Năm 1982, Hạ Trọng Dực đi tiên phong trong việc dịch một chương trích từ cuốn Vấn đề thi học Dostoevsky của Bakhtin, đăng trên tập san Văn học thế giới kỳ 4. Tên tuổi của Bakhtin lần đầu tiên xuất hiện trên báo chí Trung Quốc. Tiếp đó, năm 1983, tại Bắc Kinh đã diễn ra Hội thảo văn học so sánh Trung – Mĩ do Hội văn học nghệ thuật giao lưu Mĩ - Trung và Viện khoa học xã hội Trung Quốc phối hợp tổ chức. Trong hội nghị này, ông Tiền Trung Văn đã giới thiệu bài Tiểu thuyết phức điệu và các vấn đề lí luận của nó – lí luận trần thuật của Bakhtin (xem Lí luận nghiên cứu văn nghệ kỳ 4.1983), từ đó đã mở ra màn dạo đầu cho việc nghiên cứu Bakhtin. Đây cũng là thời điểm khởi đầu cuộc tranh luận về lí luận Tiểu thuyết phức điệu xuyên suốt những năm 80.
Đối với chúng tôi khi đó, Bakhtin chỉ là một nhà lí luận văn nghệ, một nhà phê bình về Dostoevsky mà thôi. Năm 1987, sau khi các bài Tiểu thuyết phức điệu: nhân vật chính và tác giả - lí luận trần thuật của Bakhtin (Tiền Trung Văn) và Lý luận phức điệu của Bakhtin và lập trường tác giả của Dostoevsky (Tống Đại Đồ) được đăng trên những số mới phát hành của tập san Bình luận văn học nước ngoài đã thể hiện rõ cách nhìn của mỗi tác giả về lí luận tiểu thuyết phức điệu của Bakhtin, đặc biệt là vấn đề mối quan hệ giữa nhân vật chính và tác giả. Hai năm sau đó, trên Bình luận văn học nước ngoài kỳ I năm 1989 lại đăng bài Bàn về Bakhtin của Hoàng Mai.
Những bài viết trên đây cung cấp cho chúng ta những hiểu biết tương đối đầy đủ về đặc điểm, nội hàm và thực chất lí luận phức điệu của Bakhtin. Trong đó, các bài viết của Tiền Trung Văn đã chỉ rõ giới hạn của lí luận tiểu thuyết phức điệu phù hợp với tư tưởng Bakhtin, đặc biệt Tiền Trung Văn đề xuất lấy tính độc lập của ý thức bản ngã nhân vật chính và quan hệ đối thoại bình đẳng giữa nhân vật chính với nhân vật chính, nhân vật chính với tác giả để lí giải cho mấu chốt của tiểu thuyết phức điệu, quan điểm này đã nhận được nhiều ý kiến đồng tình. Còn bài viết của Tống Đại Đồ tuy thừa nhận ảnh hưởng hết sức to lớn của Bakhtin, nhưng đối với lí luận tiểu thuyết phức điệu, ông lại duy trì một lập trường phủ định. Bất luận là Tiền Trung Văn hay Tống Đại Đồ đều có một điểm chung. Họ cho rằng cái mà Bakhtin gọi là mối quan hệ bình đẳng, cùng tiến cùng lùi giữa nhân vật chính và tác giả là không thể có.
Bài viết của Hoàng Mai trong cuộc tranh luận với Tiền Trung Văn lại coi phức điệu là một phương pháp đọc chứ không phải là lí luận sáng tác, đây là cách lí giải xuất phát từ lập trường đọc hiểu của người đọc đối với tác phẩm của Dostoevsky.
Bất kể trong hoàn cảnh nào, tranh luận cũng là một điều tốt, bản thân sự gặp gỡ giữa các cách nhìn không giống nhau đã phù hợp với lí luận đối thoại của Bakhtin, tức chân lý luôn luôn được làm sáng tỏ trong đối thoại (biện luận). Còn về bài viết của Trương Kiệt, cách nhìn của ông đối với phức điệu đã vượt quá giới hạn của nó. Ông viết: “Trên thực tế quan hệ đối thoại trong tiểu thuyết phức điệu là tác giả thông qua đối thoại giữa người đọc và nhân vật chính, sức sống nghệ thuật của tiểu thuyết phức điệu - sự khác biệt giữa tiểu thuyết phức điệu và tiểu thuyết độc thoại là ở chỗ đó”. Chúng tôi phải đặt ra câu hỏi: tác giả thông qua đối thoại giữa nhân vật chính và người đọc, lẽ nào không phải là toàn bộ tiểu thuyết, thậm chí bao gồm cả thơ trữ tình, hay bao gồm các bộ môn nghệ thuật khác (như kịch, ...) đều có chức năng trên sao? Có loại văn bản nào không có tính chất này?
