Nhìn ra thế giới

Giấc mộng Trung Hoa: Tư duy nước lớn và vị thế chiến lược của Trung Quốc trong kỷ nguyên hậu Hoa Kỳ (Kỳ 22)

 

 CHƯƠNG 6

KHÔNG NÊN CÓ ẢO TƯỞNG ĐỐI VỚI MỸ

Đối với Mỹ phải có hy vọng, nhưng không nên tách rờithực tế. Đối với quan hệ Trung-Mỹ, phải có hy vọng, nhưng không nên lý tưởng hóa. Tăng cường niềm tin chiến lược là có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo vệ và phát triển quan hệ Trung-Mỹ. Nhưng cùng với việc tăng cường niềm tin chiến lược, cũng phải đề phòng “ảo tưởng chiến lược”.

1. Ảo tưởng về chiến lược không khác gì tự sát

Ảo tưởng về chiến lược là một sai lầm mà các nhà chính trị rất dễ mắc phải, và cũng là sai lầm mà các nhà chính trị không thể phạm phải. Trong cuộc đọ sức giữa quốc gia đứng đầu quân với quốc gia tiềm tàng đứng đầu, quốc gia tiềm tàng đứng đầu làm thế nào tránh được những sai lầm chiến lược của quốc gia đứng đầu? Làm thế nào để ngăn không phát sinhảo tưởng về chiến lược? Đối với vấn đề này, trong cuộc đọsức Đại Anh quốc, các lãnh tụ lập quốc của Mỹ đã thể hiện được trí tuệ lớn cũng như sự tỉnh táo của mình. Hơn nữa, trước Chiến tranh thế giới thứ Hai, “chính sách mị dân” của giớichính trị Châu Âu không những khiến chính các quốc gia đó mà còn làm cả thế giới lâm vào khó khăn. Bên cạnh đó, việc Tôn Trung Sơn gửi gắm tâm nguyện tốt đẹp tới Mỹ, Nhật, Nga đều mang lại hối tiếc.

Lời khuyên của Tổng thống Mỹ J.Adams

Từng là Đại sứ đầu tiên của Mỹ tại Anh và sau đó đảm nhận cương vị Tổng thống thứ hai của Mỹ, ông John Adams năm 1816 từng dự đoán rằng: “Nước Anh mãi mãi không thể trở thành bạn của chúng ta cho tới khi chúng ta trở thành chủ nhân của họ mới thôi”. Dự đoán của Adams như hồi chuông cảnh tỉnh, lời dự đoán này đã cảnh báo Mỹ đừng đặt ảo tưởng vào Anh – cần phải đề phòng Anh.

Trong hai cuộc đại chiến thế giới, Anh đều là bạn của Mỹ, song cũng chỉ là sau chiến tranh mới là bạn do Anh cần sự cứu giúp của Mỹ. Nước Mỹ lúc này cho dù vẫn chưa phải là chủ nhân mà mới chỉ là ân nhân cứu mạng của người Anh. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc, nước Mỹ từ ân nhân cứu mạng đã trở thành chủ nhân của nước Anh, còn nước Anh từ đây trở thành chiến hữu trung thành cũng như liên minh vững chắc của người Mỹ.

Ngày nay, nếu có người đối chiếu tư duy dự đoán lúc bấy giờ của đại chính khách John Adams nói rằng: “Nước Mỹ vĩnh viễn không thể trở thành bạn của Trung Quốc, chỉ tới khi nàoTrung Quốc trở thành chủ nhân của nước Mỹ”. Điều này chắc chắn không thể xảy ra, người Mỹ sẽ không chấp nhận điều này và người Trung Quốc cũng không đồng tình. Do Trung Quốc không muốn có một chủ nhân và cũng không muốn làm chủ nhân của nước khác. Tuy nhiên, khi sức mạnh tổng hợp, địa vị quốc gia, ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc vượt qua Mỹ, nước Mỹ lúc đó nhất định sẽ là một người bạn lớn chân thành của Trung Quốc. Hơn nữa quan hệ Trung – Mỹ lúc đó so với bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử đều tốt đẹp.

Nước Anh trở thành bạn của nước Mỹ là từ sau khi Mỹ trở thành chủ nhân của Anh. Nước Mỹ trở thành bạn của Trung Quốc là từ sau khi Trung Quốc vượt qua Mỹ. Trước sự hùng mạnh và siêu việt của nước Anh, Mỹ về cơ bản đã thay đổi quan hệ Anh – Mỹ, nước Mỹ đã đưa nước Anh trở thành bạn tốt của Mỹ. Trước sự hùng mạnh và siêu việt của nước Mỹ, Trung Quốc về cơ bản cũng sẽ thay đổi quan hệ Trung – Mỹ, từ đó đưa nước Mỹ thực sự trở thành người bạn có thể tin tưởng và duy trì quan hệ dài lâu của Trung Quốc.

Dự đoán của John Adams thể hiện sự tỉnh táo và trí tuệ về chiến lược theo phong cách Mỹ, đã có tác dụng thức tỉnh đối với việc phòng ngừa ảo tưởng về chiến lược của Trung Quốc hiện nay.

Lo lắng của Hítle

Trước chiến tranh thế giới thứ Hai, đại đa số các chính trị gia phương Tây đương quyền lúc đó (ngoại trừ Louis Barthou Pháp, Winston Churchill và Alfred Duff của Anh...) đều không nhận thức rõ bản chất của Hítle, đều ảo tưởng thôngqua nhượng bộ có thể đổi lấy hòa bình, tin rằng phát xít Đức là thành trì kiên cố ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản mở rộng raTây Âu, do đó đều bật đèn xanh cho mọi hành động của Hítle. Trong khi xác định chính sách chỉnh đốn quân đội, Hítle từng phát biểu trước giới tướng lĩnh rằng: “Thời điểm xây dựng quân đội quốc phòng là thời điểm nguy hiểm nhất. Lúc này có thể nhận ra rằng nước Pháp cuối cùng có chính trị gia hay không. Nếu có, nước Pháp sẽ không cho chúng ta thời gian, mà sẽ xông thẳng tới chúng ta”.

