiêng” (dĩ nhiên, chỉ ở những con người siêu quần), với những phút giây thiên khải cực lạc đi trước cơn đau ngất khủng khiếp và những ngày trầm uất tiếp theo, sẽ để lại dấu ấn cấu trúc đặc thù trong toàn bộ thế giới nghệ thuật của Dostoievski sau này.
Tất cả những lời khen chê hai sáng tác đầu tay của Dostoievski tất nhiên đều quá mức, song dễ hiểu. Cả hai truyện đều khai thác một đề tài quen thuộc trong văn học Nga thời ấy: số phận “con người nhỏ bé” trong xã hội đẳng cấp - phong kiến, thân phận một viên chức nhỏ giữa thủ đô một đế chế khổng lồ. Makar Devushkin, nhân vật nam chính trong Những người nghèo, tự gọi tên hai tiền khu nổi tiếng của mình trong văn xuôi Nga thế kỉ XIX: Samson Vưrin trong truyện Người quản trạm của Pushkin và Akaki Bashmachkin trong Chiếc áo choàng của Gogol. Với Bashmachkin, Devushkin có rất nhiều nét chung, để ta khỏi đánh giá quá cao công tích sáng tạo của Dostoievski: cả hai đều là những viên lục sự hạng quèn, mà nhiệm vụ ở công sở chỉ là sao chép các giấy tờ. Cả hai đều luống tuổi và tứ cố vô thân, với đồng lương thảm hại sống lay lắt giữa nơi phồn hoa đô hội của các giới quý tộc, quan lại, trưởng giả. Nét mới ở hình tượng Bashmachkin, so với nhân vật không có tiếng nói của Gogol, là ý thức đầy đau khổ về số phận hẩm hiu, về vị trí thấp hèn, vị trí “chiếc giẻ rách” của mình trong xã hội (hình thức “tiểu thuyết bằng thư” giúp tác giả lột tả không khó khăn nội tâm của nhân vật). Và nếu “con người - giẻ rách” trong truyện nghịch dị của Gogol hoàn toàn bằng lòng với số phận mình và chỉ yêu say đắm, mê mẩn chiếc áo choàng mới may - công trình của cả cuộc đời y, thì nhân vật của tiểu thuyết tình cảm nơi Dostoievski biết yêu một con người sống, một thiếu nữ cùng cảnh ngộ, tình yêu ấy là ánh sáng và niềm an ủi duy nhất trong cuộc đời khốn khổ và buồn tẻ của anh ta. Nhưng yêu mà chẳng giúp ích được gì người yêu, và Varvara Dobroselova, chỉ cảm kích chứ không yêu Devushkin, cuối cùng đã nhận lời cầu hôn của kẻ trước đây làm nhục nàng, đi với hắn, bỏ lại một mình viên lục sự luống tuổi; đau khổ quá, anh ta lần đầu tiên trong đời uống rượu cho say bất tỉnh và chắc sẽ chết vì tuyệt vọng. Về mặt tài nghệ, truyện Những người nghèo rõ ràng khó sánh với kiệt tác đích thực của Gogol, nhưng nó tràn đầy tình thương xót và sự hiểu biết nỗi lòng của những con người nhỏ bé chiếm tuyệt đại đa số xã hội loài người, cho nên nó dễ chinh phục công chúng độc giả không chỉ riêng ở Nga. Belinski, lãnh tụ trường phái hiện thực chủ nghĩa trong văn học Nga những năm 40 thế kỉ XIX, hân hoan viết: “Vinh dự và vinh quang thuộc về nhà thơ trẻ , mà nàng thơ của chàng biết yêu mến những con người ở những buồng sát mái và nhà hầm và nói với những ai sống nơi cung điện vàng son: ‘Đây cũng là con người, là anh em của các vị !’ ” ´
Chất thương cảm xã hội hơi ướt át ấy sẽ rơi rớt ngay ở những kiệt tác cuối đời của Dostoievski, mâu thuẫn với bầu không khí bi kịch sâu đậm nơi chúng. Có thể chê khiếu thẩm mĩ không hoàn chỉnh của tác giả, như không ít người làm (trong đó có Bunin, Nabokov và một phần cả L.Tolstoi), nhưng sẽ là thấu tình đạt lí hơn, nếu ta hiểu rằng nó là biểu hiện của sự gắn bó của Dostoievski với lí tưởng tuổi thanh xuân - với một học thuyết và một trào lưu xã hội rất sâu rộng, chinh phục rất nhiều văn nghệ sĩ ở châu Âu một thời, mà tên gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng. Một đặc điểm cơ bản của hệ tư tưởng này, được thừa kế từ triết học khai sáng thế kỉ XVIII, từ Rousseau và Schiller - mà Dostoievski suốt đời yêu Schiller - là niềm tin vào trí tuệ và bản chất lương thiện tự nhiên của con người, vào khả năng của loài người dựa vào trí thông minh sáng tạo và lương tri bẩm sinh kiến tạo cho mình một cuộc sống hạnh phúc, tận thiện tận mĩ, khi mà cái chế độ xã hội bắt người hà hiếp người, người bóc lột người đã được xóa bỏ. Theo quan niệm của nhiều nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng, kiến tạo thiên đường trên trái đất đồng nghĩa với đưa con người trở về trạng thái tự nhiên nguyên thủy chưa bị biến chất bởi nền văn minh tư hữu. Mọi tai họa đều do chế độ tư hữu gây ra, chỉ cần xóa bỏ nó, khôi phục bình đẳng xã hội là một thế giới mới, công bằng, tự do, bác ái sẽ được thiết lập nhanh chóng, trong khoảng từ ba mươi đến năm mươi năm, theo tính toán của Fourier, Leroux, Cabet - trước tác của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng ấy từ Tây Âu đã xâm nhập vào Nga từ cuối những năm 30 thế kỉ XIX. Sự gặp gỡ chủ nghĩa xã hội không tưởng là sự kiện tối quan trọng, đặt dấu ấn lên toàn bộ cuộc đời và sáng tác của Dostoievski; suốt đời ông sẽ ấp ủ lí tưởng bình đẳng, bác ái, thế giới đại đồng, trong những sáng tác cuối đời của ông, nó sẽ hiện lên như một giấc mộng vàng, một hoài niệm về thời đại hoàng kim đã có và sẽ phải trở lại với loài người. Suốt đời ông sẽ xót thương số phận, bênh vực quyền lợi và nhân phẩm của những con người “bị đuổi khỏi bàn tiệc của nhân quần”. Mười lăm năm sau Những người nghèo, vào đầu thập kỉ 1860-1870, Dostoievski sẽ viết một tiểu thuyết khác - Những kẻ tủi nhục, bênh vực đến lí tưởng hóa những người cùng khổ và phê phán đến mức tô bằng một màu đen quỷ dữ hình tượng kẻ giàu sang, quyền quý.
Nhưng cũng Dostoievski ngay từ đầu đã hiểu hết tính khiên cưỡng của sự đối lập tuyệt đối giàu nghèo, kẻ bóc lột - người bị bóc lột, tính hời hợt của niềm tin một chiều vào bản chất lương thiện tự nhiên của con người và tính ảo tưởng của những dự án thiết lập chóng vánh thiên đường trên trái đất. Dostoievski tranh luận ngấm ngầm với những quan niệm và chủ thuyết ấy bằng tiểu thuyết Kẻ song trùng, được viết gần như cùng một lúc với Những người nghèo. Nhân vật chính của truyện ấy, Iakov Goliadkin, người anh em cùng hội cùng thuyền với Makar Devushkin, gặp rủi ro trong tình duyên sau nhiều lận đận, bất thành trên đường công danh, dằn vặt suy nghĩ về số phận hẩm hiu của mình. Tâm trạng vừa oán ghét sự đời, muốn xa lánh xã hội để giữ gìn phẩm giá, lại vừa thèm khát cái thành đạt của kẻ khác, biết rõ tính hư phù của danh vọng mà vẫn ao ước được mọi người trọng vọng tạo nên những giằng xé nội tâm dữ dội và dẫn đến chứng phân liệt nhân cách: một Goliadkin phân thành hai người, Goliadkin trưởng và Goliadkin thứ. Con người thứ nhất khiêm nhường, dụt dè, an phận thủ thường bao nhiêu, thì con người thứ hai táo tợn, trơ trẽn, hãnh tiến bấy nhiêu. Hai con người không đội trời chung ấy không thể sống chung trong một con người, và cuối cùng Goliadkin phát điên.
Giọng văn trong Kẻ song trùng, khác xa Những người nghèo, đầy chất châm biếm, giễu cợt. Dostoievski học tập nghệ thuật của Gogol, sử dụng những thủ pháp phóng đại, lạ hóa, giả tưởng, cố lột tả bằng những hình tượng trực quan cái tâm trạng mâu thuẫn đến bệnh hoạn của nhân vật, rọi ánh sáng vào cái phần tăm tối ẩn khuất trong nó (cái mà phân tâm học sau này sẽ gọi là vô thức hay tiềm thức) khắc họa nó như một tâm hồn đã đánh mất vĩnh viễn tính thuần phác thuần toàn, đã lưỡng phân triệt để, một nhân cách vừa đáng thương vừa đáng sợ. Con người nhỏ bé của Dostoievski tiềm ẩn trong mình một ác quỷ không bé nhỏ - kẻ song trùng của nó. Óc đố kị của nó là một sức mạnh phá hoại xã hội và tàn phá bản thân nó. Sự nghiêng ngả tinh thần của nó nguy hiểm cho những ai nó sẽ đi theo. Những ứng biến của nó tùy theo thời thế đổi thay là khôn lường. Tiếng khóc nỉ non của nó trong thân phận thấp hèn, bị ngược đãi hôm nay có thể chuyển giọng thành tiếng thét man rợ của kẻ bạo hành tiếm đoạt, tiếng cười khả ố của tiểu nhân đắc thắng. Vậy với một con người của số đông như vậy có thể mau chóng dựng xây thiên đường trên trái đất? Có thể hoàn thiện hóa con người ấy chỉ bằng cách thay đổi điều kiện sống bên ngoài của nó? Câu trả lời phủ định toát ra từ toàn bộ tác phẩm, làm phật lòng Belinski và những cộng sự của ông tập hợp xung quanh tạp chí cấp tiến Người cùng thời đại, họ đương chờ đợi ở Dostoievski những sáng tác hoàn toàn khác, cổ xúy trực tiếp và theo một hướng thống nhất cuộc đấu tranh xã hội, mà trong đó văn học được xem là một vũ khí sắc bén hạng nhất. Dostoievski đã phạm “sai lầm chính trị” và phải chuốc lấy sự chê bai ghẻ lạnh, sự nhạo báng trịch thượng từ những người hôm qua còn vồ vập tâng bốc ông. Nhớ suốt đời bài học ấy, Dostoievski sau này sẽ nhắc đi nhắc lại về cái hại của mọi “khuynh hướng” trong văn học nghệ thuật, ông nói về những khuynh hướng do phe cánh hay thói thời thượng áp đặt, chúng giống như những “bộ đồng phục” khiên cưỡng chụp lên trên những cá tính sáng tạo khác nhau, chứ tính khuynh hướng tự nguyện và tự do của người nghệ sĩ thì bản thân Dostoievski có thừa và không bao giờ chối bỏ.
Dostoievski suốt đời yêu mến tác phẩm thiếu thời không gặp vận may của mình. Kẻ song trùng quả thật phác họa một hình tượng con người xã hội chưa từng có trong văn học Nga trước Dostoievski, nó khai mào cho một loạt phát kiến nhân học vĩ đại của Dostoievski sau này. Nhưng nó là đứa con tinh thần đẻ non, trình độ nghệ thuật ở đây không tương xứng với ý tưởng thâm thúy và minh triết, chính tác giả cũng thừa nhận điều này. Nói chung, thiên tài nghệ thuật của Dostoievski chín muồi chậm: phải ngoài bốn mươi tuổi, sau hai mươi năm cầm bút, ông mới viết nên những trang sách làm bất tử tên ông.
III
Sau gần một năm ốm đau, hoang mang thất vọng, đầu năm 1847 Dostoievski trở lại sáng tác, vị trí của ông bây giờ là “người cầm bút vô sản”, viết báo để kiếm sống. Trong văn chương, Dostoievski tạm xa lánh những đề tài xã hội gay cấn, trở về với những chủ đề lãng mạn: thế giới mộng mơ, những cuộc phiêu lưu của những trái tim cuồng nhiệt và trinh bạch giữa cuộc đời ô trọc, tàn nhẫn. Trong hai năm, Dostoievski viết một loạt truyện ngắn và truyện vừa, đa số có tình tiết li kì, màu sắc hoang tưởng, gợi nhớ Hoffmann và Gogol giai đoạn đầu: Bà chủ, Trái tim yếu đuối, Những đêm trắng, Netochka Nezvanova... Nhân vật trung tâm ở đây là con người mơ mộng: một viên chức nhỏ bỏ việc, một nhạc công đã đánh mất tài năng của mình, một “nghệ sĩ trong khoa học”... Không có nghề nghiệp rõ ràng, họ sống ngoài những mối quan hệ xã hội, như nhân vật trong Những đêm trắng tám năm trời ở Peterburg, thuộc nhẵn từng đường phố, từng ngôi nhà mà vẫn chưa quen biết một ai. Là những lữ khách nơi đô thị - hình ảnh kì ảo của Peterburg, một kinh thành mọc lên trên những bãi lầy của cửa sông Neva, đầy sương mù và khí lạnh của miền cực Bắc, là cái nền tuyệt vời kích thích những suy tưởng và hành vi lạ thường của họ - họ bắt gặp những cảnh đời ngang trái, những số phận đáng thương, những tâm hồn đau khổ... Họ muốn can thiệp vào cuộc sống, phục hồi công lí, cứu giúp người lâm nạn, giành lấy tình yêu và hạnh phúc cho cả chính mình, nhưng rồi họ chóng nhận ra rằng trái tim con người không nghe theo lí trí: người bị đày đọa vẫn quyến luyến kẻ đày đọa và cự tuyệt người mang giải thoát đến cho mình (Bà chủ), tâm hồn đau khổ yêu thích cái khổ đau và không đổi nó lấy sung sướng (Trái tim yếu đuối), người bị phụ bạc vẫn nặng tình với kẻ phụ bạc và chỉ thương cảm người yêu say đắm mình (Những đêm trắng).
Những truyện dài, truyện ngắn khai thác những nghịch lí của trái tim như thế - thành công nhất là Những đêm trắng, Dostoievski sẽ không bao giờ viết được những truyện trữ tình trong sáng và nhẹ nhàng như thế nữa - đã tuyệt nhiên không được công luận hưởng ứng. “Trường phái tự nhiên” hồi ấy đương chiếm lĩnh vị trí đầu tàu trong đời sống văn học Nga chỉ nhìn thấy ở tác giả một hậu sinh muộn mằn của chủ nghĩa lãng mạn đã lỗi thời. Belinski đánh giá khe khắt tất cả những tác phẩm của Dostoievski viết sau Những người nghèo, đặc biệt nghiêm khắc phê phán cái “màu sắc hoang tưởng” ở chúng. “Cái hoang tưởng ngày nay chỉ có chỗ trong nhà thương điên và là mối bận tâm của thầy thuốc chứ không phải của nhà thơ” - ông viết với dụng ý làm tỉnh ngộ Dostoievski. Nhưng Dostoievski đã không còn là một học trò ngoan ngoãn của nhà phê bình vĩ đại. Ông đang ở trong quá trình thử nghiệm độc lập, đương dò tìm con đường riêng của mình trong nghệ thuật. Càng ngày ông càng không thỏa mãn với thứ chủ nghĩa hiện thực bằng lòng với việc tái tạo “giống như thật” cái bề nổi của cuộc sống, lấy ngoại giới giải thích nội tâm, vì cái phổ biến mà hi sinh cái đặc thù và cái đơn nhất. Sau này, ông sẽ gọi cái chủ nghĩa thực chứng trong nghệ thuật ấy là “nông cạn”, “mù lòa”. Trong một bức thư năm 1867 gửi nhà thơ Maikov, Dostoievski viết : “Tôi có những khái niệm hoàn toàn khác về hiện thực và chủ nghĩa hiện thực, khác xa các nhà văn hiện thực và các nhà phê bình của chúng ta, chủ nghĩa duy tâm của tôi - hiện thực hơn chủ nghĩa duy thực của họ. Trời ơi! Cứ kể một cách sáng rõ, những gì người Nga chúng ta đã nếm trải trong 10 năm qua trong sự phát triển tinh thần của chúng ta - lẽ nào các vị duy thực lại không kêu toáng lên rằng đó là hoang tưởng! Trong khi ấy, đó mới là một chủ nghĩa hiện thực chính cống, đích thực! Chính cái đó mới là chủ nghĩa hiện thực, có điều sâu sắc hơn, còn của họ thì bơi nông”. Dostoievski biết miêu tả trung thực và sống động cái hiện thực thấy được bằng mắt, cảm được bằng các giác quan - Bút kí từ nhà chết làm cả châu Âu khâm phục bằng những hình ảnh sinh hoạt hàng ngày của nhà tù khổ sai, đã đọc là không thể quên - nhưng đích nghệ thuật của Dostoievski ở chỗ khác. Ông hướng về hiện thực cấp thứ nhất, cấp bản chất chi phối hiện tượng. Cái chủ nghĩa hiện thực ấy sẽ tất yếu sàng bỏ nhiều chi tiết bề ngoài dễ thấy của cuộc sống để nắm bắt cái thực thể, nhiều khi hi sinh cái “giống thật” để tìm ra cái đích thực, quan tâm đặc biệt đến cái dị thường, cái ngoại biệt, vì chính ở đấy tập trung cao độ những “vấn nạn” của nhân sinh phân tán trong những hiện tượng thông thường phổ biến. Cái chủ nghĩa hiện thực ấy sẽ hiện ra sau này, trong những tiểu thuyết lớn của Dostoievski, sáng tác những năm 40 thế kỉ XIX cho ta thấy những tìm tòi đầu tiên theo hướng ấy. Cuối đời, suy nghĩ về những đặc điểm của phương pháp sáng tác của mình và tranh luận với chủ nghĩa thực chứng trong triết học và văn học, Dostoievski sẽ viết những dòng cô đúc, chắc nịch như những châm ngôn: “Tôi yêu ghê gớm chủ nghĩa hiện thực, một chủ nghĩa hiện thực đi tới cái huyễn tưởng”. “Người ta gọi tôi là nhà tâm lí, không phải, tôi là nhà văn hiện thực nhưng theo nghĩa cao nhất, có nghĩa là tôi lột tả mọi bề sâu của tâm hồn con người”. “Lí tưởng cũng là hiện thực, cũng là hiện thực chính đáng như thực tại trước mắt”. “Toàn bộ hiện thực không nằm hết trong cái hiện hữu mà một phần to lớn còn tồn tại ở dạng tiềm ẩn, như là tiếng nói chưa được phát ra của tương lai”.