Cần phải thấy rằng, sở dĩ Bakhtin gọi tiểu thuyết của Dostoevsky là tiểu thuyết phức điệu vì theo ông đó là hình thức biểu hiện độc đáo, đặc sắc, cũng có thể coi đó là phong cách trần thuật của nhà văn này. Do vậy, hàm nghĩa của phức điệu có thể được lý giải theo các phương diện dưới đây:
Thứ nhất, kết cấu đa thanh của trần thuật, tức nhiều giọng điệu khác nhau cất lên cùng một đề mục.
Thứ hai, khi thể hiện mối quan hệ giữa nhân vật với nhau, ngoài quan hệ bình đẳng, còn có một loại quan hệ đối lập.
Thứ ba, trong hàm nghĩa ngôn ngữ, phức điệu biểu hiện thành hình thức “song thanh ngữ”, tức Bakhtin đưa ra kiểu đối thoại mini (hay đoạn đối thoại nhỏ).
Cuối cùng, ta còn có thể coi phức điệu là một nguyên tắc, một loại thế giới quan. Ngoài ra, theo người viết, trong kết cấu tình tiết của bố cục tiểu thuyết, phức điệu được biểu hiện thành một loại kết cấu đối lập.
Trong khi lí luận phức điệu của Bakhtin đang được tranh luận sôi nổi, thì tác giả Hiểu Hà lại khai thác một lĩnh vực khác về Bakhtin. Trên tập san Bình luận văn học nước ngoài kỳ 2 năm 1988 đã đăng bài Xem cổ kim như chốc lát, coi bốn bể như phút giây – suy nghĩ về việc nghiên cứu thời gian nghệ thuật. Ông nói: “Từ những năm 30 Bakhtin đã chú ý đến ý nghĩa quan trọng của vấn đề không gian, thời gian trong tiểu thuyết. Bakhtin đặc biệt chú trọng việc nghiên cứu không gian, thời gian, theo ông: “thể tài và biến thể thể tài chính là do nó (tức không gian, thời gian) quyết định”, “Thời gian làm nên phạm trù nội dung hình thức, ở một trình độ cao hơn, nó quyết định hình tượng nhân vật trong văn học, bản chất của hình tượng ấy là thời gian, không gian hoá”. Trong một bài viết khác Nghiên cứu thời gian nghệ thuật trong văn học Liên Xô đăng trên tạp chí Văn học Liên Xô kỳ 4, năm 1989, tác giả Hiểu Hà đã gọi Bakhtin là ông tổ của trường phái thời gian nghệ thuật trong nền văn học nghệ thuật Liên Xô.
Ngoài các bài viết trên, vào thập niên 80 một số tác phẩm quan trọng của Bakhtin liên tiếp được dịch và xuất bản. Năm 1987, Trương Kiệt, Phan Cẩm phối hợp dịch cuốn Phê phán học thuyết Freud (nhà xuất bản Văn Liên - Trung Quốc), Chu Hạo dịch cuốn Phê bình học thuyết Freud (Nhà xuất bản nhân dân Liêu Ninh), đây là hai bản dịch không giống nhau về cùng một tác phẩm của Bakhtin, bản thứ hai dịch từ tiếng Anh. Năm 1988, Bạch Xuân Nhân, Cố Á Linh cùng dịch cuốn Vấn đề thi học của Dostoevsky (nhà xuất bản hiệu sách Tam Liên). Năm 1989, Lý Huy Phàm, Trương Tiệp cùng dịch cuốn Phương pháp chủ nghĩa hình thức của văn học nghệ thuật (Nhà xuất bản Li Giang). Những bản dịch này được xuất bản, không nghi ngờ gì nữa - đã thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của việc nghiên cứu Bakhtin tại Trung Quốc.