Tiếc rằng, cả Pháp lẫn Anh, đều thiếu chính trị gia có đầu óc tỉnh táo về chiến lược. Còn những tư tưởng tỉnh táo của một số chính trị gia lại không thể trở thành dòng chính chủ đạo ý thức quyết sách, kết quả là khiến “trào lưu thỏa hiệp” và “chính sách thỏa hiệp” trong những năm 30 của thế kỷ 20 của các nước phương Tây dần dần trở thành quốc sách cơ bản. Lúcnày, các chính trị gia Châu Âu do không nhận thức đầy đủ bản chất của chủ nghĩa phát xít đã đưa tới ảo tưởng về chiến lược, cho rằng “thỏa hiệp có thể đẩy lùi tai họa”, kết quả là suýt nữa mất mạng.

Hòa bình, phát triển và hợp tác là tư tưởng chủ đạo trong cộng đồng quốc tế ngày nay, song nguy cơ chủ nghĩa bá quyền vẫn tồn tại, không được ảo tưởng với chủ nghĩa bá quyền.

Ảo mộng của Tôn Trung Sơn

Để thực hiện lý tưởng cách mạng lập quốc, Tôn Trung Sơn đã có ba mộng tưởng chính trị với Mỹ, Nhật và Nga:

“Giấc mộng Nhật Bản” – giữ vững tình hữu nghị anh em, cùng nhau dìu dắt, cùng nhau xây dựng phồn vinh Trung Quốc và Nhật Bản.

“Giấc mộng Mỹ” – thúc đẩy hữu nghị thầy trò giữa Mỹ và Trung Quốc, hỗ trợ Trung Quốc trở thành nước cộng hòa theomô hình của Mỹ ở phương Đông.

“Giấc mộng Nga” – bái Nga làm thầy, dựa vào thế lực của chủ nghĩa tư bản phương Tây, thực hiện ý nguyện độc lập hoàn toàn Trung Quốc.

Ba giấc mộng lớn cuối cùng đều trở thành mộng tưởng. Do bất luận là Nhật Bản, Mỹ hay Nga, cả ba nước này đều coi sự phục hưng Trung Quốc là mối đe dọa đối với họ, cả ba nước đều không hy vọng Trung Quốc lớn mạnh giống họ.

Kỳ thực, trong lịch sử cận đại, các nhân vật ưu tú của Trung Quốc không ngừng có những ảo tưởng và trông đợi vàonước Mỹ, trong đó Đảng Bảo hoàng của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu lãnh đạo Trung Quốc đi theo con đường cải lương không đổ máu, sự ảo mộng của Tôn Trung Sơn cũng là một sự tiếc nuối đặc biệt.

Trong việc đối phó với vấn đề trỗi dậy của các cường quốc khác, bất cứ nước lớn nào cũng đều có tham vọng. Trong quan hệ giữa các nước, đặc biệt là trong quan hệ giữa các nước lớn, dường như không có chuyện nước lớn này hy vọng nước lớn khác mạnh như mình, càng không thể có một nước lớn thích nhìn nước lớn khác mạnh hơn mình.

Nếu như nói, trong quan hệ giữa người với người, có sự trông đợi “hậu sinh khả úy”, trong quan hệ giữa các nước, đặc biệt giữa các nước lớn, lại không thể xuất hiện sự “hậu sinh khả úy”. Về căn bản, các nước cường quốc, trong các mối quan hệ của họ, quyết không để các nước lớn khác xuất hiện hiện tượng “hậu sinh khả úy”. Do đó, việc một nước lớn muốn thông qua cùng một nước lớn khác xây dựng hữu nghị anh em, hữu nghị thầy trò mà cùng lớn mạnh chỉ có thể là một ảo tưởng đẹp đẽ. Kết quả cuối cùng, mọi người đã thấy rõ, ba quốc gia gây ra tai họa và uy hiếp lớn nhất đối với an ninh quốc gia của Trung Quốc trong thế kỷ 20 chính là Mỹ, Nhật Bản và Nga. Thời kỳ đầu của thế kỷ 20 chủ yếu là chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản, cuối thế kỷ 20 chủ yếu là chủ nghĩa đế quốc Mỹ và chủ nghĩa đế quốc xã hội Liên Xô.

Trong thời đại của Tôn Trung Sơn, Nhật Bản, Nga, Mỹ đều không hy vọng Trung Quốc lớn mạnh. Trong thế kỷ 21, liệu họ có hy vọng Trung Quốc mạnh lên không? Họ hy vọng Trung Quốc lớn mạnh hơn họ sao?

Ngày 14/8/1949, Mao Trạch Đông đã viết văn kiện "Loại bỏ ảo tưởng, chuẩn bị đấu tranh", vạch rõ bản chất chủ nghĩa đế quốc trong chính sách đối với Trung Quốc của Mỹ, phê phán một số người có ảo tưởng đối với Mỹ. Quan hệ Trung -Mỹ ngày nay, cần tăng cường hợp tác, song cần phải kiên quyết "loại bỏ" ảo tưởng đối với Mỹ, cũng không thể không "chuẩn bị đấu tranh" .

Kỳ sau: 2. Quốc gia tiềm năng đứng đầu: đối thủ tự nhiên của quốc gia đứng đầu

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574947

Hôm nay

2260

Hôm qua

2285

Tuần này

2260

Tháng này

222004

Tháng qua

130677

Tất cả

114574947