IV
Một Dostoievski viết hết truyện dài đến truyện ngắn về con người mơ mộng trong khoảng 1846 - 1848 chưa phải đã là cả Dostoievski. Cạnh đó, còn có một Dostoievski khác hăng say hành động, khao khát biến lí tưởng xã hội của mình thành hiện thực. Sau khi đoạn tuyệt với nhóm Belinski, chủ yếu vì bất đồng ý kiến về văn chương, Dostoievski kết giao với nhóm Petrashevski - một luật gia có học vấn sâu rộng, một môn đệ nhiệt thành của Fourier. Dostoievski, như đã nói ở trên, không chia sẻ nhiều điểm trong học thuyết của Fourier và các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng khác. Nhưng lòng căm phẫn trước hiện thực xã hội phi nghĩa đến dã man ở nước ông - nước Nga hồi đó còn là nước quân chủ chuyên chế và nông nô, người nông nô Nga trong thực tế không khác gì nô lệ - đã thôi thúc ông không những liên kết với những trí thức tiến bộ để truyền bá tư tưởng cải tạo xã hội, mà còn cùng với một thiểu số cấp tiến nhất - nhóm Durov - Speshnev - mưu toan phát động khởi nghĩa võ trang để xóa bỏ chế độ nông nô, giành lấy những quyền tự do dân chủ. Mưu đồ này chưa bước sang giai đoạn tổ chức thì tháng Tư 1849 cả nhóm bị bắt. Một giai đoạn bi đát nhất trong tiểu sử Dostoievski bắt đầu: 7 tháng giam cầm trong nhà tù Peterburg như một phạm nhân chính trị đặc biệt nguy hiểm, rồi cuộc xét xử với quyết án tử hình và cuộc hành quyết giả do chính Xa hoàng đạo diễn: Dostoievski mặc áo tử tù đứng gần 20 phút trên đoạn đầu đài chờ chết - cái chết cuối cùng được thay thế bằng 4 năm tù khổ sai và 4 năm làm lính ở Xibia. Trước những thử thách khốc liệt ấy, Dostoievski - bất ngờ ngay đối với ông - đã tỏ ra là con người đầy bản lĩnh và nghị lực. Ông không tiết lộ bí mật, không tố giác bạn bè, ngược lại, bằng mọi cách nâng đỡ tinh thần họ. Trong nhóm Petrashevski, không phải ai cũng hành xử được như ông. Dostoievski sau này nói rằng ông không có gì ân hận về quãng đời này của mình. Nhưng ông cũng nói: với ông những phút chờ chết ấy đã quả là những phút giây bước từ cuộc đời cũ sang một cuộc đời mới, với những xác tín thay đổi hoàn toàn.
Thực ra từ năm 1850 trở đi, trong thế giới quan, nhân sinh quan của Dostoievski quả đã diễn ra những thay đổi lớn, nhưng cũng có không ít mặt cơ bản được bảo toàn. Ta hãy dừng lại trước ở những mặt được bảo toàn ấy, bởi vì chúng hay bị lãng quên, hoặc do thành kiến với Dostoievski, hoặc do ý muốn bi kịch hóa triệt để cuộc đời ông. Trước hết, lí tưởng xã hội của Dostoievski còn lại không suy suyển. Vì lí tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, Dostoievski thời trẻ đã dấn thân vào con đường hoạt động chống chính phủ, không loại trừ đấu tranh võ trang để giải phóng nhân dân khỏi ách nông nô. Khi chế độ nông nô đã được bãi bỏ, Dostoievski không còn thấy cần phải dùng bạo lực cách mạng để giải quyết vấn đề xã hội. Nhưng vấn đề xã hội không vì thế mà mất đi trong ý thức của ông tầm quan trọng to lớn và tính thời sự nóng bỏng của nó. Dostoievski sẽ không bao giờ né tránh thời cuộc, không bao giờ trở thành nhà văn phi chính trị, khép mình trong “tháp ngà” của nghệ thuật. “Bị ám ảnh bởi nỗi buồn nhớ hiện tại” và mang khí chất bẩm sinh của một người hoạt động xã hội, Dostoievski như một tiểu thuyết gia và một nhà chính luận sẽ cất tiếng nói về những vấn đề thời cuộc nóng bỏng nhất, và ở đây lí tưởng công bằng xã hội, quyền lợi của nhân dân lao động sẽ luôn luôn là kim chỉ nam cho tư duy của ông, là cơ sở để ông nhận thức và đánh giá hiện thực xã hội trong và ngoài nước. Năm năm trước khi mất, ông thổ lộ trong Nhật kí nhà văn: “Tôi không bao giờ có thể hiểu được một tư tưởng cho rằng chỉ một phần mười loài người phải được phát triển đến mức cao nhất, còn chín phần mười thì chỉ làm chất liệu, làm phương tiện cho sự phát triển ấy, còn bản thân họ phải ở lại trong bóng tối. Tôi không muốn nghĩ và không muốn sống một cách nào khác, ngoài tin tưởng rằng tất cả chín mươi triệu người Nga chúng ta (hoặc không biết bao nhiêu sẽ còn được sinh ra thêm nữa) đến lúc nào đó sẽ được học hành, được thành người, được hạnh phúc.” Để biết Dostoievski căm ghét cái bất công và cái ác ngự trị xã hội loài người thế nào, chỉ cần đọc một chương Nổi loạn trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov.
Sau này nhiều năm sống ở Tây Âu, quan sát tận mắt hiện thực xã hội ở những nước đã làm cách mạng tư sản, Dostoievski nhận thấy lí tưởng tự do, công bằng, bác ái ở đây đã bị phản bội, quyền lợi của con người lao động không được tôn trọng, các đảng phái chính trị lợi dụng sự tín nhiệm của nhân dân theo đuổi những mục tiêu vị kỉ hẹp hòi của họ. Dostoievski sẽ suy nghĩ nhiều về những đường hướng cải tạo chế độ chính trị - xã hội ở nước mình nhằm bảo đảm lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp xã hội, trong đó có việc xây dựng hệ thống tự quản xã hội từ cơ sở và hệ thống các cơ quan dân biểu trực tiếp, không dựa vào các chính đảng. Dostoievski kiên trì chủ trương phát triển thật sâu rộng giáo dục quốc dân, đưa ánh sáng của văn hóa và khoa học vào quần chúng, thực hiện các quyền tự do công dân, trong đó quan trọng hàng đầu là tự do ngôn luận và tự do tư tưởng. Với Dostoievski, không có gì đáng ghét hơn sự o ép tinh thần, cưỡng bức lương tâm, không cho con người nói lên ý nghĩ thật của nó. Dostoievski không bao giờ là một tên phản động chính trị. Nếu dùng từ đúng nghĩa thì thời trẻ, có lúc ông đã theo chủ nghĩa cấp ticến chính trị, sau này chuyển sang lập trường bảo thủ. Từ không ngần ngại đánh đổ chế độ quân chủ chuyên chế, ông sau này chủ trương duy trì nó, dựa vào nó để thực hiện những cải cách xã hội. Tất nhiên, Dostoievski đã sai lầm, có điều rất nhiều trí thức Nga trước và sau Dostoievski cũng mắc sai lầm ấy, trong đó có cả những đầu óc cách mạng như Herzen.
Có hai lí do giải thích một phần sự thay đổi lập trường chính trị của Dostoievski. Thứ nhất, chế độ Xa hoàng đến thời Alexandre II (1855 - 1881) đã chủ động bãi bỏ chế độ nông nô và thực hiện nhiều cải cách xã hội quan trọng khác. Alexandre II được nhiều người Nga xem là một minh quân. Chính ông vua này đã trả lại danh hiệu quý tộc, phong quân hàm sĩ quan cho Dostoievski và cho về thủ đô sinh sống hoạt động. Nhưng cũng phải nói thêm rằng Dostoievski cho đến cuối đời vẫn bị cảnh sát an ninh bí mật theo dõi và ông không hưởng một đặc ân đặc lợi gì của triều đình. Thứ hai, trong gần 10 năm ngồi tù rồi sống ở Xibia, Dostoievski đã có điều kiện tìm hiểu kĩ và đã mến yêu nhân dân lao động Nga, mà quần chúng nhân dân Nga thì - đây là một sự thật lịch sử - ngưỡng mộ Xa hoàng, tin tưởng tuyệt đối vào Xa hoàng, xem Xa hoàng như người cha che chở, bênh vực quyền lợi của họ. Dostoievski, người trí thức đã “quy phục chân lí của nhân dân”, sẽ ấp ủ ảo tưởng về một liên minh giữa Xa hoàng và nhân dân, sẽ nói nhiều trong văn chính luận của mình về quan hệ cha con giữa vua và dân, cố thuyết phục vua Nga và giới cầm quyền Nga, nhưng trong thâm tâm không mấy tin tưởng vào thành công của mình. Những trang viết ấy của Dostoievski bám nhiều bụi thời gian nhất.
Dostoievski nhiều lần nhấn mạnh: không phải những khó khăn gian khổ, không phải nỗi cực nhục tù đày và làm lính đã bẻ gẫy ý chí ông, bắt ông thay đổi chính kiến, mà là sự gần gũi trực tiếp với nhân dân, thấm nhuần lí tưởng, đạo đức của nhân dân. Trong thế giới tinh thần của quần chúng nhân dân Nga có một thông số chung với Dostoievski, nó thu phục ngay tâm hồn ông, đó là đức tin tôn giáo, tình yêu cuồng nhiệt đối với Chúa Giêxu Kitô và đạo Kitô. Sự tiếp xúc với nhân dân lao động đã làm sống lại mãnh liệt trong Dostoievski niềm tin và tình yêu ấy một thời lung lạc do ảnh hưởng của các nhà trí thức cấp tiến. Trong một bức thư năm 1854 gửi Fonvizina, vợ một nhà cách mạng tháng Chạp bị đày đi Xibia, ta đọc lời tự thú rất điển hình của Dostoievski : “Tôi xin nói với bà về mình rằng tôi là con đẻ của thời đại, con đẻ của sự không tin và hồ nghi cho đến tận bây giờ và thậm chí (tôi biết cái đó) đến tận lúc xuống mồ. Tôi đã và đương phải trả bằng những khổ đau ghê gớm biết chừng nào cho cái khát vọng tín ngưỡng ấy, nó càng mạnh trong tâm hồn tôi, thì trong tôi lại càng nhiều lí lẽ chống lại”. Tiếp theo, ông định thức cái đức tin của mình: “Tin rằng không có gì đẹp hơn, sâu sắc hơn, đáng mến hơn, thông minh hơn, dũng cảm hơn và toàn bích hơn Đức Kitô, và không những không có, mà tôi tự nhủ với một tình yêu ghen tuông, không thể có. Nhưng thế hãy còn ít, giả sử có ai chứng minh được cho tôi rằng Kitô ở ngoài chân lí và quả thực chân lí ở ngoài Kitô, thì tôi vẫn muốn ở lại với Kitô, chứ không với chân lí”. Ta thấy, đức tin của Dostoievski phức tạp hơn rất nhiều so với đức tin chất phác của những con người lao động bình thường, nó là kết cục của những cuộc đấu tranh, vật lộn nội tâm, nó lưỡng cực, nó bao hàm cả sự không tin với đầy đủ lí lẽ để không tin, nó tự khẳng định mình như một nhu cầu tinh thần quan trọng nhất của con người. Kiểu đức tin ấy ta sẽ gặp lại trong những tiểu thuyết kiệt tác của Dostoievski. Đáng chú ý nữa là trong con mắt của Dostoievski, Kitô không phải là Chúa Trời xa vời vợi, mà là một con người chân chính, hoàn hảo, lòng yêu Kitô thể hiện sự khao khát hoàn hảo thuộc về bản chất của con người, tin vào Kitô tức là tin vào khả năng con người có thể trở nên hoàn hảo. Dostoievski vẫn thường nói, khác với giáo lí của nhà thờ chính thống : “Trong đạo Kitô Nga thật ra chẳng có tí gì là thần bí cả, ở đây chỉ có tình yêu thương con người, chỉ có hình ảnh của Kitô”. Đức tin của Dostoievski gắn liền với chủ nghĩa nhân đạo của ông, một chủ nghĩa nhân đạo nhìn thấy hình ảnh Thượng Đế trong mỗi con người, ngay cả người xấu xa nhất, sa đọa nhất. Đức tin ấy trong Dostoievski gắn liền với tình yêu nhân dân, đất nước. Dostoievski không lí tưởng hóa nhân dân lao động - trong Bút kí từ nhà chết và những tác phẩm khác của ông, ta bắt gặp những hình tượng đáng sợ của những con người biến chất xuất thân từ dân chúng cần lao. Nhưng cái quý giá ở những con người lầm than tội lỗi ấy là lí tưởng đạo đức cao cả đến thánh thiện - theo Dostoievski nó là kết quả trực tiếp của sự thấm nhuần đạo lí Kitô giáo. Ông gửi gắm rất nhiều kì vọng vào nhân dân Nga: với lí tưởng đạo đức không đục vẩn ấy trong tâm thức, nó sẽ dẫn đường chỉ lối nhân loại trong công cuộc tìm kiếm chân lí thiện mĩ phổ quát, kiến tạo thế giới đại đồng. Cái đúng cái sai, cái thông minh mẫn tuệ và cái thiển cận mù quáng trong dự báo ấy của Dostoievski bây giờ đã quá rõ ràng.
V
Bốn năm tù khổ sai, sống và giao tiếp với hàng trăm phạm nhân hình sự thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau, đã cho Dostoievski một vốn hiểu biết phong phú và quý giá vô cùng, làm cứ liệu cho những suy ngẫm bền bỉ về bản chất và những khả năng của con người, nguồn gốc của cái ác, quan hệ giữa môi trường và nhân cách, giữa tự do và trách nhiệm của con người - những cái sẽ tạo nên cốt lõi tư tưởng cho những tiểu thuyết lớn sau này của Dostoievski và cũng sẽ được ông bàn đến nhiều trong văn chính luận. Bốn năm “đau khổ khôn xiết và vô cùng” ấy sẽ trực tiếp hun đúc nên kiệt tác đầu tiên mà Dostoievski sẽ viết ngay sau khi trở về thủ đô Peterburg sau 10 năm vắng mặt - Bút kí từ nhà chết (1860). Tác phẩm này sẽ làm chấn động dư luận Nga, hồi đó đương sống trong sự chờ đợi những cải cách xã hội lớn, khiến nhiều người nhìn thấy ở Dostoievski một Dante mới đã xuống thăm và mô tả lại địa ngục, cái địa ngục này lại càng khủng khiếp vì nó tồn tại không phải trong trí tưởng tượng của nhà văn, mà trong thực tế của đất nước. Cuốn sách sẽ sớm được dịch ra tiếng nước ngoài, làm cho tên tuổi Dostoievski được biết đến ở châu Âu, nơi cái tên Nhà chết sẽ được nhiều người xem là đồng nghĩa với nước Nga.
Trong những năm làm quân dịch ở Xibia, Dostoievski viết ít, đọc nhiều. Tác phẩm còn được nhắc đến thuộc thời kì ấy là truyện dài Làng Stepanchikovo với các cư dân, một bi hài kịch có cốt truyện mô phỏng Tartuffe của Molière, nhân vật thành công hơn cả trong đó là Foma Opiskin, một tên ăn bám giả đạo đức và ngụy biện, bắt ông chủ thật thà và cả họ hàng gần xa của ông ta phải phục tùng và sợ hắn, một Tartuffe của Nga.
Đời sống tình cảm đầy sóng gió của Dostoievski trong những năm ấy kết thúc bằng cuộc hôn nhân cũng không kém phần sóng gió. Cuộc tình duyên ấy, ngoài những quan sát tâm lí kì thú cũng sẽ làm chất liệu cho những sáng tác tiểu thuyết sau này của Dostoievski, còn bộc lộ ở Dostoievski một số nét con người dễ thương, khó hình dung ở tác giả những tiểu thuyết - bi kịch tàn khốc như Tội ác và trừng phạt, Lũ người quỷ ám, Anh em nhà Karamazov: lòng tận tụy, chăm sóc từng li từng tí người yêu, sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình vì hạnh phúc của người mình yêu... Dostoievski sẽ bất hạnh với người vợ đau ốm, trái tính, cả nghi và cả ghen của mình, nhưng sau khi bà qua đời (1864) và ông đã lập cuộc hôn nhân thứ hai (1867), lần này hạnh phúc, ông sẽ tiếp tục chăm sóc ân cần người con trai riêng cũng rất trái tính của người vợ quá cố.
VI
Peterburg, nơi Dostoievski trở về vào đầu thập niên 1860-1870, đương sục sôi không khí “đêm trước” cách mạng. Chế độ phong kiến nông nô đang sống những ngày cuối cùng. Nước Nga sau đó sẽ đi đâu? Trước câu hỏi ấy, xã hội phân chia thành nhiều phe phái. Phái cấp tiến nhất - phái cách mạng dân chủ với Chernyshevski là lãnh tụ tinh thần kêu gọi nước Nga “cầm lấy rìu”, đánh đổ nhà nước quân chủ chuyên chế, đưa nước nhà lên thẳng chủ nghĩa xã hội. Do ảnh hưởng của tuyên truyền cách mạng, sinh viên bãi khóa, biểu tình, những phần tử manh động đốt cháy từng khu phố. Phái tự do tư sản sùng phương Tây thì hô hào nhanh chóng du nhập những định chế của phương Tây : hiến pháp, nghị viện, các quyền tự do công dân... để đưa nước Nga đuổi kịp thế giới văn minh. Phe bảo thủ thân Xlavơ cổ xúy bảo tồn “quốc hồn quốc túy” bằng cách phục hồi những kỉ cương trật tự cổ xưa, trước thời Piôtr Đại đế. Dostoievski không theo phái nào, giữ lập trường riêng mà sau này ông sẽ diễn đạt là “sự tổng hòa giải các tư tưởng” trên cơ sở lí tưởng Kitô giáo. Ông và anh ruột thành lập một diễn đàn riêng - tạp chí Thời buổi (Vremia), sau đổi tên thành Thời đại (Epokha) để phát biểu những quan điểm của mình về những vấn đề thời sự của đất nước. Tạp chí này tồn tại không lâu do cái chết đột ngột của người anh Dostoievski (1864), nhưng nó đã để lại dấu ấn trong lịch sử báo chí Nga. Dostoievski đăng trên tạp chí này tất cả những tác phẩm ông viết trong khoảng 1860-1864, đích thân phụ trách phần văn học và phê bình văn nghệ của tạp chí. Ông tự tay viết một loạt bài phê bình, tranh luận với cả các báo cực tả lẫn cực hữu xung quanh những vấn đề đương nổi lên gay cấn thời ấy như chức năng nhiệm vụ của nghệ thuật, quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, thế nào là chủ nghĩa hiện thực trong văn nghệ. Quan điểm của Dostoievski khá độc đáo và sâu sắc, đáng được đời sau biết đến. Thí dụ, ông khẳng định: không có thứ “nghệ thuật vị nghệ thuật”, mọi nghệ thuật đích thực đều vì con người và cần cho con người, không bây giờ thì mai sau, không trong hoàn cảnh này thì trong hoàn cảnh khác. Và vì thế cứ để cho người nghệ sĩ sáng tạo tự do, đừng ép anh ta theo khuynh hướng này hay khuynh hướng kia, nhập trường phái này hay trường phái nọ. Với cái đẹp cũng thế. “Con người tiếp nhận cái đẹp một cách hoàn toàn vô điều kiện, chỉ vì nó là cái đẹp, ngưỡng mộ nghiêng mình trước nó, không hỏi vì sao nó có ích...” Cái đẹp là “mục đích cuối cùng của sinh tồn”. Từ luận điểm này, dễ bắc cầu sang định thức nổi tiếng sau này của Dostoievski: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”.