Bước sang thập niên 90, việc nghiên cứu Bakhtin tạiTrung Quốc lại có thêm một bước tiến dài. Lúc này, sự tranh luận sôi nổi về vấn đề liên quan đến phức điệu, về cơ bản đã lắng xuống nhưng vẫn để lại dư âm. Trước hết phải nói đến bài viết của Hoàng Phủ: Ý nghĩa của sự phát triển nghệ thuật tiểu thuyết đối với lí luận phức điệu Bakhtin (báo Đại học Diên Biên, kỳ 3 năm 1991) và Trương Ninh: Lí luận đối thoại và tiểu thuyết phức điệu (Bình luận văn học nước ngoài kỳ 2 năm 1992). Bài viết của Hoàng Phủ bình luận về ý nghĩa mỹ học của lí luận phức điệu Bakhtin, mang lại sự thay đổi tích cực cho sáng tác tiểu thuyết, thay đổi cục diện tác giả “thống trị” toàn bộ trong tiểu thuyết truyền thống. Trương Ninh lại nghiêng về một số vấn đề ngôn ngữ, thể hiện rõ “lí luận đối thoại” là cơ sở hình thành “tiểu thuyết phức điệu”. Ở đây còn phải đề cập đến cuốn sách Trường phái lí luận văn học và tinh thần văn hoá dân tộc (năm 1993) của Tiền Trung Văn đã tập hợp lại các bài tranh luận trong thập niên 80, có thể coi đây là sự tổng kết của ông về lí luận phức điệu.
Thập kỷ 90 đánh dấu bước đột phá quan trọng trong việc nghiên cứu Bakhtin, thể hiện ở chỗ, Bakhtin không những được xem là nhà phê bình về Dostoevsky mà còn được xem là nhà tư tưởng đề xướng triết học chủ nghĩa đối thoại. Việc nghiên cứu Bakhtin không giống với những năm 80 chỉ giới hạn trong lí luận phức điệu, mà bắt đầu đề cập đến các phương diện khác trong học thuyết lí luận của ông, hướng tới việc nắm vững tổng thể hệ thống lí luận của Bakhtin.
Năm 1990, Triệu Nhất Phàm đã giới thiệu tình hình nghiên cứu Bakhtin ở phương Tây đến độc giả trung Quốc. Trước hết là lấy “lí luận đối thoại” của Bakhtin (xem Bakhtin: Ngôn ngữ và đối thoại tư tưởng – Triệu Nhất Phàm, 4.1990) và Nghiên cứu Bakhtin ở phương Tây (Tập san Nghiên cứu văn học nước ngoài – Tập 14) thay thế cho “lí luận phức điệu” đã từng dẫn đến tranh luận trong thời gian trước đó. Sau đó có bài Lí luận văn hoá của thời kỳ chuyển đổi hệ hình của học giả Lưu Kiện đăng trên tạp chí Khoa học xã hội trung Quốc (2.1994), ngoài việc làm nổi bật lí luận đối thoại còn cố gắng nắm bắt một cách tổng thể tư tưởng của Bakhtin. Ông cho rằng: “Lí luận Bakhtin không tách rời kinh nghiệm văn hoá của nhà nước xã hội chủ nghĩa và hệ thống tư tưởng của chủ nghĩa Mác, những điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với giới học thuật Trung Quốc”. Ông còn nói: “Với tư cách là một loại lí luận của thời kỳ chuyển đổi hệ hình, tư tưởng Bakhtin có tác động đối với việc nghiên cứu văn hoá Trung Quốc đương đại”. Ngoài ra còn có các bài viết của nữ tiến sĩ Đổng Tiểu Anh: Lại lên tháp Babilon - Bakhtin và lí luận đối thoại (1994, nhà sách Tam Liên) và bài đăng trên Tập san Nghiên cứu văn học nước ngoài (tập 16) cũng bình luận về chủ nghĩa đối thoại của Bakhtin, từng bước xác lập vị trí của lí luận đối thoại Bakhtin trong tư tưởng của ông. Nhưng cần phải chỉ ra rằng, toàn bộ cuốn sách chỉ đề cập đến “tính đối thoại” mà không nâng lên đến “chủ nghĩa đối thoại” của phạm trù triết học, đây là một hạn chế không nhỏ.
Lí luận đối thoại của Bakhtin được phổ biến ở Trung Quốc còn phải cảm ơn một cuốn sách. Đó là bản dịch cuốn Mikhain. Bakhtin của học giả người Mĩ Helen Elizabeth Clark và Michael Houquist (nhà xuất bản Đại học nhân dân Trung Quốc). Việc xuất bản cuốn sách này đã đem lại tác dụng thúc đẩy tích cực đối với việc nghiên cứu Bakhtin ở Trung Quốc. Cuốn sách này được xem là tác phẩm có uy tín nhất hiện nay trên thế giới, cung cấp cho học giả nước nhà tư tưởng Bakhtin với nội dung xác thực đáng tin cậy và có giá trị tham khảo.