Hè năm 1862, Dostoievski thực hiện chuyến viễn du đầu tiên sang châu Âu. Ông viếng thăm châu Âu không phải như một du khách nhàn rỗi, mà như một nhà tư tưởng đã có những chủ kiến về thế giới ấy và muốn lấy cái tai nghe mắt thấy kiểm nghiệm những ý kiến của mình. Kết quả của chuyến đi là thiên chính luận triết học dưới hình thức thể kí Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè (1863). Dostoievski tập trung quan sát hiện thực xã hội ở hai thành phố lớn - Paris và London, một cái là “thiên đường”, một cái là “địa ngục” của Tây Âu tư bản chủ nghĩa, và nhận định : nền văn minh châu Âu đã đi vào ngõ cụt, nó đã phản bội lí tưởng cao đẹp mà chính nó đề xướng, nó bóc lột thậm tệ giai cấp cần lao để đem lại lợi ích cho một thiểu số nhỏ, mà lối sống của thiểu số ấy là lối sống cá nhân vị kỉ, “mỗi người vì mình, Thượng Đế vì mọi người” hay là “chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”; sự giải phóng cá nhân ở đây chỉ dẫn đến sự cô đơn, tha hóa và thui chột nhân cách con người. Kết luận : con đường của Tây Âu không phải là con đường của nước Nga, ở Nga, nơi mà lí tưởng bác ái do Kitô di huấn vẫn sáng chói trong tâm thức dân tộc, chế độ xã hội, quan hệ cá nhân - tập thể phải được thiết lập trên cơ sở khác - trên cơ sở tình yêu và tự do. Trong Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè, Dostoievski lần đầu tiên phác thảo và công bố cái học thuyết xã hội - nhân văn của mình, trong đó vấn đề tự do mới được đề cập lướt qua. Trọng tâm của thiên chính luận là phản bác óc sùng bái mù quáng, bắt chước một cách nô lệ phương Tây.
Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè cho thấy một đặc điểm của tư duy Dostoievski: ông luôn luôn bám sát thời cuộc, quan tâm tha thiết đến ngày hôm nay, nhưng trong mớ bòng bong của ngày hôm nay ấy ông sẽ lẩy ra và bắt người đọc ông tập trung chú ý vào những vấn đề hệ trọng nhất và muôn thuở nhất của nhân sinh. Ông là một nhà báo siêu hạng.
Cũng năm 1863, mấy tháng sau khi xuất hiện Ghi chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè, Chernyshevski đăng trên tạp chí Người cùng thời đạitiểu thuyết Làm gì? trình bày cương lĩnh cải tạo xã hội, xây dựng con người mới của ông và vẽ nên bức tranh tương lai một màu tươi sáng của nhân loại. Dostoievski lập tức bước vào tranh luận với Chernyshevski bằng tác phẩm Bút kí từ nhà hầm(1), trong đó vấn đề tự do của con người sẽ trở thành trọng tâm tư tưởng. Lần này Dostoievski tranh luận một cách rất độc đáo, với nghệ thuật cao cường của một tiểu thuyết gia đại tài. Ông sáng tạo một nhân vật tiểu thuyết hẳn hoi, để cho nó kể về mình, tự nhận xét mình, phát biểu những ý kiến của mình về cuộc đời và con người và nhân tiện tranh luận với Chernyshevski, không gọi tên ông. Chỉ khúc xạ qua lời nói của nhân vật, người đọc có thể đoán biết chủ kiến của tác giả. Mặt khác, thông qua nhân vật ấy, với tính cách, hành vi, quan điểm của nó, Dostoievski xác định nhãn thức của mình về con người, xây dựng cái mà người đời sau sẽ gọi là “nhân học Dostoievski”. Thế thì Dostoievski tranh luận nhiều nhất với Chernyshevski về cái gì?
Dostoievski nhìn thấy - và ông không ngộ nhận - ở Chernyshevski một môn sinh của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Châu Âu, mà học thuyết Dostoievski đã biết từ những năm 40 thế kỉ XIX. Cái “lâu đài bằng pha lê” trong tiểu thuyết Làm gì?, nơi loài người trong tương lai sẽ sống, lao động và hưởng thụ chung, có những thông số cơ bản chung với một phalanstère (nhà chung) của Fourier hay công xã Icarie của Cabet, mà với Dostoievski, cuộc sống ở đấy “còn đáng ghét hơn, khủng khiếp hơn tù khổ sai”. Các kiểu nhà chung và công xã ấy thể hiện một lối tư duy và một phương cách giải quyết vấn đề xã hội - con người, cá nhân - tập thể mà Dostoievski không thể chấp nhận. Theo một truyền thống tư tưởng có lịch sử ngàn đời - nó kéo từ thời cổ đại Hi-La (Platon), qua Phục Hưng (T.Moore, Campanella, F.Bacon) sang cận đại - các nhà xã hội và cộng sản chủ nghĩa châu Âu trước Mác chẳng thấy một cách nào giải quyết những mâu thuẫn xã hội, ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân và những xung đột cá nhân - tập thể ngoài cách khống chế gắt gao cá nhân, bắt nó chịu sự chi phối một chiều và vô điều kiện của tập thể, đồng hóa cá nhân với những chức năng xã hội. Cá nhân ở đây về thực chất đã bị xóa bỏ, chỉ còn lại những cá thể, những “tiêu bản” của loài người. Trong các học thuyết về xã hội lí tưởng của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thuộc mọi thời đại, ta đều thấy những mô hình bất biến, quy định trước từng li từng tí, một lần và vĩnh viễn đời sống xã hội và cá nhân, duy lí hóa triệt để cuộc sống để phòng tránh mọi mâu thuẫn, mọi xung đột - Dostoievski phẫn nộ gọi chúng là những học thuyết “tổ kiến”, là “chủ nghĩa bầy đàn”, và xem ra ông không bất công. Loài người trong thế kỉ vừa qua đã phải trả giá quá đắt cho cái lối giải quyết quan hệ cá nhân - tập thể như thế, cho những đồ án xã hội duy ý chí một cách không tưởng như thế. “Cái đáng sợ nhất ở các thuyết không tưởng là chúng dễ trở thành hiện thực” - Nikolai Berdiaev, một trong những triết gia lớn nhất thế kỉ XX và một trong những người con tinh thần của Dostoievski, viết không sai một tí nào.
Nhân vật Bút kí từ nhà hầm, một cái đầu chuộng nghịch lí, đưa ra ba mô hình biểu tượng về tổ chức xã hội loài người : “tổ kiến”, “chuồng gà” và “lâu đài pha lê”. “Tổ kiến” thì đương nhiên hắn không chấp nhận, nhưng “lâu đài pha lê” hắn cũng không ưng. Hắn nói: nếu chẳng có gì tốt hơn, thì thà chọn “chuồng gà”. Chuồng gà là nơi ngủ qua đêm, nơi tránh mưa, một cái gì đó tạm thời, có thể phá đi làm lại. Còn lâu đài pha lê được ban quy chế của cái vĩnh cửu, cái thiêng liêng, ở đấy không được thay đổi một cái gì cả, trong đó mọi người đều hạnh phúc và phải hạnh phúc, không ai được phép đau khổ. Thực chất “lâu đài pha lê” cũng là “tổ kiến”, một tổ kiến được cải tiến, trong đấy cũng không có tự do.
Vấn đề mấu chốt là ở đây. Dostoievski chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng ông quý cá nhân và tự do cá nhân, quý sự đa dạng muôn màu muôn vẻ của xã hội loài người, tính chủ động và quyền tự chủ của từng con người. Với Dostoievski, mỗi con người là một giá trị tự thân và vô điều kiện, Dostoievski đòi hỏi cho nó “sự phát triển tối đa”, “sự tự biểu hiện tối đa”. Hạnh phúc của con người, nó phải tự ý niệm và tự làm nên, không thể ban phát và lại càng không thể cưỡng bức hạnh phúc. Bảo vệ “quyền đau khổ” của mình, cương quyết không chịu vào ở cái “lâu đài hạnh phúc chung”, nhân vật Bút kí từ nhà hầm dưới hình thức nghịch lí bênh vực quyền tự do của con người. Với nó, tự do quý hơn hạnh phúc.
Tự do thuộc về bản chất của con người. Tước đoạt tự do của con người là tước đoạt nhân tính của nó - đó là điểm trung tâm trong nhân học Dostoievski. Bút kí từ nhà hầm mở đầu cho một loạt tác phẩm tiểu thuyết của Dostoievski mà trong đó vấn đề tự do của con người sẽ được xem xét trong phép biện chứng và trên các hướng tự khẳng định khác nhau của nó. Nhân vật Bút kí từ nhà hầm đòi hỏi cho mình một tối đa tự do, nó không chấp nhận một sự trói buộc nào, một sự áp đặt nào từ bên ngoài, nó muốn tự phán xét và tự lựa chọn tất cả, và tác giả ở phần đầu của tác phẩm hoàn toàn đồng tình với nó. Nhưng ở phần hai, ông sẽ cho thấy tự do sẽ đưa con người không có lí tưởng dẫn đường ấy, con người là nô lệ của chính mình ấy, đến đâu. Tự do sẽ là ảo tưởng, bởi vì con người ấy trong mọi cảm nghĩ, mọi hành vi ứng xử đều lệ thuộc vào ý kiến và cái nhìn của người khác; tự do sẽ là nguy hại, bởi vì muốn “cởi trói” mình khỏi ràng buộc với xã hội, muốn khẳng định sự độc lập tuyệt đối của mình, con người ấy sẽ gạt bỏ một cách tàn nhẫn và hèn hạ tặng phẩm cao quý nhất mà cuộc đời đem lại cho nó - tình yêu.
Kết luận sơ bộ mà tác giả không nói ra, nhưng người đọc có thể rút ra từ tác phẩm của ông: không có tự do thì không còn con người, nhưng chỉ có tự do trong chân lí mới nâng cao con người, các con đường tự do khác đều dẫn nó đến bại vong. Tự do khó biết bao nhưng cũng tương xứng biết bao với phẩm giá con người!
VII
“Trong khoảng 15 năm, từ 1865 đến 1880, Dostoievski viết nên những tiểu thuyết triết lí chủ yếu của mình: Tội ác và trừng phạt, Chàng Ngốc, Lũ người quỷ ám, Đầu xanh tuổi trẻ, Anh em nhà Karamazov. Sau chúng, nhân loại đã trưởng thành thêm một bước”. - Một nhà khoa học Nga thời Xôviết viết trong một cuốn sách bàn nhiều về quan hệ tinh thần giữa Dostoievski và Einstein.
Một sự đánh giá rất cao, nhưng không quá cao.
Năm tiểu thuyết nói trên, sáng tác trong 15 năm cuối đời của Dostoievski quả là một quần thể kiệt tác kì vĩ và độc đáo vô tiền khoáng hậu. Chúng chứa đựng những khám phá to lớn nhất của Dostoievski về con người, những ý tưởng sâu sắc về lẽ sống và những đường hướng hoàn thiện sự sống, những tiên đoán và cảnh báo lúc phát ra tưởng là huyễn hoặc, nhưng sự anh minh của chúng sẽ được các thế hệ mai sau khâm phục thừa nhận. Chúng là một vũ trụ nghệ thuật hết sức mới lạ đối với ý thức văn học cùng thời, có thể so sánh với vật lí hiện đại trong quan hệ với vật lí cổ điển. (Không phải ngẫu nhiên mà nhà sáng lập vật lí học hiện đại Einstein yêu Dostoievski đến thế, Dostoievski đã cho ông “nhiều hơn bất cứ một nhà tư tưởng nào, nhiều hơn Gauss”, nhà tiền khu của ông trong toán học). Về mặt loại hình, ai ai cũng cảm thấy chất cách tân rõ rệt của những tiểu thuyết ấy, nhưng chưa ai đưa ra được định nghĩa bao quát đầy đủ các đặc điểm cấu thành của chúng: “tiểu thuyết triết lí”, “tiểu thuyết tư tưởng”, “tiểu thuyết - bi kịch”, “tiểu thuyết phức điệu” .... - tất cả những giới thuyết ấy, mặc dù chúng đều đúng đắn và sâu sắc, vẫn không lột tả hết tính độc đáo sáng tạo của những kì đài nghệ thuật mang tên Dostoievski.
“Phép lạ” của những kiệt tác ấy càng nổi rõ hơn, nếu ta nhớ lại hoàn cảnh của nhà văn trong những năm ấy: những cơn động kinh liên tiếp (tần số đặc biệt cao trong những năm 1865-1871, trung bình 10 ngày một cơn, sau mỗi cơn Dostoievski không thể làm việc 3-4 ngày) và các bệnh kinh niên khác; nợ nần chồng chất (trong đó có khoản nợ lớn do tạp chí của anh em Dostoievski phá sản, nhà văn cam kết trả dần cả phần nợ của người anh quá cố) và sự truy lùng của các chủ nợ đã buộc Dostoievski phải trốn ra sống ở nước ngoài nhiều năm; những lo toan bề bộn cho gia đình và họ hàng... Cộng vào đấy là nỗi ham mê cờ bạc đã đeo đuổi Dostoievski gần 10 năm và nhiều phen đẩy ông đến cảnh khốn cùng, nhưng không có nó, chưa chắc ông đã viết nên một truyện dài, vừa là thiên kí sự vừa là một bài nghiên cứu tâm lí rất đặc sắc - Con bạc (1866), truyện này ra mắt độc giả cùng một lúc với Tội ác và trừng phạt.
Nhân vật nam chính trong chuyện - Aleksxei Ivanovich, một thanh niên làm gia sư cho một gia đình quý tộc Nga sống ở nước ngoài. Y có hai đam mê : mê giai nhân tiểu thư Polina, con gái riêng của vợ quá cố của ông chủ, và mê đánh bạc. Polina, một tâm hồn kiêu sa và bất hạnh, khinh rẻ y, ngay trước mắt y bắt tình với một công tử Pháp hào hoa phong nhã, nhưng càng bị khinh rẻ, y càng yêu giai nhân mãnh liệt hơn, một tình yêu-căm thù khá đặc trưng cho thế giới nghệ thuật của Dostoievski. Polina, thất vọng bởi người tình Pháp và trong gia cảnh rối bời, đến với y và nhanh chóng nhận ra rằng y không phải là của nàng hoàn toàn - một nửa tâm hồn y để ở sòng bạc. Y mê cờ bạc không phải vì mộng làm giàu, mà vì những cảm xúc cực mạnh, những khoái lạc đỏ đen của cuộc chơi. Với y, sống đồng nghĩa với chơi. Y không đánh đổi cuộc đời sóng gió thường nhật của con bạc khát nước lấy lối sống trưởng giả bình yên, khôn ngoan, cóp nhặt. So sánh mình với những người Pháp, Đức, Anh... tập hợp ở cái trung tâm cờ bạc quốc tế này, y nhận ra những đặc điểm thuộc bản tính dân tộc Nga của mình: quá phóng túng, không có phong độ và không biết tự kiềm chế. Aleksei Ivanovich là tiền thân của Dmitri Karamazov.
Ba năm sau Con bạc, giữa hai tiểu thuyết Chàng Ngốc và Lũ người quỷ ám, Dostoievski viết một thiên truyện tâm lí khác - Người chồng muôn thuở (1869). Một gã quý tộc thuộc xã hội thượng lưu Peterburg gần đến tuổi tứ tuần thấy chán ngán vô độ cuộc sống nhàn tản và hưởng lạc của mình. Hắn bắt gặp một người quen cũ, một viên chức từ tỉnh lẻ lên thủ đô tìm hắn, đấy là chồng của một người tình cũ mới qua đời của hắn. Người chồng này suốt đời đặt trọn niềm tin vào người vợ mà y đinh ninh là thủy chung, hiền thục, và chỉ khi vợ đã chết y mới khám phá ra rằng mình đã bao nhiêu lần bị lừa dối. Y quyết tâm tìm và trả thù những tình địch. Một “người chồng muôn thuở” đối đầu với một “tình nhân muôn thuở”, hai người căm ghét nhau đến không đội trời chung, nhưng dần dà cả hai đều nhận ra rằng họ vừa không chịu được nhau, vừa không thể sống không có nhau. Họ là một cặp song trùng, vừa đối nghịch vừa bổ sung nhau. Mỗi người một kiểu, song cả hai đều là nô lệ của phụ nữ, người chồng thì vì sự khâm phục và phục tùng vợ đã ăn vào máu thịt, còn người tình thì, như một Don Juan, không thể sống mà không chinh phục trái tim phụ nữ. Người chồng muôn thuở trong thâm tâm ghen tị với người tình muôn thuở, thèm khát vị trí của y, song người tình thì không khỏi lo ngại ngày nào đó sẽ rơi vào hoàn cảnh của người chồng.
Con bạc và Người chồng muôn thuở rõ ràng là hai tác phẩm không xoàng tí nào , song chúng không những bị che khuất bởi những tiểu thuyết vĩ đại của Dostoievski, mà chính tác giả cũng chẳng bao giờ nhắc đến chúng, một khi chúng đã được viết xong. Với tất cả sự hấp dẫn của chủ đề, tất cả những phân tích tâm lí rất tinh vi, tài tình, đây vẫn chỉ là ngoại vi của thế giới nghệ thuật Dostoievski. Ở Dostoievski, phân tích tâm lí không phải là mục đích tự thân, mà là phương tiện để khám phá thế giới tinh thần, thế giới của các tư tưởng, các tín niệm chiếm lĩnh tâm hồn con người và chi phối những hành vi của nó. Dostoievski là nhà tinh thần học nhiều hơn nhà tâm lí học. Chỉ cần so sánh ông, thí dụ, với S.Zweig hay M.Proust, là ta thấy rõ tất cả sự khác biệt giữa hai kiểu tài năng này.
VIII
Hồi mười bảy tuổi, Dostoievski đã viết về Balzac: “Những tính cách của ông ta là tác phẩm của một trí tuệ vũ trụ! Không phải hơi hướng của thời đại, mà cả hàng ngàn năm bằng sự vật lộn của chúng đã xếp đặt một kết cục như vậy trong tâm hồn con người”.
Dostoievski nhận xét một thiên tài khác, như tiên đoán nhãn thức, bút pháp của chính mình.
Nhân vật của ông, một tâm hồn thanh niên trong sáng, hào hiệp, quả cảm, có trí thông minh kiệt xuất, mang nặng trong lòng mối ưu tư không chịu nổi về thế sự. Nó thấy rõ mồn một sự bất công xã hội, cảnh người nghèo hèn bị chà đạp, bị tước mọi quyền sống, còn kẻ giàu sang quyền quý thì lộng hành, sa đọa đến mất tính người. Nó căm ghét cái ác ngự trị trong xã hội, nó phẫn nộ nhận thấy mọi người xung quanh âm thầm chịu đựng ách thống trị ấy, nó quyết tâm vùng dậy chống lại cả thế giới phi nghĩa vì công lí, nhưng hóa ra cái thế giới độc ác ngàn năm mà nó muốn đánh đổ ấy đã gieo vào trong nó từ bao giờ không biết những hạt giống của cái ác: nhân sinh quan cá nhân chủ nghĩa cực đoan; tư tưởng sùng bái bản thân với những chân lí “siêu việt” mà nó khám phá ra và miệt thị nhân quần “hạ đẳng” không hiểu nổi những chân lí ấy, từ đó mà chia loài người thành “những phần tử tinh hoa” và “đám đông”; quan niệm cho rằng ở đời quyền lực bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh, mà muốn có sức mạnh thì phải dám “bước qua” cái luân lí thông thường của người đời, dám phạm tội ác để đào luyện mình thành “siêu nhân”. Con người nổi dậy ấy, với tham vọng làm cứu tinh, làm ân nhân của loài người, trên thực tế chỉ có thể trở thành một đao phủ mới, và ngay từ đầu, nó đã sát hại những con người vô tội, gây bao khổ đau cho những người thân thuộc và hãm hại con người sâu kín và chân chính ở trong chính nó, với ý niệm đạo lí đã ăn sâu vào tiềm thức, với nhu cầu được sống trong tình yêu thương và cảm thông với đồng loại - chúng tôi nói về tiểu thuyết Tội ác và trừng phạt (1865-1866) và nhân vật chính trong đó, Rodion Raskolnikov.
Trong Tội ác và trừng phạt, Dostoievski tập hợp và soi sáng bằng một ánh sáng mới một loạt đề tài ông đã từng đề cập. Trong sáng tác của Dostoievski chưa bao giờ vấn đề phân cực xã hội theo giàu - nghèo lại được đặt ra một cách gay gắt không nhượng bộ như ở đây. Lịch sử gia đình Marmeladov do chính nhân vật này kể cho Raskolnikov ở đầu truyện dưới ngòi bút Dostoievski trở thành một thảm kịch nhân loại điển hình cho thời đại chủ nghĩa tư bản man rợ. Thảm kịch ấy không có lối thoát, và cái kết thúc êm ả của nó trong tiểu thuyết mang tính ngẫu nhiên. Bi kịch ấy được thắt nút chung với bi kịch của gia đình Raskolnikov, chúng rất giống nhau. Cả hai gia đình đều ở trong cảnh cùng quẫn, trong cả hai gia đình người con gái đức hạnh phải hi sinh mình vì người thân. Raskolnikov không chấp nhận sự hi sinh ấy và y sẽ hành động để chặt đứt cái “nút chết”. Nhà phê bình dân chủ cấp tiến Pisarev sẽ lấy hoàn cảnh bên ngoài để giải thích tội ác của Raskolnikov: đây là một con người bị cuộc sống đẩy đến bước đường cùng, ông viết. Nhưng ông không để ý là tác giả đã liệu tính trước lối giải thích này và đã đưa vào tiểu thuyết một phản biện sắc bén: Razumikhin. Người sinh viên này cũng nghèo khổ như Raskolnikov, nhưng có giết người cướp của đâu, anh ta cần cù nhẫn nại tìm kế sinh nhai, vừa nuôi mình vừa giúp gia đình. Tội ác của Raskolnikov có nguồn gốc tư tưởng. Raskolnikov có nhiều nét tương đồng với nhân vật Bút kí từ nhà hầm. Đây cũng là con người li khai với xã hội loài người để khẳng định độc lập tự do của mình, tự cởi trói mình khỏi những chuẩn mực đạo đức xã hội mà nó cho là sản phẩm của sự yếu đuối, ươn hèn của đại đa số loài người. Nhưng nếu con người “từ nhà hầm” không có lí tưởng và mục đích sống, nên chỉ quanh quẩn trong những phản ứng tiêu cực vụn vặt với cuộc đời, thì Raskolnikov - con người quá khổ điển hình của Dostoievski - từ ý thức về sứ mệnh “siêu nhân” của mình sẽ cho phép mình phạm những tội ác chống nhân loại. Tội ác của Raskolnikov là tội ác do ý thức hệ, kiểu tội ác này nguy hiểm hơn rất nhiều cho sự sống của muôn người, cho nền văn minh con người so với những tội hình sự - Dostoievski cảnh báo rất rõ nhân loại từ những trang viết hiền minh của mình. Và quả thực, kiểu tội ác do ý thức hệ đã trở thành một hiện tượng khủng khiếp, có quy mô chưa từng thấy, trong lịch sử nhân loại thế kỉ XX.
Vòng nguyệt quế, nó cũng là vòng mận gai trên đầu nhà tiên tri Dostoievski trong con mắt của độc giả thế kỉ XX, là phần thưởng đích đáng cho một cây bút suốt đời bận tâm tha thiết với tương lai - tương lai của đất nước ông và của cả thế giới, tiền đồ của con người và xã hội loài người, quả là những điểm nóng thường trực trong thế giới tinh thần của Dostoievski. Từ mối bận tâm ấy nảy sinh sự nhạy cảm đặc biệt, thể hiện rất rõ trong Tội ác và trừng phạt và tất cả các sáng tác sau này của Dostoievski, đối với những xu hướng tinh thần, những trào lưu tư tưởng hôm nay còn trứng nước, nhưng ngày mai có thể trở thành sức mạnh hiện thực. Bakhtin nói rất đúng trong công trình kinh điển của ông về Dostoievski: “Dostoievski có năng khiếu thần tình nghe thấy cuộc đối thoại của thời đại mình, hoặc đúng hơn, nghe thấy thời đại mình như một cuộc đối thoại vĩ đại. Ông nghe thấy cả những tiếng nói ngự trị trong thời đại, sang sảng và được mọi người thừa nhận, cả những tiếng nói còn non nớt, những ý tưởng chưa phát lộ hết, cả những tư tưởng ngầm, trừ ông ra không ai nghe thấy, cả những tư tưởng chỉ mới chớm nở, những bào thai của những thế giới quan tương lai”. Nhiều luồng tư tưởng phản nhân đạo mới chỉ phảng phất trong không khí thời đại, mà Dostoievski đã báo trước về những hậu họa khôn lường của chúng. Khi Dostoievski viết Tội ác và trừng phạt, Nietzsche còn ngồi trên ghế sinh viên đại học và chưa hề nghĩ tới cái học thuyết về “siêu nhân” của mình. Sau này, đọc thiên truyện về Raskolnikov, Nietzsche tưởng đã tìm ra bậc tiền bối tinh thần và vội tôn Dostoievski làm thầy, nhưng rồi ông sẽ thấy mình đã ngộ nhận. Trong một bức thư, ông bực tức viết về cái “luân lí của bọn nô lệ” ở Dostoievski, nhưng luân lí ấy mới là luân lí chân chính của loài người, mà Nietzsche, hướng tới một “siêu nhân” có nhiều nét chung với “con dã thú tóc vàng”, không thể hiểu.
Cái luân lí chân chính ấy của loài người, đối thoại và đối âm với luân lí “siêu nhân” của Raskolnikov, có nhiều hiện thân trong thiên tiểu thuyết phức điệu của Dostoievski, song hiện thân sáng ngời nhất, bất tử nhất vẫn là Sonia Marmeladova. Chỉ có một Sonia thánh hạnh với đức khiêm nhường cứng cỏi, với những xác tín ăn vào máu thịt, với trí anh minh của trái tim, với tình yêu hiến dâng không đòi đền đáp mới có thể cải tử hoàn sinh cho tâm hồn Raskolnikov. Sonia là con chiên nhiệt thành của Chúa Kitô, đạo đức và đạo lí của Sonia không phải là của con người tự nhiên, mà do Kitô di huấn - Dostoievski đinh ninh như thế. Chối bỏ và phản lại Kitô, như Raskolnikov làm, là đẩy mình và nhân quần đến sự bại vong và diệt vong. Dostoievski trong Tội ác và trừng phạt và các tác phẩm sau này sẽ kiên trì tìm giải pháp cho mọi vấn đề xã hội và con người, xuất phát từ lí tưởng và học thuyết của Kitô, như là ông hiểu nó. Ta không vội phán xử ông, mà sẽ cố theo dõi sự vận động của tư duy ông.
IX
Một niềm tin sâu kín và thường trực của Dostoievski: “Cái Đẹp sẽ cứu chuộc thế giới!” Cái Đẹp ở đây tất nhiên là cái đẹp của bản thể, hòa hợp và không tách rời cái Chân, cái Thiện, Tình Yêu, Tự Do, Sáng Tạo, Bất Tử - tất cả các giá trị tuyệt đối của sự sống. Dostoievski suốt đời suy nghĩ về bản chất bí ẩn của cái đẹp, vì sao con người cần đến nó. Ông viết trong Nhật kí nhà văn (1873): “Cái đẹp... thể hiện cho con người và loài người những lí tưởng của họ”. Con người và loài người không thể sống không có lí tưởng và khao khát được thấy lí tưởng ấy hiện hình trong cái đẹp. Trong Lũ người quỷ ám - tác phẩm tối tăm ảm đạm nhất của ông - Dostoievski nói mượn lời một trong những nhân vật chính, nhân vật này đương diễn thuyết, biện luận hăng say trước một cử tọa hết sức thờ ơ với những tư tưởng tâm đắc của y: “Không có người Anh nhân loại sống được, không có nước Đức cũng thế, không có người Nga sống được quá chứ, không có khoa học cũng được, không có bánh mỳ cũng được, chỉ không có cái đẹp là không thể sống được, bởi vì sẽ không còn gì để làm trên đời này nữa. Toàn bộ bí mật là ở đây, toàn bộ lịch sử ở đây”. Cũng nhân vật ấy sẽ nói trước khi chết, giải thích vai trò của cái đẹp - ở đây đồng nhất với cái cao cả - trong lịch sử loài người: “Toàn bộ quy luật của sự tồn tại nhân loại chỉ là để sao cho con người luôn luôn có một cái gì lớn lao vô hạn để tôn thờ. Nếu bị tước đoạt cái lớn lao vô hạn này, con người sẽ không còn muốn sống và sẽ chết trong tuyệt vọng. Cái Vô Hạn và Vô Cùng cũng cần cho con người như cái hành tinh bé nhỏ, nơi nó sống”. Do vị trí thiết yếu vô song ấy trong đời sống con người, cái đẹp, khi nó hiển lộ đầy đủ như là hiện thân của lí tưởng, sẽ phát huy tác dụng cải tử hoàn sinh cho loài người sa đọa lầm lạc, làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của thế giới đương đắm chìm trong tội lỗi và khổ đau. Cái đẹp sẽ là sức mạnh cứu thế.
Đó là xác tín của Dostoievski. Cùng với những xác tín khác, nó tạo nên một cực rất mạnh và thường trực trong thế giới tinh thần của ông. Cực khác là thực tại, mà trong đó nhà văn đương sống, đương nhận thức nó và khao khát nó đáp ứng những mong đợi của mình. Ý đồ của tiểu thuyết Chàng Ngốc hình thành trong thế đối lập hết sức căng thẳng của hai cực ấy.
Công tước Mưskin, hiện thân của cái đẹp tinh thần: một tâm hồn thánh thiện không vẩn đục bụi trần, thương yêu vô điều kiện đồng loại, xả thân vì họ, sẵn sàng làm anh em, làm trợ thủ, làm bạn tâm tình của tất cả mọi người. Nastasia Philippovna, hiện thân của cái đẹp thân thể - tâm hồn: một nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, một cuộc đời khổ đau, một nhân phẩm bị chà đạp nhưng luôn luôn ngưỡng mộ hướng về cái thiện và công lí. Hai hiện thân của cái đẹp ấy sẽ tác động thế nào đến cuộc đời và cuộc đời sẽ tác động thế nào đến họ? Tiểu thuyết Chàng Ngốc mô tả số phận của cái đẹp, cái tuyệt hảo trong thế giới đọa lạc, bất hảo.
Những tác động đầu tiên đến nhân quần của công tước Mưskin - trong hình tượng nhân vật này phảng phất bóng dáng của một số nhân vật nổi tiếng của văn học thế giới: Don Quichotte, Picquick... và của chính Kitô, “gương mặt đẹp chính diện vô tiền khoáng hậu” - giống như tác động của ánh sáng tới những sinh vật sống trong bóng tối. Những con người xung quanh Mưskin, dù họ có là ai trong xã hội Nga bấy giờ, tất cả đều bất hạnh - bất hạnh vì sự độc ác, ích kỉ, tham lam mù quáng của kẻ khác và vì sự quá ư không hoàn hảo của chính mình. Trong thâm tâm, họ khát khao một cuộc sống khác, và ban đầu Mưskin quả làm thức dậy được cái phần tốt đẹp ở trong họ, tập hợp họ xung quanh mình. Nhưng những phản ứng ngược lại cũng bộc lộ rất nhanh và mỗi lúc một gia tăng dữ dội. Luật của thế giới đen tối và giả dối không dung nạp luật của con người trong sáng và chân thật. Cuộc đụng độ là không thể tránh khỏi và kết cục của nó được định trước : công tước Mưskin sẽ bại vong, kéo theo mình một linh hồn thân thương mà chàng muốn cứu giải trước tiên, một sắc đẹp tuyệt thế mà chàng ngưỡng mộ - Nastasia Philippovna. Sự bại vong của cái đẹp là cốt lõi của bi kịch, và Dostoievski quả đã viết nên một bi kịch nhân loại không có biên giới không gian thời gian. Bộ phim xuất sắc của Kurosawa Chàng Ngốc mà trong đó các nhân vật của Dostoievski trở thành người Nhật, sự việc diễn ra ở nước Nhật thế kỉ XX cho thấy rất rõ điều đó.
Có thể rút ra những kết luận khác nhau từ thất bại của Mưskin. Tác giả không tiếc chi tiết để làm nổi rõ sự yếu đuối bất lực, sự ngây thơ khờ dại của nhân vật của ông. Với những ảo tưởng và ngộ nhận không thể sửa chữa về người đời, với chí hướng khoan dung tha thứ tất cả, Mưskin không thể tìm cho mình chỗ đứng trong cuộc đời (lịch sử quan hệ của nhân vật này với Aglaia và với Rogogin không để lại nghi ngờ gì về mặt này). Mưskin lại càng không thể thành đạt trong những nỗ lực can thiệp vào sự đời, cải hóa nhân quần. Để cải tạo xã hội, để chiến thắng cái ác, con người cần có nhiều phẩm chất khác và cương lĩnh hành động khác. Thế nhưng dưới ngòi bút của Dostoievski, cái xã hội mà trong đó không có chỗ cho Mưskin và Nastasia Philippovna, không gì thay đổi sau khi hai hiện thân của cái đẹp ấy ra đi - xã hội ấy lộ hết tính phi nhân đến trái tự nhiên và vì thế mà hư ảo của mình, còn chân lí của kẻ chiến bại Mưskin thì lại tỏa sáng mãi mãi, hứa hẹn thành công trong những cục diện nhân thế khác. Cũng như mọi tác phẩm bi kịch thực thụ, Chàng Ngốc tiềm ẩn ánh sáng của hi vọng phục sinh.
X
Tác phẩm lớn được viết sau Chàng Ngốc, tiểu thuyết Lũ người quỷ ám (1869-1872) là sản phẩm của một giai đoạn khó khăn trong đời sáng tác của Dostoievski. Sau hơn 4 năm lưu lạc ở nước ngoài, “còn khổ sở hơn ngồi tù khổ sai”, giữa năm 1871 Dostoievski trở về nước. Hiện thực đất nước mà ông yêu thiết tha và gửi gắm bao hi vọng không làm ông phấn khởi chút nào. Ông ghi vào sổ tay những cảm tưởng của mình về nước Nga sau cuộc cải cách dân cày: “Một chấn động khổng lồ - và tất cả bị cắt đứt, đánh sụp, hủy bỏ - y như chưa hề tồn tại bao giờ”. Trong các giới xã hội đô thị “một sự đồi trụy trần trụi của chủ nghĩa ích kỉ, không hổ thẹn vẻ trần trụi của mình và chỉ sợ roi gậy, thậm chí roi gậy cũng không còn sợ”. Công xã nông thôn tan rã, biến chất, “nông dân lúc có hoả hoạn đổ đi cứu tiệm rượu, chứ không phải nhà thờ”... Trong khi ấy thì, một bên, phái tự do tư sản tiếp tục tán dương con đường phát triển tư bản chủ nghĩa như là hiện hình của “tiến bộ lịch sử” - cái tiến bộ lịch sử được hình dung như một quy luật phổ quát, không có ngoại lệ và không thể đảo ngược; nó không cần biết đến cái giá phải trả cho nó hôm nay, nhưng nó say sưa ngây ngất với hạnh phúc xán lạn của loài người ngày mai - Dostoievski không thể liên minh với giới ấy. Còn bên kia, phe cách mạng...
Các lực lượng cách mạng ở Nga những năm 1860 - 1880 ngày một lấn sâu vào cuộc khủng hoảng về đường lối. Mất hi vọng phát động một cuộc cách mạng nhân dân, họ lao vào con đường manh động vô chính phủ, phá rối trật tự xã hội và khủng bố cá nhân. Về mặt lí luận, họ thổi phồng vai trò của cá nhân trong lịch sử, đối lập “người hùng” với “số đông”, “thủ lĩnh” với “quần chúng”. Trong triết học và mĩ học, họ tán dương chủ nghĩa thực dụng và thực chứng, thuyết đấu tranh vì sinh tồn, họ giữ thái độ hư vô chủ nghĩa đối với văn hoá, đối với các giá trị tinh thần cổ truyền của dân tộc và loài người. Về mặt tổ chức, họ thành lập những nhóm khủng bố, mà trong đó kỉ luật tự giác được thay thế bằng quyền lực tuyệt đối của người đứng đầu, tình đồng chí - bằng sự thẳng tay thanh trừng nội bộ... - Dostoievski càng không thể đi với họ.