Thập niên 90, việc giới thiệu các thành tựu của Bakhtin đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Trong đó bài Đôi nét về nghiên cứu Bakhtin tại Nga của Hạ Trung Hiến (Văn nghệ Nga, 1.1995) đã giới thiệu các cuốn Văn luận Bakhtin (xuất bản 1990), Bakhtin và văn hoá triết học thế kỷ XX (xuất bản 1992), Bakhtin – nhà triết học (do phòng nghiên cứu triết học thuộc Viện khoa học Nga xuất bản), đã giúp cho chúng tôi nắm vững động thái và xu hướng nghiên cứu Bakhtin tại Nga.
Một vấn đề đáng nói nữa là Trung Quốc đã đào tạo được một số tiến sĩ chuyên nghiên cứu về Bakhtin. Mặc dù hiện nay, con số ấy còn khiêm tốn nhưng họ đã mang lại huyết mạch mới cho đội ngũ các nhà nghiên cứu Bakhtin, trở thành một lực lượng trẻ đầy sức sống. Có đội ngũ trẻ như vậy, việc nghiên cứu Bakhtin tại Trung Quốc càng phát triển rộng rãi. Thập niên 80, nghiên cứu Bakhtin chỉ dừng lại ở lí luận tiểu thuyết phức điệu mà chưa thấy được một lĩnh vực nghiên cứu khác của Bakhtin - đó là hiện tượng “độc thoại”.
Việc nghiên cứu Bakhtin ở Trung Quốc lại được phát triển trên một phạm vi rộng hơn, trong các hội thảo về lí luận văn học nước ngoài và tư tưởng văn học nghệ thuật được tổ chức tại Trung Quốc, tư tưởng học thuật của Bakhtin luôn trở thành điểm nóng của các cuộc luận đàm.
Năm 1995 trong Hội thảo quốc tế về lí luận văn hoá, văn nghệ trong và ngoài nước: hướng tới thế kỷ XXI, lí luận đối thoại do Bakhtin khởi xướng được đặc biệt chú ý. Đúng như một học giả đã khái quát: ““Đối thoại, đa thanh, phức điệu” của Bakhtin là tầng mệnh đề lí luận có nội hàm phong phú, nó đã phá vỡ tư duy cực tính và độc đoán, mở đường cho việc xây dựng lí luận có tính phương pháp luận của chúng tôi”.
Ngoài ra, năm 1996, trong hội nghị Nghiên cứu văn hoá: Trung Quốc và phương Tây tổ chức tại Đại Liên, tư tưởng học thuật của Bakhtin một lần nữa trở thành một trong những vấn đề chung của hội nghị.
Tóm lại, ở Trung Quốc, chỉ cần đề cập đến hội thảo về tình hình, sự phát triển và xu hướng của lí luận văn học thế giới, Bakhtin nhất định trở thành vấn đề được thảo luận sôi nổi. Ảnh hưởng của tư tưởng Bakhtin đã chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình phát triển khoa học nhân văn tại Trung Quốc.
Cũng cần phải đề cập đến Hội thảo quốc tế về tư tưởng học thuật của Bakhtin và lễ ra mắt cuốn Bakhtin toàn tập diễn ra từ ngày 11 đến ngày 14 tháng 5 năm 1998 tại Bắc Kinh. Hội nghị lần này do Đại học ngoại ngữ Bắc Kinh, nhà xuất bản giáo dục Hà Bắc, Hội nghiên cứu văn học trong và ngoài nước... phối hợp tổ chức. Tham dự hội nghị có trên 30 chuyên gia đến từ các đơn vị khác nhau trên toàn quốc, ngoài ra còn có một số học giả người Nga. Các học giả tham dự hội nghị đã phát biểu rất sôi nổi, những vấn đề được đề cập đến hết sức rộng lớn, có lí luận đối thoại, lí luận Cacnavan hoá, tư tưởng ngôn ngữ học, lí luận ý nghĩa, v.v... chứa đựng nội dung của nhiều ngành khoa học: triết học, mĩ học, thi học, kí hiệu học.... đây là một lần điểm lại việc nghiên cứu Bakhtin tại Trung Quốc những năm gần đây.
Trên cơ sở của Bakhtin toàn tập, hội nghị đề xuất biên tập lại thành ba tập sách nghiên cứu: một tập là học giả các nước phương Tây bàn luận về Bakhtin, một tập là tập hợp các bài bình luận của các học giả Liên Xô, một tập là thành quả nghiên cứu của các học giả Trung Quốc. Hội nghị còn thảo luận về vấn đề thành lập một chức nghiên cứu Bakhtin mang tính toàn quốc.