Dostoievski có con mắt quan sát xã hội khá tinh tường, nhưng với ông, hiện thực xã hội không phải là hiện thực cấp cuối cùng. Cũng như mọi khi, ông tìm giải thích cho nó ở trong thế giới tinh thần. Trao đổi với một người bạn những cảm nghĩ về thời cuộc Tây Âu 1870-71: chiến tranh Đức - Pháp, Công xã Paris, ông viết: “Việc đốt cháy Paris thật là quái tởm... Thế nhưng họ (và cả nhiều người khác) lại không thấy sự điên rồ ấy là quái tởm mà ngược lại, là tuyệt đẹp. Thế đấy, ý tưởng thẩm mĩ trong loài người mới đã đục vẩn... Lí tưởng đã đổi thay rồi mà”. Phương Tây mắc những căn bệnh chí mạng, nhưng càng xem xét nước Nga của mình, nhà văn càng thấy nó cũng đương vật lộn với những chứng bệnh không kém phần hiểm nghèo. Một vụ án chính trị-hình sự khá om sòm ở Nga vào đầu những năm 70 thế kỉ XIX - vụ ám sát nội bộ trong một tổ chức khủng bố do V. Nechaev đứng đầu - khiến Dostoievski quan tâm đặc biệt và sẽ gợi cho ông một tuyến cốt truyện để xây dựng một tác phẩm tiểu thuyết mà trong đó đằng sau những rối loạn xã hội nhất thời sẽ hiện ra rõ mồn một những ung nhọt tinh thần ác tính của nước Nga, trong đó có ung nhọt mới manh nha, chưa được đặt tên, nhưng sẽ phát di căn trong tương lai.
Ban đầu Dostoievski chỉ chủ định viết một tác phẩm công kích cái mà ông gọi là “chủ nghĩa xã hội chính trị”. Nhưng bằng “bàn tay run rẩy vì phẫn nộ” vẽ nên một loạt chân dung biếm hoạ về những con người ôm tham vọng đánh đổ thế giới cũ, thiết lập thế giới mới, nhưng bản thân chưa đủ tư cách làm người, Dostoievski bỗng nhận ra rằng “những sự quái dị thảm hại ấy không xứng đáng với văn học”, rằng bằng biếm họa không cắt nghĩa được gì hết. Ông đốt bản thảo cuốn tiểu thuyết đã gần xong và viết lại từ đầu, mở rộng và khơi sâu hơn rất nhiều chủ đề của tác phẩm. Đối tượng phê phán và tố cáo của nó bây giờ không chỉ còn là một nhóm phiến loạn vô chính phủ với những hành vi vô luân quái ác - “lũ người quỷ ám” theo nghĩa hẹp - mà là cả giới quan lại Nga thiển cận, ngu dốt, mất gốc dân tộc, xa rời thực tế đất nước; cả xã hội quý tộc-trí thức theo đuổi lối sống xa hoa, phù phiếm, chạy theo thời thượng, tâng bốc những thần tượng giả và hết sức thờ ơ với những vấn đề đích thực của cuộc sống, với số phận của nhân dân. Ngòi bút trào lộng của Dostoievski phô bày cả một thế giới tỉnh lẻ muôn thuở, ấu trĩ muôn thuở. Trạng thái ấu trĩ tinh thần ấy là môi sinh nuôi dưỡng những vi trùng và siêu vi trùng gây những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tác giả Lũ người quỷ ám tập trung chẩn đoán một bệnh truyền nhiễm theo ông là nguy hại nhất, chí tử nhất cho con người và xã hội: sự lung lạc và tiêu vong lí tưởng chân chính, sự chối bỏ và thay thế chân lí cứu thế của Kitô bằng những học thuyết, tư tưởng và khuynh hướng tinh thần đối nghịch với nó. Dostoievski phát hiện quan hệ nhân quả giữa những hiện tượng tưởng chừng xa lạ và đối lập nhau: lòng tin lãng mạn, lạc quan một chiều vào nhân loại, vào quy luật tiến bộ không ngừng của xã hội loài người song hành với thái độ vô trách nhiệm với cuộc sống ở thế thệ cha chú (Stepan Verkhovenski) dẫn đến những phá phách và phiến loạn vô chính phủ ở thế hệ con cháu (Piot’r Verkhovenski); sự đánh tráo lí tưởng toàn nhân loại bằng lí tưởng quốc gia - dân tộc hẹp hòi dẫn đến thần thánh hoá mù quáng dân tộc mình, quay lưng lại với toàn thế giới (Shatov); sự phủ định ngạo mạn Thượng Đế đưa đến việc tôn sùng chính mình như một Thượng Đế mới (Kirillov).
Cũng như trong Tội ác và trừng phạt, Dostoievski trong tiểu thuyết mới của mình mô tả những căn bệnh tinh thần, những tư tưởng quái đản xâm nhập, chiếm lĩnh những tâm hồn cao khiết, những nhân cách tài trí phi thường. Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết Nikolai Stavrogin: lại một con người quá khổ, một con cưng của tạo hoá có sức hấp dẫn đến nỗi biến nhiều người xung quanh thành những kẻ thừa hành ý chí nhiều khi không nói ra của y, tiêm nhiễm cho những người khác, nhiều khi vô ý thức, những tâm trạng, tư tưởng đổi thay của mình, biến họ trở thành những cái bóng, những con khỉ bắt chước mình. Bằng hình tượng rất quyến rũ nhưng cũng rất đáng sợ này, Dostoievski đi xa thêm một bước trong cuộc khảo sát số phận của con người đi tìm tự do tuyệt đối, con người không thừa nhận bên trên mình một quyền lực hay uy tín nào, tự giải phóng mình khỏi mọi chuẩn mực và ràng buộc của xã hội để thực hiện triệt để quyền tự quyết, tự do lựa chọn của mình. Và bằng cả cuộc đời của nhân vật mà rõ ràng ông yêu quý, mà ý chí tự do, tự quyết của nó ông chia sẻ, Dostoievski một lần nữa xác định: cái tự do vô điều kiện ấy, tự do trong cả thiện lẫn ác, trong cả tội lỗi lẫn đức hạnh, tự do không song hành với lí tưởng và niềm tin mang sẵn trong nó hạt giống của sự tự huỷ hoại và gieo rắc xung quanh mình sự huỷ hoại. Trong lĩnh vực đấu tranh xã hội cũng thế, những con người “quỷ ám” như Piot’r Verkhovenski và Shigaliov, những con người cho phép mình tự do hoàn toàn trong ứng xử với cái thế giới mà họ quyết tâm đánh đổ, nếu chiến thắng thì chỉ có thể mang lại cho loài người những xiềng xích mới, ách nô lệ mới còn khủng khiếp hơn xưa rất nhiều. “Xuất phát từ tự do vô giới hạn, tôi đi đến chủ nghĩa độc tài vô giới hạn” - Shigaliov tóm tắt cái “cương lĩnh chính trị” của mình. Từ cái cương lĩnh ấy- chính vì nó đã không chỉ còn là không tưởng, mà đã biến thành hiện thực xã hội ở nơi này nơi kia trên trái đất này- đã phát nguyên trong thế kỉ XIX một thể loại văn học mới - phản không tưởng (anti-utopie).
Trong văn học Nga thế kỉ XIX, ngoài Dostoievski còn có những nhà văn lớn khác (Leskov, Pisemski) cũng viết những tiểu thuyết thời ấy gọi là “chống hư vô”, bây giờ gọi là chống khủng bố. Nhưng chỉ Lũ người quỷ ám, với cái nhìn nhân bản luận thấu triệt nguyên căn của những hiện tượng xã hội, với mối lo âu sáng suốt cho vận mệnh nền văn minh con người, mới sống lâu hơn thời đại mình, gây tiếng vang sâu rộng và liên tiếp trên trường quốc tế, ảnh hưởng mãnh liệt đến tư tưởng và sáng tác của nhiều nhà văn lớn thế kỉ XX (A. Camus với Con người nổi loạn là một thí dụ điển hình). Nhưng Dostoievski lại mắc sai lầm đối với thời đại của ông: do không đưa vào tiểu thuyết một nhân vật tích cực nào, ông bị giới cách mạng cấp tiến buộc tội là đã bôi nhọ phong trào giải phóng Nga. Số phận long đong của Dostoievski ở tổ quốc ông sau cách mạng tháng Mười cũng một phần quan trọng được quy định bởi thái độ bài bác đối với tiểu thuyết Lũ người quỷ ám.
XI
Có thể phán đoán Dostoievski đã sớm nhận ra sai lầm của mình: (như một nghệ sĩ, ông cố gắng sống trong “thời đại lớn”, song như một con người, ông không thể làm lơ “thời đại nhỏ”). Sau khi cho ra mắt công luận Lũ người quỷ ám, trong năm 1873 ông đăng một loạt bài báo minh định lập trường của mình: ông không tán thành đường lối của những người cách mạng, nhưng không phủ nhận lẽ phải chủ quan và lòng thành hướng về công lí của họ; ông đánh giá cao Belinski và Herzen, bày tỏ thái độ trân trọng đối với Chernyshevski (hồi ấy đang bị lưu đày ở Xibia), khẳng định sự khác biệt lớn giữa nhà cách mạng nhiệt thành, trong trắng này với những kẻ manh động khủng bố kiểu Nechaev. Những bài báo ấy lần lượt xuất hiện trên tờ tuần báo Người dân quốc dưới chuyên mục Nhật kí nhà văn. Dostoievski làm chủ bút cho tờ báo có khuynh hướng bảo thủ chính trị ấy chỉ một năm, rồi cương quyết từ chức, lấy lí do phải tập trung sáng tác. Hoàn cảnh vật chất của ông lúc này vẫn còn khó khăn, tên tuổi chưa thật rạng rỡ. Tạp chí Người đưa tin Nga, nơi ông đã gần một thập niên công bố những tác phẩm mới của mình, không chịu trả cho ông nhuận bút chỉ bằng một nửa mức họ sẵn sàng trả cho L. Tolstoi, mà danh giá đến những năm 70 thế kỉ XIX đã vượt hẳn các nhà văn Nga khác. Vận may đến với Dostoievski từ phía ông ít mong chờ nhất - thi hào Nekrasov, chủ nhiệm tạp chí Niên giám quốc gia, diễn đàn chính của phe dân chủ cấp tiến thời ấy, chủ động đề nghị ông viết cho họ một tiểu thuyết mới với mức nhuận bút ông yêu cầu mà không kèm theo một điều kiện nào về nội dung. Dostoievski bắt tay vào sáng tác tiểu thuyết Đầu xanh tuổi trẻ (1874-1876).
Về mặt thể tài, đây là cuốn “tiểu thuyết gia đình” (một dạng thức của “tiểu thuyết giáo dục”) đầu tiên của Dostoievski, với hai nhân vật chính là cha và con trai, tính cách, tâm hồn, quan hệ phụ tử của họ tạo thành tuyến chủ đề chính của tác phẩm. Văn bản cuối cùng và nhất là những bản nháp và những tự bình chú của tác giả cho thấy thế giới gia đình trong Đầu xanh tuổi trẻ được cấu tạo trong tranh luận ngấm ngầm nhưng gay gắt với thế giới của Tolstoi. Quan hệ sáng tác và cả quan hệ con người giữa hai nhà văn Nga vĩ đại nhất này giống quan hệ giữa hai con hổ khó sống chung một rừng. Chỉ cần nhớ lại rằng hai người suốt đời không gặp nhau, mặc dù họ giao du trong một giới, có rất nhiều người quen và cả bạn thân chung và đã có lần, theo gợi ý của một người bạn chung (N. Strakhov) muốn cho họ làm quen với nhau, đã cùng đến dự một buổi thuyết trình thần học của V.Soloviev; người đã ra về trước, khiến cuộc làm quen không thành là Tolstoi: có thể, ông đã cảm nhận nhạy sắc hơn rằng giữa ông với Dostoievski có quá ít cái chung. Và mãi mãi sẽ là thế: nếu Dostoievski đã có những cố gắng vượt lên trên những định kiến và thị hiếu cá nhân của mình để đánh giá khách quan công bằng sáng tác của Tolstoi, thì Tolstoi, sống lâu hơn Dostoievski ba thập niên, không ngừng bày tỏ sự xa lạ đối với nhà văn này và như một nghệ sĩ, thường nhìn ông bằng cái nhìn từ trên xuống dưới(*) . Khác một trời một vực với quan hệ Goethe - Schiller hay Balzac - Hugo!
Bức tranh gia đình Nga (hình ảnh thu nhỏ của xã hội) trong Đầu xanh tuổi trẻ quá khác xa bức tranh được vẽ nên trong Thời thơ ấu - Thời niên thiếu - Tuổi trẻ và nhất là Chiến tranh và Hòa bình của Tolstoi. Tolstoi, người sáng tạo sử thi dân tộc Nga, khắc họa lịch sử những gia đình quý tộc có kỉ cương nền nếp, có những giá trị vững chắc lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo cho người đọc niềm tin vào cơ sở lành mạnh, trường cửu của cuộc sống Nga. Dostoievski với cảm thức về sự lung lay bất ổn của toàn bộ cuộc sống dân tộc và thế giới, về những chấn động dữ dội cấp toàn cầu sẽ đến, mô tả xã hội Nga rối loạn ở ngay những tế bào của nó. Nếu thế giới gia đình của Tolstoi đáng yêu, đáng nâng niu từ bên trong, bất chấp những lệch lạc và mâu thuẫn bên ngoài, thì trong Đầu xanh tuổi trẻ và cả sau này trong Anh em nhà Karamazov của Dostoievski, trước chúng ta là “những gia đình ngẫu hợp”, với những đứa con “từ tấm bé phải suy ngẫm về gia đình mình, bị xúc phạm bởi sự bất khả kính của cha ông mình và môi sinh của mình”. Arkadi Dolgoruki, nhân vật chính và người kể chuyện trong Đầu xanh tuổi trẻ, cũng như Pierre Bezukhov trong Chiến tranh và Hòa bình, là con trai ngoài giá thú của một đại quý tộc. Nhưng nếu tuy vậy Pierre Bezukhov vẫn là nhà quý tộc từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong, kế thừa và làm giàu di sản vật chất và tinh thần của cha ông, thì Arkadi Dolgoruki từ tấm bé cảm thấy mình như một con hủi không được kế thừa cái gì cả và cũng chẳng có cái gì để kế thừa. Arkadi, một thanh niên quý tộc mất gốc do hoàn cảnh, khát khao lấy lại cái phẩm chất quý tộc ấy - phẩm chất quý tộc tinh thần, chứ không chỉ huyết thống. Và chàng sung sướng tưởng đã tìm thấy nó ở người cha của mình, một người cha bề ngoài hết sức thờ ơ, dường như không muốn biết đến chàng. Những trang miêu tả người thanh niên đi từ căm ghét, thù oán đến mến mộ nồng cháy người cha mình, những cuộc đàm đạo thâu đêm mà qua đó cha con tương ngộ thuộc về những đoạn văn bất hủ của Dostoievski. Chất thơ cao nhất nơi ông bao giờ cũng là chất thơ của sự gặp nhau giữa những thế giới tinh thần. Song càng tiếp xúc, quan sát người cha yêu kính, người thanh niên càng nhận ra: con người trí thức quý tộc có rất nhiều phẩm giá cao quý ấy cũng là một sinh linh mất gốc, mất gốc một cách sâu xa, bi thảm. Ở Versilov không có hoặc đã mất đi cái cốt cách tạo ra thể thống nhất của nhân cách con người, trí tuệ xán lạn và bay bổng của y không chế ngự được thế giới bản năng tăm tối, trơ ỳ, tâm hồn y bị xâu xé giữa những chí hướng cao thượng và dục vọng tầm thường. Tình yêu của hai cha con đối với một phụ nữ giai nhân đã mở mắt cho người thanh niên thấy cuộc giao tranh phức tạp giữa cái thiện và cái ác, nhân tính và thú tính bên trong bản thân mình và bên trong người cha của mình. Cả hai người đều vừa thành tâm ngưỡng mộ người đẹp, vừa ham muốn chiếm đoạt nàng với nhục cảm của một “con nhện dâm ác” (một hình tượng ám ảnh, lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm của Dostoievski). Và nếu ảnh hưởng tốt lành của người mẹ, của người nông phu Makar Ivanovich, của chính người đẹp đã giúp người thanh niên Arkadi chiến thắng cám dỗ, thì người cha uyên thâm cao ngạo của chàng đã nếm trải một thất bại ê chề. Sau cuộc khủng hoảng tâm thần kết thúc bằng sự mất trí nhất thời, con người lưỡng phân ấy trở về với trạng thái chất phác của trẻ thơ. Trí tuệ cao siêu, sáng láng đã bay mất khỏi y vĩnh viễn.
Bi kịch của Versilov, theo tư tưởng của tác giả, là bi kịch điển hình của con người trí thức Nga trong thời đại mới, con người đã cắt đứt những sợi dây tinh thần gắn bó với nhân dân mình, đã hồ nghi chân lí của nhân dân (chân lí ấy, như Dostoievski đinh ninh, chính là chân lí của Kitô), sao lãng nó trong những cuộc phiêu bạt tìm kiếm mà không tìm ra chân lí mới, đức tin mới. Dostoievski sẽ còn nói nhiều về cái bi kịch này trong văn chính luận của mình, đặc biệt trong bài nói nổi tiếng về Pushkin, cố gắng chỉ ra con đường khắc phục nó - vận mệnh của dân tộc Nga, theo ông, phụ thuộc vào việc có khắc phục được bi kịch này hay không. Trong tiểu thuyết Đầu xanh tuổi trẻ, lần đầu tiên trong thế giới nghệ thuật của Dostoievski, xuất hiện hai nhân vật hiện thân cho chân lí của nhân dân lao động , cả hai đều là những nông nô cũ : Sophia Andreevna, vợ ngoài giá thú của Versilov, và Makar Ivanovich, chồng chính thức của bà. Với hai hình tượng này, Dostoievski đi thêm một bước trong cuộc tìm kiếm và thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của mình, khắc họa “con người đẹp chính diện” - nhiệm vụ mà ông vẫn coi là quan trọng bậc nhất và “không có gì khó hơn”. Vậy Dostoievski có thành công hay không trong việc xây dựng hai nhân vật “đẹp chính diện này”?
Trong công luận Nga và quốc tế, một thời khá phổ biến định kiến cho rằng sở trường, sức mạnh của Dostoievski là ở sự mô tả những nhân vật tiêu cực, những con người hoặc độc ác bẩm sinh, hoặc đã để cho tâm hồn mình trở thành chiến trường của cái thiện và cái ác, với sự ưu thắng của cái ác, còn mỗi khi khắc họa những nhân vật tích cực là người đọc cảm thấy ngay tác giả này non tay, không tin vào chính mình, thậm chí khiên cưỡng, sống sượng. Bị ấn tượng mạnh bởi bảng màu sơn dầu sẫm chói cần thiết cho sự khắc họa những hình tượng kiểu thứ nhất, người ta ít nhạy cảm với những chân dung tế nhị, với những nét chấm phá thanh thoát được thực hiện bằng màu nước hoặc màu bột. Hình tượng Sophia Andreevna trong Đầu xanh tuổi trẻ thuộc kiểu chân dung như thế - một trong những hình tượng người mẹ và người vợ cảm động nhất và sâu sắc nhất trong văn học Nga. Versilov nói với con trai mình : “Sự khiêm nhường không chờ đền đáp, sự tự hạ mình và đồng thời sự rắn rỏi, sức mạnh, sức mạnh thực thụ - đó là tính cách của mẹ con”. Người phụ nữ hết mực dịu hiền, hi sinh tất cả vì chồng con ấy không biết nhượng bộ trong những việc quan hệ đến đạo lí, tín ngưỡng. Đức tin tôn giáo thường trực và nồng nàn, không thuyết lí mà hành động thiết thực tạo nên cốt cách của người phụ nữ này, khác với sự thiếu cốt cách của người chồng hào hoa thâm thúy. Cũng cốt cách ấy, cũng đức khiêm nhường đi đôi với lòng tự trọng, lòng yêu Chúa hòa hợp với lòng yêu đời nằm sâu trong hình tượng Makar Ivanovich - một nông phu tự nguyện rời bỏ gia đình để làm người lữ khách thần hiệp. Versilov phiêu du khắp Châu Âu tìm căn cứ mới cho đức tin đã lung lạc - Makar Ivanovich du ngoạn trên đất nước mình với niềm tin tỏa sáng trong lòng. Ông tin: “Tất cả đều là huyền bí, huyền bí của Thượng Đế cùng khắp. Trong mỗi thân cây, mỗi cọng cỏ đều chứa đựng huyền bí”, “tất cả đều do Thượng Đế trao gửi cho con người”, vì thế mà thiêng liêng. Tương lai của loài người trong Thượng Đế sẽ huy hoàng, “địa cầu sẽ ngời sáng hơn mặt trời, ưu phiền sầu muộn sẽ không còn nữa, mà chỉ có một thiên đường duy nhất, vô giá...”
Những con người như Makar Ivanovich có thật trong hiện thực Nga và không chỉ trong quần chúng nhân dân (Vladimir Soloviev, đại trí thức và bạn vong niên của Dostoievski, cũng là một lữ khách thần hiệp đặc thù). Trong tiểu thuyết của Dostoievski, đức tin của người nông phu già này có tác dụng giáo dưỡng tích cực đối với người thanh niên đầu xanh tuổi trẻ mới bước vào đời và đã không tránh khỏi ngã vấp. Song có điều đức tin ấy trong sáng và lạc quan một chiều, nó không trả lời quá nhiều câu hỏi, nó không trông thấy hoặc nhắm mắt làm lơ trước nhiều mặt đen tối, bất hảo của thế giới này, nó không biết đến những thắc mắc, trăn trở, hoài nghi chính đáng của Versilov, cho nên nó khó làm thỏa lòng đến cùng người đọc. Và chắc nó cũng không thỏa mãn cả tác giả Dostoievski. Đức tin mà nhà văn này tìm kiếm phong phú, phức hợp và bao quát hơn nhiều. Ông sẽ thể hiện nó đầy đủ và chân xác trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov. Đầu xanh tuổi trẻ vừa là một thành tựu sáng tạo có giá trị tự thân, vừa là bước chuẩn bị cần thiết cho kiệt tác vĩ đại nhất, nơi tổng hợp tất cả những đề tài và tư tưởng chính yếu của Dostoievski.
XII
Rời bỏ tuần báo Người dân quốc đầu năm 1874, Dostoievski mong muốn sẽ tiếp tục chuyên mục Nhật kí nhà vănở một cơ quan ngôn luận nào khác, hoặc dưới hình thức một xuất bản phẩm độc lập. Sau khi hoàn thành tiểu thuyết Đầu xanh tuổi trẻ từ đầu năm 1876, Dostoievski thực hiện ý đồ này, cho in Nhật kí nhà văn như một tạp chí định kì. Trong hai năm, ông ra được 24 số, đến đầu năm 1878 tạm dừng để tập trung viết Anh em nhà Karamazov. Giữa năm 1880, ông ấn hành một số đặc biệt công bố bài nói của mình về Pushkin. Viết xong Anh em nhà Karamazov, ông trở lại với Nhật kí nhà văn, nhưng vừa mới hoàn thành số tháng Giêng 1881 thì qua đời. Như vậy, ta có tất cả 26 số tạp chí rất hiếm có của một tác gia.
Nhật kí nhà văn có lối viết tự nhiên, thoải mái của nhật kí và giọng tâm tình của những bức thư gửi bạn bè. Dostoievski tâm sự, trao đổi với bạn đọc về những vấn đề ông đương quan tâm lúc này và những việc mà họ quan tâm, thiết lập quan hệ đối thoại thân mật giữa mình với công chúng độc giả Nga. Nhật kí dành khá nhiều chỗ cho những hồi ức và truyện kể về tuổi thơ, về những bước đầu tiên trên đường văn nghiệp, về bạn bè và họ hàng - Dostoievski đã cập kè tuổi già và có nhu cầu nhớ lại quá khứ. Cũng trong Nhật kí này, ông in những truyện ngắn của mình, trong đó Dịu hiền (1876) và Giấc mơ của con người nực cười (1877) là hai viên ngọc sáng. Dostoievski chăm chú theo dõi sáng tác của các đồng nghiệp. Ông là một trong những người đầu tiên thấu hiểu giá trị của cuốn tiểu thuyết mới Anna Karenina của L. Tolstoi khi nó còn đăng tải trên tạp chí; ông tự hào khẳng định: trong văn học châu Âu thời ấy, không có gì có thể đặt ngang hàng với trước tác này của thiên tài Nga. Từ đó mà ông xây kì vọng về ảnh hưởng của “tư tưởng Nga” đối với nhân loại.
Bận tâm tha thiết với thời cuộc, Dostoievski bàn luận nhiều về những vấn đề thời sự, trong đó nổi cộm lên cuộc đấu tranh võ trang của các dân tộc Xlavơ ở Đông Âu nhằm lật đổ ách thống trị của đế quốc Thổ Nhĩ Kì. Dostoievski nhìn vấn đề chủ yếu từ góc độ tôn giáo: ông nhiệt liệt ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của những người anh em cùng tín ngưỡng. Và khi Xa hoàng tuyên chiến với Thổ để chi viện cho phong trào giải phóng ở Balcan, Dostoievski - một người cương quyết phản đối bạo lực cách mạng - đã không do dự cổ vũ cho cuộc “thánh chiến” này. Nhưng ông đã đi quá xa: ông hô hào chiếm Constantinople, thủ đô vương quốc Hồi giáo, với lí do xưa kia nó là trung tâm của thế giới Kitô giáo ở phương Đông, mà không nhận ra rằng bằng cách ấy, ông phụ họa cho những ý đồ bành trướng đại Nga rất tầm thường. Đây là điểm yếu nhất của Dostoievski - nhà tư tưởng: lúc say sưa, ông hay quá đà, mất tỉnh táo sáng suốt. Điều này, ông tự biết, ông xỉ vả mình trong thư gửi một người bạn thân: “Tệ nhất là cái bản tính của tôi đốn mạt và quá hăng say. Trong mọi việc tôi đều đi đến giới hạn cuối cùng, suốt đời đi quá giới hạn”. Biết mà không sửa chữa được: chủ nghĩa yêu nước của Dostoievski - nhà chính luận nhiều khi trượt sang chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, niềm tin vào tiền đồ của tổ quốc chuyển hóa thành thuyết về sứ mạng cứu thế của nước Nga, lòng sùng tín chân lí của đạo Kitô nguyên thủy dẫn đến việc đề cao một chiều Chính giáo và bài bác Công giáo như một giáo phái đã phản bội Chúa, v.v... Những sai lầm như thế phương hại nghiêm trọng giá trị của văn chính luận Dostoievski . Nhưng nhà văn của chúng ta có nhiều ý kiến xác đáng về những vấn đề xã hội và hay mẫn tiệp lạ thường, mỗi khi đề cập những vấn đề con người. Ở đây, ông tư vấn và hướng dẫn không chỉ cho những người cùng thời đại và cùng dân tộc với ông. Một thí dụ: theo dõi báo chí, Dostoievski để ý đặc biệt đến những vụ tự sát có xu hướng gia tăng trong thanh niên, sinh viên thuộc tầng lớp trung và thượng lưu xã hội. Những người tự sát ấy không phải là nạn nhân của bất công xã hội, họ sinh ra và lớn lên trong những hoàn cảnh thuận lợi, họ có khả năng tiến thủ, đạt vị trí cao sang trong xã hội, họ cũng không thất tình, không mắc chứng bệnh tâm thần... Vậy cái gì khiến họ kết liễu cuộc đời thanh xuân của mình? Dostoievski giả định với xác suất cao: trong đa số trường hợp, trực tiếp hay gián tiếp, những con người ấy tự sát vì một nguyên nhân siêu lí - họ không tìm thấy ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Mà cái mục đích và ý nghĩa ấy của nhân sinh, xét đến cùng, phải là sự bất tử của con người và loài người. Và chừng nào khoa học chưa đem lại bất tử cho con người, nó còn cần đến tôn giáo hứa hẹn cho nó sự sống vĩnh viễn sau cái chết tạm thời. Do đó: ý tưởng bất tử trong tôn giáo làm cho con người quý giá sự sống hơn, yêu vạn vật, yêu nhân loại, yêu tạo hóa, tức là làm cho sự tồn sinh của nó đầy ắp ý nghĩa. Và ngược lại, tước đoạt đi của con người niềm tin vào sự bất tử, bắt nó bằng lòng với một hạnh phúc hữu tử ở cõi trần, như viên Đại pháp quan sẽ làm trong truyền thuyết được kể trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov, tức là biến loài người thành một cái gì đó giống bầy gia súc vô tri thức. Rất nhiều sợi chỉ tư tưởng dẫn thẳng từ Nhật kí nhà văn đến kiệt tác cuối cùng của Dostoievski.
XIII
... Một thị trấn Nga mang cái tên tiếu lâm: Scotoprigonevsk. Ở đây xảy ra một vụ án mạng: lão điền chủ họ Karamazov, tham lam, gian lận và trụy lạc khét tiếng, bị giết và cướp tiền. Mọi tang chứng và nghi ngờ đổ vào người con trai cả của lão, hai cha con đã từ lâu xích mích xung quanh vấn đề gia sản và gần đây lại trở thành tình địch, Dmitri (tên người con trai) hơn một lần dọa sẽ giết bố. Tác giả một lần nữa, sau Đầu xanh tuổi trẻ, kể lịch sử “một gia đình ngẫu hợp”, mà trong đó từ lâu đã tan vỡ mọi kỉ cương nền nếp, mọi quan hệ nghĩa tình. Sự “bất khả ái” và “bất khả kính” của người cha đạt mức độ gây tởm. Fiodor Karamazov là hiện thân của tính dâm dục, không phải tính ham nhục dục tự nhiên, biết mình là xấu nên biết tự che đậy, mà là tính dâm ô trơ trẽn, thách thức xã hội, khoái chí vì sự sa đọa xấu xa của mình. Trong thế giới của Dostoievski tất cả đều có nguồn gốc tinh thần, đều là sự lựa chọn có ý thức. Sự dâm đãng vô độ ở Karamazov - cha thể hiện một nhãn quan và một lối ứng xử với đời: trên đời không có gì thiêng liêng, hãy làm cái ta thích và cười vào mặt ai chê bai ta. Hình tượng này là một biến tấu của hình tượng con người “từ nhà hầm”, con người quyết không tin vào Thượng Đế và tự dập tắt hình ảnh của Thượng Đế ở trong mình, con người tự “cởi trói” khỏi mọi chuẩn mực đạo đức xã hội để trở thành nô lệ cho những dục vọng cá nhân. Cái dục tính “sưng tấy”, quá khích, không biết thỏa mãn ấy trở thành một sức mạnh độc ác, phá hoại nhân cách và phá hoại sự sống. Karamazov - cha không chỉ bất hạnh và cô đơn trong cuộc đời mình, theo quy luật tự nhiên lão còn di truyền cho tất cả các con của lão cái máu dâm dục - “chất Karamazov”, chất ấy sẽ biểu hiện ở mỗi người con một cách khác. Dị thường nhất, quái đản nhất là sự chuyển hóa máu dâm dục ấy thành bạo dâm ở đứa con hoang và con hầu Smerdiakov. Smerdiakov sẽ tìm khoái lạc không phải ở thỏa mãn nhục dục, mà ở sự hành hạ, sát hại những sinh linh khác. Hắn sẽ trả thù cuộc đời bằng cách giết chính người đã cho hắn sự sống - cha hắn. Bên cạnh Smerdiakov, người tiếp thu nhiều nhất và trực tiếp nhất cái di sản khốc hại của người cha là Dmitri - kẻ thù và tình địch của thân phụ mình, nhưng Dmitri đã là một nhân cách phức hợp hơn người anh em vô thừa nhận của mình rất nhiều.
Hình tượng này được cả thế giới đánh giá không sai là một trong những phát kiến nghệ thuật, nó cũng là phát kiến nhân học, sáng giá nhất của Dostoievski. Hầu như tất cả các khả năng nhân tính đều tập trung ở mức độ cao trong con người này: dâm loạn và thánh hạnh, tàn nhẫn và độ lượng, hung ác và đôn hậu, ti tiện và hào hiệp, bê tha và cao khiết. Biên độ của những dao động nội tâm, của những khát vọng và hành động mâu thuẫn nhau ở Dmit’ri khiến bản thân chàng kinh ngạc. Chủ yếu dựa vào những sở nghiệm của mình, Dmit’ri khái quát: “Con người rộng quá. Giả sử có thể thì tôi sẽ thu hẹp lại”. Cũng như cha mình, Dmit’ri đam mê tửu sắc, nhiều phen ngập ngụa trong trụy lạc, biết cái “ngọt”, “cái đẹp” của trụy lạc, yêu cả sự tàn bạo gắn liền với trụy lạc, xem mình là một “con rệp”, “con côn trùng độc ác”. Nhưng trong tâm hồn mù lòa ấy có cánh cửa mở để tiếp nhận ánh sáng khải ngộ của cái đẹp chân chính; bị nô dịch bởi “lí tưởng Sodome”(*), nó vẫn tôn thờ “lí tưởng Đức Mẹ”; ý thức được mình đương bất lực đi theo quỷ dữ, nó vẫn kính yêu Thượng Đế như con kính yêu cha và “cảm thụ được niềm vui, mà không có nó thế giới không thể đứng vững và tồn tại”. Đức tin chưa tắt trong phút kịch biến đã giữ tay Dmit’ri lại, không cho phạm tội giết cha. Con người sa đọa, lầm lỗi ấy khao khát được giải cứu, và cơ hội trùng phùng trong tiểu thuyết mở ra cho nó một con đường giải cứu - qua tình yêu đầy hi sinh của một giai nhân đức hạnh. Nhưng cái tình yêu thương hại và khắc nghiệt, tình yêu kiêu hãnh về đức hạnh của mình ấy không cảm hóa được nó, nó mau chóng chối từ để đi theo một đam mê sét đánh, thà chết bởi đam mê ấy, chứ không sống trong hạnh phúc khiên cưỡng của tình yêu duy ý chí. Và hóa ra trái tim của nó đã lựa chọn sáng suốt: “con quỷ cái” ấy (Grushenka), mà ban đầu nó vừa đắm say vừa căm ghét, hóa ra cũng là một tâm hồn sa ngã khao khát hoàn lương, tìm kiếm sự cảm thông tri ngộ và bản thân giàu khả năng cảm thông tri ngộ, biết tự hi sinh mà không ý thức đó là sự hi sinh... Sự giải cứu đến với Dmit’ri thông qua sự thăng hoa tình dục thành tình yêu, thông qua sự tự phán xử và tự trừng phạt vì cái chết của người cha - chàng chấp nhận không chống kháng bản tuyên phạt oan trái của tòa án, coi đó là một quyết định tự nguyện chuộc tội. Con người của Dmit’ri cao lớn lên, tự tẩy rửa khỏi những tì vết nội tại, trở nên minh mẫn tự chủ qua khổ đau, qua những đòn giáng của số phận. Dmit’ri là nhân vật của tiểu thuyết - bi kịch, chứ không phải của kịch mêlô (tương đương với kịch cải lương ở ta). Một chất thơ hào mại của tự do tinh thần toát ra từ toàn bộ sự phát triển của nhân cách nhiều chiều này. Đề tài cái tự do của con người, hơn một lần đã được đặt ra trong sáng tác của Dostoievski, ở Anh em nhà Karamazov sẽ được khơi sâu và soi sáng từ nhiều điểm nhìn mới, thông qua nhiều tuyến chủ đề và nhiều nhân vật mới.