Sáng ngày 14.5.1998, tại hội trường của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc đã tổ chức buổi ra mắt của cuốn Bakhtin toàn tập do Tiền Trung Văn chủ biên, Bạch Xuân Nhân, Hiểu Hà phó chủ biên. Các học giả nổi tiếng của Trung Quốc như Chung Kính Văn, Diệp Thuỷ Phu, v.v… và tham tán Văn hoá Nga tại Trung Quốc, các chuyên gia Nga của Đài truyền hình trung ương, một số phóng viên của các tờ báo lớn ở Trung Quốc, báo Tin tức, Lao động của Nga cũng có mặt. Hội nghị do Tiền Trung Văn đại diện cho nhà xuất bản giáo dục Hà Bắc chủ trì. Các chuyên gia tham dự hội nghị đều phát biểu sôi nổi, đánh giá cao ý nghĩa trọng đại của việc xuất bản của Bakhtin toàn tập và ảnh hưởng to lớn của nó đối với khoa học nhân văn Trung Quốc.
Cuốn Bakhtin toàn tập ra đời là một sự kiện quan trọng của giới học thuật nhân văn Trung Quốc, bổ sung vào những khoảng trống của Bakhtin toàn tập trên thế giới hiện nay. Cuốn sách này đã cung cấp cho chúng ta những tư liệu cơ bản phong phú, xác thực, toàn diện và đáng tin cậy, chắc chắn sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu Bakhtin tại Trung Quốc lên một tầm cao mới.
Nhìn chung, việc nghiên cứu Bakhtin trong một thời gian dài đã đạt được những kết quả không nhỏ. Nhưng cũng phải thấy rằng, những vấn đề được nghiên cứu chỉ mới ở giai đoạn ban đầu. Mặc dù chúng ta đã có một khởi đầu tốt đẹp nhưng vẫn còn tồn tại không ít vấn đề. Cụ thể:
Thứ nhất: phạm vi nghiên cứu chưa rộng, thể hiện ở hai điểm sau:
- Bakhtin là một trong những nhà tư tưởng quan trọng nhất thế kỷ XX, ông đã có đóng góp to lớn đối với triết học, mĩ học, thi học, tâm lý học, ngôn ngữ học, kí hiệu học, nhân văn học, v.v..., chúng ta vẫn chưa nghiên cứu hết các lĩnh vực nói trên mà mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu thi học, văn học nghệ thuật, rất nhiều phương diện còn bị để trống.
- Chúng ta vẫn chưa nắm bắt được một cách tổng thể tính đa dạng và phức tạp của tư tưởng Bakhtin, tương tự như một con voi mà các nhà nghiên cứu mới chỉ biết đến một mặt của nó mà thôi.
Thứ hai: mức độ nghiên cứu chưa sâu sắc, điều này có liên quan đến tính đa dạng, phức tạp đã nói ở trên, thể hiện ở chỗ: các bài viết chỉ mới bàn luận chứ chưa thâm nhập vào nội hàm sâu sắc của tư tưởng Bakhtin.
Thứ ba: việc nghiên cứu Bakhtin ở nước ngoài, thậm chí ở Nga, vẫn bị xếp vào triết học truyền thống phương Tây (hoặc ở Đức). Quan điểm này có phần đúng, nhưng cũng cần phải thấy rằng, Bakhtin sống chủ yếu trong giai đoạn quá độ của chủ nghĩa xã hội, thời kỳ hình thành tư tưởng của ông chính là thời đại chủ nghĩa Mác dành được thắng lợi và được truyền bá rộng rãi ở Nga. Vì thế không thể coi nhẹ những ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác đối với tư tưởng Bakhtin. Trong tác phẩm của ông tuy không trích dẫn trọn vẹn các câu của Mác - Lênin, nhưng đan xen trong câu chữ có không ít quan điểm tương tự với chủ nghĩa Mác. Ví như cách nhìn về thời gian nghệ thuật của Bakhtin mà chúng tôi đã nói ở trước cũng như vậy. Quan điểm của ông về “Văn hoá dân gian” và “Văn hoá bác học” cũng tương tự hai quan niệm văn hoá của Lênin, tuy nhiên điểm này lại bị các học giả phương Tây lược bỏ khi nghiên cứu.
Do vậy, theo tôi, nghiên cứu tư tưởng học thuật Bakhtin không thể bỏ qua phương pháp, quan điểm, lập trường của chủ nghĩa Mác.
Lê Dương – dịch từ nguyên bản tiếng Trung