Nếu Dmit’ri Karamazov trước hết là con người tình cảm thì em trai cùng cha khác mẹ của chàng, Ivan, trước hết là con người của trí tuệ. Ivan là nhân vật thông minh nhất, cả nghĩ nhất trong tất cả các nhân vật của Dostoievski (mà trong thế giới của ông, ai ai cũng cả nghĩ, ai ai cũng thông minh theo cách của mình). Không phải ngẫu nhiên tác giả để cho nhân vật này phát biểu những tư tưởng thâm thúy nhất, tinh vi huyền diệu nhất trong tiểu thuyết. Nhưng Ivan hoàn toàn không phải là cái loa của tác giả, mà là một nhân cách, một vũ trụ tinh thần độc lập. Trong cái nhân cách cũng nhiều chiều, được xây dựng trên nhiều tọa độ đan chéo ấy, ta thấy nổi lên, như một dấu hiệu của thời đại, độ vênh lớn giữa phát triển lí tính và phát triển đức tính, giữa “tài” và “tâm”. Đây là nguồn gốc của bi kịch con người của Ivan. Trí tuệ siêu việt không đi đôi với trái tim đôn hậu luôn luôn khiến Ivan nhìn người đời bằng con mắt khinh bỉ, nuôi dưỡng ở chàng lòng cao ngạo quá mức. Thái độ khinh thị, ngạo mạn ấy khiến Ivan hà khắc với mọi biểu hiện không hoàn hảo ở những người xung quanh mình và mất cảnh giác với sự không hoàn hảo của chính mình. Ngay với người cha và người anh xung khắc nhau, Ivan cũng chỉ một lòng khinh ghét, đến mức muốn cả hai biến khỏi mặt đất. “Con vật đốn mạt này ăn thịt con kia, cả hai đều đáng kiếp!” Cái ý muốn độc ác ấy, mà nhà đại trí thức Ivan giữ trong tiềm thức, Smerdiakov đê tiện nghe thấy và đã biến thành hành động. Smerdiakov giết cha, cướp tiền, đinh ninh rằng có Ivan đồng tình và cho phép, có Ivan chia sẻ trách nhiệm. Sau này, trước khi treo cổ tự tử để không phải ra tòa, hắn nói thẳng vào mặt Ivan: “Ông mới là kẻ chủ tâm giết cha, còn tôi chỉ là đầy tớ trung thành, người thừa hành ý chí của ông!” Smerdiakov, “kẻ song trùng” của Ivan, đã mở mắt cho triết nhân cao đạo này thấy hết cái phần thấp kém, đáng ghét bỏ trong nhân cách của chính chàng; đồng thời hắn bắt Ivan “thưởng thức” cái chiến quả thực tiễn của triết lí mà chàng vẫn rao giảng: nếu không có sự bất tử, tức là cuộc sống vĩnh hằng trong Thượng Đế, thì loài người có thể ứng xử với nhau thế nào cũng được, tất cả đều được cho phép. Ivan nhận ra mình là kẻ đồng lõa giết cha cả về mặt tâm lí lẫn lí thuyết (một lần nữa, Dostoievski cảnh báo về cái lợi hại khôn lường của mọi lí thuyết!). Không chịu đựng được sự thật quá phũ phàng, nhân vật của Dostoievski mất trí.
Ngay trước khi loạn trí, Ivan nói như ném vào mặt mọi người tập hợp trong tòa án: “Ai ai cũng muốn cha chết!” Lời độc địa ấy không phải là lời vu khống hoàn toàn. Trong bốn anh em nhà Karamazov, ba người trực tiếp hay gián tiếp giết cha, người thứ tư có thể bảo vệ được cha mình, nhưng đã không bảo vệ. Thảm kịch của gia đình Karamazov, theo tư tưởng của Dostoievski, điển hình cho một trạng thái nhân thế mà trong đó “cha là từ đáng ghét nhất, còn con là từ hạ nhục nhất”, như một triết gia Nga (N. Fiodorov), mà Dostoievski rất hâm mộ, nói. Trong loài người ghét bỏ cha ông thì Thượng Đế cũng không được sùng tín. Môtip con giết cha trong tiểu thuyết đan bện khăng khít với môtip loài người nổi dậy chối bỏ Thượng Đế. Ivan Karamazov nổi dậy chống Thượng Đế, và đây là con người nổi loạn có lực nhất trong thế giới nghệ thuật của Dostoievski. Ivan xuất phát từ tình yêu thương đồng loại. Không yêu được những con người gần cận, Ivan yêu tha thiết nhân loại xa viễn, thương xót thân phận khổ đau của họ. Những nỗi thống khổ không thể biện giải của muôn triệu trẻ thơ vô tội, còn hoàn toàn trong trắng, chưa có ý niệm về thiện ác là lập luận chính mà Ivan dùng để buộc tội Thượng Đế không có mắt. Ivan không chấp nhận hạnh phúc đại đồng trong tương lai phải mua bằng máu và nước mắt vô tội hôm nay. Ivan “kính cẩn” trả lại Thượng Đế cái vé vào thiên đường đại đồng, vì phải trả cho nó một giá quá đắt, vượt sức của con người. Một cách cực đoan, Ivan Karamazov diễn đạt nỗi đau của chính Dostoievski ,con người “suốt đời bị Thượng Đế hành hạ” bởi vì ông cũng không bao giờ là con chiên ngoan đạo một chiều của Ngài. Yêu Thượng Đế và đinh ninh rằng không có niềm tin vào Thượng Đế chí thiện, chí tôn thì loài người sẽ không tồn tại được, Dostoievski lục vấn Ngài bằng những câu hỏi mà cho đến bây giờ thần học Kitô giáo vẫn vắt óc tìm giải đáp. Hình như ông tôi luyện đức tin trong sự đối diện và đối thoại không ngừng với cấp cao nhất. Một trong những cuộc đối thoại như thế được ghi lại cho muôn đời trong Truyền thuyết về Đại pháp quan.
Trong kiệt tác hay được so sánh với các sách thánh của loài người này ta chỉ dừng lại ở một khía cạnh nội dung. Viên Đại pháp quan thương người nhưng không tin vào con người và từ đấy mà không tin vào Thượng Đế. Đại pháp quan nói với Kitô, con Chúa Trời: “Xin thề, con người được tạo ra yếu thấp hơn ông nghĩ về nó”. Cái mà con người cần nhất là bánh mì (tức là sự no đủ vật chất) thì Kitô không bảo đảm cho nó, nhưng Ngài lại ban cho nó cái mà nó không chịu đựng nổi - tự do tinh thần, tự do lương tâm. Tự do đi đôi với trách nhiệm, mà con người của số đông sợ nhất trách nhiệm và chỉ mong có ai gánh trách nhiệm ấy cho nó. Do bản chất thấp kém ti tiện, Đại pháp quan suy luận tiếp, loài người sẽ chẳng bao giờ chia sẻ ổn thỏa phúc lợi vật chất với nhau, cho dù những phúc lợi ấy có thừa, bao giờ cũng cần một thiểu số đặc tuyển đứng ra đảm trách việc phân phối. Miếng bánh mì trần gian mà con người tự làm ra, nhưng không chia được với nhau, khi được phân phối từ trên xuống, sẽ tự trở thành “phép mầu”, cái phép mầu mà loài người luôn luôn chờ mong ở Thượng Đế nhưng chẳng bao giờ nhận được. Vậy thì, vì hạnh phúc và yên bình của loài người, cái thiểu số đặc tuyển đã nắm được phần xác phải nắm cả phần hồn của họ, phải độc chiếm chân lí và làm cho loài người chỉ tin vào một chân lí được phát ra từ miệng những người cai trị. Đó là cốt lõi của cái học thuyết về “phép mầu, bí mật và quyền uy” mà Đại pháp quan mưu toan dùng để thống trị mãi mãi loài người, để sửa đổi lại cái “kì công” kém hiệu quả của Kitô. Đại pháp quan - con chiên bề ngoài của Kitô - thả Kitô ra khỏi nhà giam và nói: “Hãy đi và đừng bao giờ trở lại”.
Dễ thấy là ở Đại pháp quan, lòng thương người chỉ là cái áo bên ngoài che giấu sự khinh bỉ vô hạn bên trong. Đại pháp quan chủ trương chăn dẫn loài người như chăn dẫn những động vật bầy đàn. Đại pháp quan chủ mưu kiến tạo một tôn giáo mới, trên cơ sở thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người mà bóp chết những nhu cầu tinh thần của nó, tước đoạt hoàn toàn tự do lương tri và quyền tự quyết của nó, bắt nó tôn thờ những chúa đất đã chiếm ngôi Chúa Trời. Tôn giáo của Dostoievski khác một trời một vực tôn giáo của Đại pháp quan. Đó là tôn giáo của những đứa con tự do, bình đẳng và hợp quần của một người cha thống nhất. Nó không cần đến phép mầu, bí mật và quyền uy. Nó có yếu tố siêu nhiên, nhưng cái siêu nhiên ở đây không hoàn toàn xa lạ, không dị chất với cái tự nhiên, mà là nguyên nhân và kết quả của sự hoàn hảo hóa cái tự nhiên. Giêxu Kitô, một thần - nhân hoàn hảo đã chiến thắng cái chết, theo Dostoievski, là mẫu mực lí tưởng của con người. Truyền thuyết về Đại pháp quan, bề ngoài là một lời tố cáo, lời buộc tội đanh thép Kitô, đích thực là lời ngợi ca kín đáo, thấm thía. Nghệ thuật ngôn từ phức điệu ở đây đạt độ siêu đẳng. Trong Truyền thuyết, Kitô không nói một lời nào, cứ để cho Đại pháp quan một mình độc thoại, nhưng càng biện bạch, tên giáo chủ phản Chúa này càng cảm thấy rõ Kitô biết trước tất cả những gì y sẽ nói và chỉ một sự hiện diện của Ngài, sau mười lăm thế kỉ vắng mặt, đã thừa sức đập tan mọi luận điệu của y.
Tác giả tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov không ngẫu nhiên chuyển giao “tư cách tác giả” của chương Đại pháp quan cho Ivan Karamazov chứ không phải ai khác : giữa nhân vật này với vị giáo chủ kia có những thông số chung cơ bản. Cũng như Đại pháp quan, Ivan liệt mình vào cái thiểu số rất ít ỏi vượt hẳn lên bên trên loài người, do thấu hiểu bản chất thấp hèn của con người phổ biến mà bác bỏ đạo đức, luân lí, tín ngưỡng của nó, cho phép mình “bước qua” tất cả những thứ ấy. Vì vậy cho nên mỗi khi phát hiện ra trong mình những biểu hiện của con người bình thường, Ivan phẫn nộ xung đột với chính mình. Và khi cuộc xung đột ấy đạt cao điểm, người trí thức siêu hạng này bắt gặp trong tâm thần phân liệt của mình một sinh linh thù địch muôn đời cả với thần thánh lẫn con người: quỷ dữ. Quỷ dữ xuất hiện trong tiểu thuyết như một “kẻ song trùng” khác của Ivan siêu hạng bên cạnh Smerdiakov mạt hạng ,và hóa ra nó cũng tầm thường, dung tục như Smerdiakov. Nó hồ nghi giễu cợt tất cả những ý tưởng cao siêu, phức tạp của Ivan, lược giản chúng đến mức thô thiển và quy về những động cơ thấp kém nhất, ti tiện nhất; đồng thời, nó chế nhạo, phỉ báng ở Ivan cái phần con người bình thường còn lại, mà chàng phải diệt trừ cho bằng được, nếu muốn thực sự trở thành “siêu nhân”. Bi kịch và đồng thời diễm phúc của Ivan (cũng như của Raskolnikov trước đó) là chàng không thể diệt trừ đến cùng cái chất người ấy ở trong chàng: tình yêu sự sống, yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp, yêu những thành quả cao quý của văn hóa loài người, khát khao sự tri ngộ, cảm thông của đồng loại... vẫn gắn bó Ivan với cuộc đời. Thất bại của Ivan, ở một phương diện quan trọng, là thất bại của lí trí và lí tính thuần túy trước “cuộc sống sống động” (một tổ từ và một tư tưởng mà Dostoievski rất yêu chuộng) rộng lớn và phong phú hơn nó rất nhiều, luôn luôn uốn nắn nó, không để cho nó chiếm vị trí độc tôn, chi phối toàn bộ cuộc sống con người. Trong cuộc sống của con người và loài người bao giờ cũng có chỗ và phải để chỗ cho tình cảm và trực giác tự nhiên, cho đức tin hồn nhiên, cho cái thiện nằm sâu hơn và vững chắc hơn cái ác trong bản chất con người. Trong Anh em nhà Karamazov, cái thiện ấy và đức tin ấy biểu lộ tập trung qua hình tượng Aliosha, em trai Ivan, và cha trưởng lão Zosima.
Theo ý đồ của tác giả nêu trong Lời nói đầu, Aliosha mới là nhân vật chính của bộ tiểu thuyết sẽ gồm hai tập, ở tập đầu Aliosha còn chưa thành niên và không tham gia trực tiếp vào những sự kiện được miêu tả. Aliosha chứng kiến và nghe nhiều hơn nói và hành động. Thế nhưng rất nhiều nhân vật trong truyện bị cuốn vào hành động lại hướng về người thanh niên trẻ măng này như hướng về lương tâm của chính mình. Với họ, Aliosha là người hòa giải, người bênh vực, người khuyên bảo, người đàm đạo tâm tình. Trong một nhân quần bị xâu xé đến tan nát vì thù ghét và nghi kị, Aliosha gieo hạt giống không băng hoại của sự tin cậy và cảm thông. Bằng tình mến yêu con người xuất phát từ đáy lòng, bằng thái độ trân trọng đối với từng người, Aliosa đến được với hầu hết mọi người, cảm hóa được người khác mà không mảy may từ bỏ bản thân mình. Do bản chất trong sáng vô tư, con người này không có mặc cảm, không sợ bị khinh bỉ, xúc phạm, hạ nhục. Yêu đời và thích giao lưu với những người khác, nó dễ hòa nhập với ngoại giới. Một nhân vật phụ trong tiểu thuyết nói về Aliosha: “Có lẽ đây là con người duy nhất trên đời, mà nếu bỗng nhiên anh bỏ nó một mình, không một đồng xu dính túi giữa quảng trường của một thành phố triệu dân lạ lẫm, thì nó vẫn không thể nào chết vì đói rét, bởi vì lập tức sẽ có người cho nó ăn, lo cho nó chỗ ở, mà nếu họ không lo, thì nó sẽ lập tức tự lo, mà việc ấy sẽ chẳng làm cho nó mất công sức và thể diện tí nào, và người giúp đỡ nó cũng chẳng cảm thấy một gánh nặng nào, ngược lại, có thể chỉ thấy thú vị”. Aliosha là một “thiên tài của nhân tính”, chúng tôi nhớ tới định thức ấy của Chekhov, bởi vì trong các nhân vật của Dostoievski, nhân vật này gần gũi nhất với bút pháp Chekhov: không có gì đặc sắc, không có gì nổi bật, gần như mờ nhạt bên cạnh những nhân vật bi kịch, nó vẫn ăn sâu vào trí nhớ người đọc, thu hút cảm tình của ta từ lúc nào ta không biết. Giữa Aliosha Karamazov và công tước Mưskin có nhiều nét chung, nhưng tác giả có dụng ý nhấn mạnh ở Aliosha tính hoàn toàn bình thường, sự khỏe mạnh tinh thần và thể chất của con người này. Khác với một Mưskin hầu như phi giới tính, Aliosha mang trong mình dòng máu Karamazov, biết sức mạnh của dục tính, nhục dục, rất hiểu người cha và người anh cả của mình. Aliosha đi tu không phải vì muốn xa lánh sự đời, muốn bảo toàn sự trong sạch của thân thể, mà vì tâm hồn chàng khát khao sự thánh thiện và bị thu phục bởi tấm gương thánh thiện của cha trưởng lão Zosima. Ở Zosima, người thiếu niên đứng trước ngưỡng cuộc đời này tìm thấy người hướng đạo và người cha tinh thần. Vì người cha tinh thần này mà Aliosa trong giờ phút cần thiết nhất đã quên đi bổn phận đối với người cha đẻ của mình. Chàng sẽ tự nhận phần trách nhiệm của mình về cái chết của thân phụ và càng thấm thía kết luận về tình đời của cha Zosima: “Tất cả mọi người đều có tội với tất cả , vì tất cả”.
Dostoievski đã phải mất hơn một thập niên tìm kiếm, suy ngẫm để đến với hình tượng này, nó vừa phản ánh một kiểu mẫu con người có thật và chiếm vị trí quan trọng trong đời sống dân tộc Nga, vừa thể hiện lí tưởng thẩm mĩ, lí tưởng nhân văn và tôn giáo của nhà văn trong thể thống nhất khăng khít.
Nét đầu tiên khiến ta để ý ở vị tu sĩ đắc đạo cao tuổi và rất lịch lãm, rất hiểu biết con người này là thái độ tin yêu cuộc sống. Bằng nhiều chi tiết chọn lọc, tác giả làm nổi rõ tính tươi sáng của tình yêu cuộc sống không bẩm sinh mà là kết quả của một quá trình tự tu luyện rất dài lâu ấy. Nhà ở đơn sơ, mộc mạc của Zosima trồng nhiều hoa, từ tận ngõ vào. Mặc dù rất ốm yếu và đã kiệt sức, ông luôn luôn tươi cười, niềm nở và ân cần với mọi người. Zosima không hề rao giảng một triết lí khổ hạnh, ngược lại ông luôn luôn khẳng định: “Con người sinh ra để được hạnh phúc, và ai hạnh phục hoàn toàn, người ấy hoàn toàn xứng đáng được nói với mình: "Ta đã thực hiện giáo huấn của Chúa Trời trên mặt đất này". Tất cả những con người trung chính, tất cả các vị thánh hiền, tất cả các vị thánh tuẫn đạo đều hạnh phúc”. Để làm sáng rõ hơn nữa học thuyết hạnh phúc của Zosima, tác giả đặt bên cạnh ông một thầy tu khác, Ferapont - một con người hành xác, lấy sự khổ tu làm phương tiện duy nhất cứu chuộc cá nhân mình, thờ ơ với số phận của đồng loại và đố kị sâu sắc với uy tín và thanh danh của Zosima. Người chân tu Zosima hầu như không sống cho bản thân, toàn bộ thời gian và tâm trí của ông dành cho những người cần đến sự chỉ giáo, khuyến dụ, an ủi, động viên của ông. Và với mỗi người, ông tìm ra những lời cần thiết hơn cả cho họ trong lúc ấy, trong hoàn cảnh ấy.
Zosima thương yêu con người bằng “tình yêu cần mẫn” mà ông đối lập với “tình yêu mơ mộng”. Tình yêu cần mẫn tỉnh táo và tinh nhạy, nó không nuôi dưỡng ảo tưởng và ảo vọng, không đòi hỏi ở con người những kì công hào nhoáng, không chờ đợi ở cuộc đời những biến đổi mầu nhiệm, nhưng nó làm việc không biết mệt mỏi và chán nản để gìn giữ và gia tăng từng tí cái thiện, cái đẹp, giảm bớt và ngăn ngừa từng tí cái ác, cái xấu xa tội lỗi. Tình yêu cần mẫn không bao giờ say sưa vì thắng lợi nhưng cũng không lùi bước trước khó khăn, không tuyệt vọng trước thất bại, giữ niềm tin sắt son vào khả năng cải thiện xã hội và con người. Tình yêu cần mẫn, theo Zosima, là sự noi gương tình yêu của Thượng Đế đối với loài người. “Đừng sợ tội lỗi của loài người, hãy yêu con người ngay trong tội lỗi của nó, bởi vì cái đó mới tương tự với tình yêu của Chúa Trời và là tột đỉnh của tình yêu trên mặt đất”. Tình yêu cần mẫn có tác dụng không gì thay thế được củng cố ở con người niềm tin vào thần thánh và vào sự bất tử của chính mình - những cái không thể nhận biết và chứng minh bằng một lí trí thuần túy. “Trên mặt đất này, nhiều cái ta không hiểu được, nhưng thay vì cái đó, ta được ban tặng một cảm giác bí ẩn sâu kín về quan hệ sống động của ta với thế giới khác, với thế giới siêu tại và tối cao; vả lại cả nguồn cội của tư tưởng tình cảm chúng ta cũng không ở nơi đây, mà ở những thế giới khác”. Ý thức sống động và thường trực về sự gắn bó thân thiết giữa địa giới hữu tử với thiên giới vĩnh hằng làm trái tim Zosima tràn ngập niềm ngưỡng mộ hân hoan trước sự sống, trước tạo hóa. Cha trưởng lão Zosima dạy thế hệ trẻ: “Hãy yêu toàn bộ vật tạo của Chúa, cả tổng thể và từng hạt cát. Yêu từng tờ lá, từng tia sáng của Thượng Đế. Yêu loài vật, yêu cỏ cây, yêu mọi vật. Bạn sẽ yêu từng vật và sẽ thấu hiểu bí nhiệm của Thượng Đế trong vạn vật. Đã thấu hiểu một lần, bạn sẽ tiếp tục tìm hiểu nó không mệt mỏi, từng ngày từng giờ. Và cuối cùng bạn sẽ yêu cả thế giới bằng một tình yêu đại đồng, tình yêu của cả vũ trụ”. Hơn thế, “hãy hôn đất và yêu nó không mệt mỏi, không biết thỏa mãn, hãy yêu mọi người, yêu tất cả, hãy tìm sự hân hoan và cuồng hoan trong tình yêu ấy. Hãy rỏ ướt mặt đất bằng nước mắt sướng vui và hãy yêu những giọt nước mắt ấy của mình. Đừng xấu hổ sự hân hoan ấy, hãy quý giá nó, bởi lẽ đấy là tặng phẩm của Chúa”... Đức tin của cha Zosima, như ta thấy, không giáo điều, không chuyên biệt, nó có nội dung gần gũi với các nền tôn giáo lớn khác của cả phương Tây lẫn phương Đông. Và cũng thế, học thuyết về tình yêu thăng thượng mà Zosima truyền giảng chứa đựng những chân lí minh triết không thuộc riêng đạo Kitô, mà là của toàn thể loài người .
Cha Zosima trước khi qua đời khuyên cậu học trò Aliosha Karamazov hãy rời bỏ tu viện, trở về với đời thường, cố gắng “đắc đạo” trong cuộc sống thế tục: “Cuộc đời sẽ mang lại cho con nhiều nỗi bất hạnh, nhưng con sẽ hạnh phúc chính vì chúng và sẽ cảm tạ cuộc đời và khiến những người khác cũng cảm tạ - đó là cái quan trọng nhất”. Và ở cuối tiểu thuyết, ta thấy Aliosha bắt đầu sự nghiệp cuộc đời bằng việc tập hợp xung quanh mình một số tâm hồn niên thiếu, đặt nền móng cho một hội hữu ái mới, các thành viên của nó gắn bó với nhau bằng tình yêu đối với một người bạn chung mà cái chết đã cướp đi của họ. Cái hội hữu ái còn manh nha ấy có ý nghĩa tượng trưng: nó là nguyên mẫu thu nhỏ của xã hội loài người mà tư tưởng nhà văn hướng tới. Những dòng chữ cuối cùng của tác phẩm tiểu thuyết cuối cùng của Dostoievski diễn đạt ý nguyện cao nhất của ông: sự phục sinh của toàn thể loài người cho một cuộc sống tận thiện tận mĩ bất tử.
XIV
Dostoievski viết Anh em nhà Karamazov trong ba năm 1878-1880. Sức khỏe ông lúc này đã sa sút nghiêm trọng. Trong thư từ gửi bạn bè ông nói: mặc dù ông còn ấp ủ rất nhiều ý đồ sáng tạo, nhưng ông biết tháng ngày của ông đã cạn. Song cũng chính đến thời điểm này, tên tuổi và uy tín của Dostoievski mới đạt quy mô toàn quốc gia và khiến thế giới để ý đến. Nhật kí nhà văn do ông tự phát hành năm 1877 bán được mỗi số 7000 bản. Khác xa với Chàng ngốc và Lũ người quỷ ám, Anh em nhà Karamazov đăng tải trên tạp chí Người đưa tin Nga được nhiệt liệt hưởng ứng ngay từ những chương đầu. Dostoievski đương tập trung gắng sức hoàn thành tác phẩm thì một sự kiện trong đời sống văn hóa Nga khiến ông phải gác lại cuốn tiểu thuyết còn viết dở: lễ khánh thành tượng đài Pushkin ở Moskva tổ chức vào đầu tháng 6 năm 1880. Dostoievski được mời dự lễ khánh thành và phát biểu tại cuộc họp trọng thể của Hội những người yêu văn chương Nga nhân dịp này.
Dostoievski suốt đời ngưỡng mộ Pushkin, coi Pushkin là thiên tài số một của nước Nga và người thầy tinh thần của mình. Ông đã viết những bài tiểu luận về Pushkin từ đầu những năm 60. Pushkin luôn luôn ở tâm điểm của những suy ngẫm kiên trì của Dostoievski về số phận và sứ mệnh của dân tộc Nga. Ở thiên tài Pushkin, ông nhìn thấy những đặc tính cơ bản của tâm hồn dân tộc. Những thành công sáng tạo của Pushkin trong con mắt Dostoievski tiên báo tiền đồ xán lạn và vị trí vẻ vang của tổ quốc ông trong nền văn minh nhân loại. Dostoievski với niềm hứng khởi của một nhà tiên đoán dồn hết tâm huyết vào bài diễn thuyết của mình về Pushkin. Và quả thật, dưới ngòi bút Dostoievski đã ra đời một áng văn phi thường, lời phát biểu xứng đáng của một thiên tài về một thiên tài khác. Nhiều nhận xét của Dostoievski về Pushkin đã vĩnh viễn đi vào không chỉ ý thức văn học, mà cả ý thức dân tộc Nga. Lý tưởng thẩm mĩ của Pushkin, như nó được Dostoievski nhận chân, sẽ trở thành chuẩn mực đạo đức cho nhiều thế hệ người Nga sau này. Nhưng Dostoievski còn đi xa hơn rất nhiều: xem Pushkin, với năng lực “cộng hưởng với toàn thế giới” vô tiền khoáng hậu ở nhà thơ này, như một biểu hiện điển hình của “tinh thần Nga”, Dostoievski tuyên bố “sứ mệnh toàn châu Âu, toàn nhân loại” của người Nga là “nói ra lời nói cuối cùng về sự tổng hòa đồng vĩ đại, về sự hòa hợp anh em vĩnh viễn giữa tất cả các giống nòi” theo tinh thần những giáo huấn của Kitô. Kitô vẫn luôn luôn là điểm khởi nguyên và điểm kết thúc của mọi ý tưởng ở Dostoievski.
Trong ngữ cảnh bài diễn thuyết thần hứng của Dostoievski, tất cả những tư tưởng ấy đều được cử tọa hưởng ứng nhiệt liệt. Hội trường ngàn người, với sự có mặt của nhiều danh nhân thuộc về tinh hoa dân tộc, đại diện cho những khuynh hướng và lực lượng xã hội khác nhau, cuồng nhiệt hoan hô diễn giả, không cho ông rời diễn đàn. Đây là phút quang vinh nhất trong cuộc đời Dostoievski: tiếng nói của ông, niềm tin của ông tập hợp xung quanh mình cả xã hội Nga. Nhưng thắng lợi ấy đã tỏ ra rất mong manh: chỉ sau một tháng, Dostoievski đã thấy cần trả lời những ý kiến phản bác bài nói của ông bằng một số Nhật kí nhà văn đặc biệt. Sau đó ông liền trở lại với tiểu thuyết bị bỏ dở. Làm việc cật lực, “quá tù khổ sai”, Dostoievski kịp hoàn thành Anh em nhà Karamazov vào cuối năm 1880. Mệt mỏi đến kiệt sức, ông vẫn không buông ngòi bút: quá nhiều vấn đề thời sự nóng bỏng thôi thúc ông phát biểu ý kiến. Đáp lại nhiệt tình của độc giả, ông quyết định cho ra lại đều đặn Nhật kí nhà văn từ đầu năm 1881. Nhưng số tháng Giêng còn chưa in, thì Dostoievski đột ngột chảy máu phổi - di chứng của một căn bệnh kinh niên dày vò ông nhiều năm, cùng với chứng động kinh thường kì - và đã tạ thế ngày 28 tháng Giêng năm 1881 (theo lịch Nga cũ), hưởng không đầy 60 tuổi.
Cuộc sống trong thân xác phù sinh của Dostoievski kết thúc. Cuộc sống của ông trong trường cửu bắt đầu.
XV
Dostoievski viết về Gogol trong Nhật kí nhà văn (1876): “Những điều ông khắc họa... đè nặng trí óc bằng những câu hỏi quá sâu sắc, vượt sức con người; chúng khêu gợi trong tâm trí Nga những suy nghĩ bất an nhất, day dứt nhất, mà thiết tưởng, không phải bây giờ, mà còn rất lâu mới có thể giải đáp; thậm chí, liệu có bao giờ giải đáp được chúng?” Không biết lúc viết, Dostoievski có liên hệ đến bản thân hay không, nhưng cũng những lời ấy ta hoàn toàn có thể nói về Dostoievski , với một đính chính mở rộng do thời gian mang lại: những câu hỏi mà xưa kia Dostoievski đặt ra trước tâm thức Nga, bây giờ đã trở thành những “vấn nạn” của cả loài người.
Ta sẽ không lập danh sách những vấn đề ấy, một số vấn đề trọng yếu chúng tôi đã cố gắng đề cập trong khuôn khổ bài viết này. Điều nên ghi nhận và tính thêm vào công lao cho Dostoievski là ông đã cố tìm giải đáp cho nhiều câu hỏi mà ông đặt ra. Như ta thấy, nhiều giải đáp của Dostoievski là sai, có cái rất sai. Nhưng sai lầm âu cũng là số phận của con người. Xưa nay đã có ai chỉ đúng mà không sai? Huống hồ ở Dostoievski cũng như ở nhiều thiên tài khác, ngay ở cái sai cũng chứa đựng nhiều hạt nhân của cái đúng sâu xa cao viễn, có sức đơm hoa kết trái cho những tìm kiếm sáng tạo của các thế hệ mai sau. Điều này nhắc nhở ta luôn luôn giữ thái độ trân trọng, nâng niu đối với di sản của ông. Vì lợi ích của chính ta, ta không vội lên án, gạt bỏ không suy nghĩ đắn đo những cái mà ta thấy không thích hợp nữa với ngày nay trong di sản ấy. Bởi lẽ, như kinh nghiệm lịch sử cho thấy, có thể ngày mai ta sẽ cần, sẽ quý cái hôm nay ta bác bỏ hay xem thường, lãng quên.
Một đề tài lớn của Dostoievski có thể minh chứng tốt cho những điều vừa nêu. Chúng tôi muốn nói thêm đôi lời về hình ảnh con người, về chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo của Dostoievski để kết thúc bài viết này.
Cả thế giới giờ đây hâm mộ chủ nghĩa nhân đạo vô cùng sâu sắc của văn học Nga, như nó được thể hiện trong sáng tác của những nhà văn Nga lớn nhất: Pushkin, Gogol, Tolstoi, Dostoievski, Chekhov. Vậy, nói riêng về Dostoievski, có cái gì mới và đáng quý trong chủ nghĩa nhân đạo của ông?
Dostoievski yêu con người bằng một tình yêu chưa từng thấy trong văn học thế giới trước ông. Một tình yêu thường trực, tha thiết, nồng cháy, đồng chất với sự tôn thờ. Nhưng tình yêu ấy lại không hề dẫn đến lí tưởng hóa con người, đến việc nhắm mắt làm lơ trước sự bất toàn tội lỗi của con người. Ngược lại, Dostoievski như ta thấy, mổ xẻ không biết thương xót tâm hồn con người, và không chỉ ở những “siêu nhân” hay quái nhân (nhà văn cho ta thấy ở họ nhiều mẫu số chung) mà ngay ở những con người tưởng chừng hoàn toàn bình thường, hoàn toàn lành mạnh, ông cũng chỉ ra những biểu hiện thiên hình vạn trạng của cái ác bản chất, cái ác phi lí tính nằm sâu thẳm trong bản tính con người. Nếu chủ nghĩa nhân đạo cổ điển - chủ nghĩa nhân đạo của các nhà khai sáng thế kỉ XVIII, các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỉ XIX - tin vào bản chất lương thiện tự nhiên của con người, thì Dostoievski sẵn sàng khẳng định: trong mỗi người tiềm ẩn một con dã thú, một con quỷ ác. Chỉ cần ta nhớ lại chương Con quỷ nhỏ trong Anh em nhà Karamazov, nhớ lại câu chuyện ghê người giữa Aliosha Karamazov và tiểu thư Liza Khokhlakova, so sánh hình tượng Liza với hình tượng các thiếu nữ quý tộc quen thuộc của Turghenev và Tolstoi, để thấy rõ Dostoievski có cảm thức nhạy sắc thế nào về cái ác của con người. Không ít độc giả xưa cũng như nay không chịu đựng được Dostoievski, cho là ông cường điệu quá mức tính ác độc và sự biến hỏng ở con người, thế nhưng hiện thực thế giới trong thế kỉ vừa qua hình như đã nhận thực nhiều hơn cho cái nhìn tỉnh táo, quả cảm, mẫn tiệp một cách tiên tri của Dostoievski. Quả là Dostoievski giết chết nơi độc giả niềm tin ngây thơ, lạc quan một chiều về con người. Ông cũng triệt hạ mọi ảo tưởng xây dựng hạnh phúc loài người chỉ trên cơ sở cái có lợi hoặc cái hợp lí. Con người phổ biến của Dostoievski thường không chỉ tội lỗi, mà còn ngang ngược đến phi lí, nó rất hay không nghe theo trí khôn của nó, cố tình hành động có hại cho chính nó. Khả năng sa đọa và phá phách của nó là không đo được. Có nhiều lí lẽ chính đáng để không yêu nó, lên án nó, cảnh giác cao độ với nó - nhà văn Dostoievski hình như cố tình khiêu khích những phản ứng ấy ở người đọc. Song chỉ có một điều không thể nói về nó - bảo nó là một vật sống vô nghĩa. Con người của Dostoievski bạo hành, đập phá, tác hại những người khác và bản thân mình bởi lẽ hoặc nó không chấp nhận cái “nghĩa” mà những người khác áp đặt cho nó, hoặc nó đã đánh mất cái nghĩa ấy - trong cả hai trường hợp nó đều không dửng dưng với ý nghĩa của cuộc sống, nó đòi, nó tìm ý nghĩa ấy, và khi đã tuyệt vọng hoàn toàn thì nó thường tự kết liễu cuộc đời mình, chứ không chịu sống một cuộc sống vô nghĩa. Quy chế một sinh thể đơn thuần (không nói đến quy chế một bộ phận nhỏ, một “đinh ốc” trong bộ máy nào đó) là không thể chấp nhận đối với nó. Và đây là ranh giới phân chia con người của Dostoievski với con người của các dòng văn học nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây sau này, mà nhiều dòng kính cẩn ghi tên Dostoievski trên ngọn cờ của mình. Không hồ nghi những thành quả sáng tạo của chúng, không đề cập tới quan hệ giữa chúng với thực tế lịch sử hiện - đương đại, vẫn phải thừa nhận rằng không có gì xa lạ với thế giới của Dostoievski hơn “người xa lạ” của một Camus hay người “chờ Godot” của một Beckett, hay lùi xa hơn nữa vào quá khứ, người sĩ quan điều khiển cái máy hành quyết trong truyện Trong trại cải huấn của Kafka. Một con người đã chết hoàn toàn đối với xã hội loài người và chỉ sống với những nhu cầu và phản ứng bản năng của mình, người khác thụ động chờ đợi vô tận một ân nhân, một cứu tinh nào đó chỉ biết tên, chưa bao giờ biết mặt, người thứ ba tự nguyện biến mình thành một tư tế trung thành vô điều kiện của một cỗ máy giết người tự động - cả ba hình tượng con người này xa cách một trời một vực với quan niệm về con người ở Dostoievski.
Bây giờ ta hiểu vì sao Dostoievski yêu đến thế cả những nhân vật tội lỗi đến quái đản của mình. Tất cả họ đều là những linh hồn sống, họ đòi tìm ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa ấy phải ở bên trong, chứ không phải bên ngoài họ. Phẩm giá, cái đáng nể, đáng kính trọng của họ là ở đây. Và chừng nào họ còn tìm, họ có khả năng tìm tới ý nghĩa nội tại đích thực ấy, nó sẽ cải tử hoàn sinh nhân cách, tâm hồn họ, toàn bộ cuộc sống của họ. Có thể và cũng cần tranh luận với Dostoievski về cái ý nghĩa chân chính ấy - theo ông chỉ có tôn giáo mới đem lại nó cho ta - song chúng ta không thể không đồng ý với ông rằng thiếu nó thì không có cuộc sống xứng đáng với con người.
*
Đầu thế kỉ trước, một nhà văn Nga (A. Remizov) diễn đạt xác tín của mình: “Dostoievski, đó là nước Nga. Không có Dostoievski thì không có nước Nga”. Thật khó đánh giá cao hơn cống hiến của một nhà văn cho tổ quốc mình, dân tộc mình. Nhưng thiên tài càng là của dân tộc bao nhiêu thì lại càng là của toàn nhân loại bấy nhiêu. Thời kì đấu tranh không khoan nhượng, xung đột nảy lửa xung quanh di sản Dostoievski hình như đã qua. Sự nghiệp của ông giờ đây quang vinh hơn bất cứ lúc nào. Những trước tác của ông chắc chắn sẽ còn phát huy ảnh hưởng dài lâu tới tiến tình của nhiều nền văn học trên thế giới và, quan trọng hơn nữa, sẽ còn hữu ích và thiết yếu dài lâu cho cả loài người và từng con người trên hành tinh này trong cuộc tiếp tục tìm kiếm cái tận Chân, tận Thiện, tận Mĩ, trong những nỗ lực làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn, phù hợp hơn với Lý Tưởng vĩnh hằng mà nhà đại văn hào Nga suốt đời nhiệt thành phụng sự.
2001
Còn có thể dịch là Những người tội nghiệp.
(1) Một cách dịch khác : Bút ký ẩn lậu .
(*) Một chi tiết giàu ý nghĩa : trên bàn làm việc của Tolstoi ở Yasnaya Poliana còn lại mãi mãi cuốn Anh em nhà Karamazov của Dostoievski, mà Tolstoi trước khi bỏ nhà ra đi đọc lại, nhưng chưa bao giờ đọc hết .
(*) Sodome: tên một thành phố trong kinh Cựu ước, do quá vô luân và trụy lạc đã bị Chúa Trời triệt tiêu.