Vũ Đình Liên với “Ông đồ” bán chữ.
Ngã tư Bà Triệu – Trần Hưng Đạo, phía đối diện với Đại sứ quán Pháp, bên cạnh trụ sở Trung ương Đoàn, từ nhiều năm trước đây thấy trở lại cái thú chơi “bán” chữ Nho của các ông đồ. Cái thú chơi… không hẳn thế!
Vũ Đình Liên với “Ông đồ” bán chữ.
Ngã tư Bà Triệu – Trần Hưng Đạo, phía đối diện với Đại sứ quán Pháp, bên cạnh trụ sở Trung ương Đoàn, từ nhiều năm trước đây thấy trở lại cái thú chơi “bán” chữ Nho của các ông đồ. Cái thú chơi… không hẳn thế!
Mà là một quan hệ cung cầu đang nảy nở trong nền kinh tế thị trường. Có người muốn mua chữ, nên có người bán chữ. Một đôi câu đối. Một khổ thơ. Một lời chúc, cho chính bản thân hoặc cho ai đó. Một bút tích… Số không ít người xin chữ lại là các ông Tây. Còn người cho chữ cũng có dáng những ông đồ… Tây, với bơludông, comlê, cà vạt. Bắt đầu từ nơi ngã tư này thấy đang sống lại kỷ niệm về những ông đồ mỗi dịp xuân về “bày mực tàu giấy bản”, mà bài thơ mang tên Ông đồ của Vũ Đình Liên(*) là chứng nhân duy nhất ra đời cách đây bảy, tám mươi năm; và vẫn còn là một nỗi luyến nhớ kéo dài cho đến nay.
Hình ảnh ông đồ vẫn như thấp thoáng đâu đây trong mưa phùn, gió rét và sắc đào.
Cũng phảng phất đâu đây, nơi ngã tư này hình ảnh nhà thơ tuổi ngoài tám mươi, tác giả Ông đồ, đã trở nên quen thuộc, từ nơi xuất phát là căn gác 55 Trần Nhân Tông – nơi ngã tư Trần Nhân Tông – Bà Triệu xuôi đê La Thành hoặc ngược Bờ Hồ. Rồi rẽ qua Kim Liên sang Chùa Bộc, nơi nhà thơ thường lui tới. Rồi xa hơn về phía Nhân Mục (làng Mọc)… Nhà thơ tuy mắt kém nhưng lại vẫn rất quen chân trên các lối đi thân thuộc; nơi khóe miệng thường mấp máy một câu chuyện với riêng mình, và tâm trí dường như đang mải miết đuổi theo một mục tiêu, vừa thơ vừa đời, vừa xa xôi vừa gần gũi. Xa xôi – là những hình ảnh thơ của ông tổ tượng trưng Baudelaire mà Vũ Đình Liên không lúc nào không ôm ấp nguyện vọng được chuyển tải sang ngôn ngữ Việt. Cả một cặp da to phồng bản dịch Baudelaire luôn luôn ở bên mình, khiến bè bạn có người nói đến Vũ Đình Liên như một Bô-đơ Liên. Và gần gũi – là những chuyện đời chung quanh ông, dệt thành cuộc đời ông. Chuyện của những bạn nghề là nhà giáo, nhà thơ. Chuyện những đám trẻ quá quen với ông già phúc hậu thường được ông an ủi, chuyện trò và chia kẹo. Chuyện những địa chỉ bạn bè có con em là liệt sĩ thường ông không bao giờ quên đến thắp hương và có quà vào những ngày tưởng niệm. Vũ Đình Liên, là thế. Nhà thơ đã vào tuổi tám mươi mà vẫn thường xuyên trên đường. Không phải tha thẩn mà đi nhanh. Thoắt vắng mặt ở một hẻm nào đấy, rồi lại xuất hiện trên đường, mải miết trong hành trình của tâm tưởng.
Đời thơ Vũ Đình Liên bắt đầu ở tuổi hai mươi, gây xao động và để lại dư âm mãi mãi chỉ ở một bài thơ Ông đồ. Một bài thơ 5 khổ, 25 câu, 125 chữ. Chữ nào cũng giản dị. Lời nào cũng nhỏ nhẹ. Chữ và lời kín đáo nép bên nhau như ủ ấp một tình cảm thầm kín; như muốn nén lại, không chút ồn ào. Thế nhưng toàn bài thơ lại là sự đan dệt rất nên họa, nên thơ một chân dung sống động và sắc nét về một con người, một lớp người đang tàn phai; và vẫn đang gắng gỏi sống nốt phần sống tàn phai của nó ở một buổi giao thời và giao tranh mới – cũ. Sự tàn phai nào mà chẳng gợi xót xa! Thế nhưng ở đây nỗi xót xa như lớn hơn, như càng được nhân lên nơi một cái nhìn về họ, của những người chung quanh và của các thế hệ đến sau, ẩn trong cái nhìn của tác giả. Một cái nhìn có gì như hối lỗi, như ân hận về một sự vô tâm và thờ ơ, dẫu là vô tình hoặc cố ý:
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay
Bài thơ không chỉ làm sống lại một chân dung. Mà còn làm sống lại cả một thời, với một thế giới người xem ra lúc nào cũng chen chúc, cũng nô nức, cũng ồn ào, đến từ làng quê và kẻ chợ mỗi lúc xuân về, tết đến. Họ đang đi sắm tết. Và hàng tết sao mà thiếu được các tranh tết, các câu đối tết. Họ đến với ông đồ. Nhưng rồi con số khách đến với ông cứ thưa dần, thưa dần, “mỗi năm một vắng”. Cho đến ngày không còn thấy ai ghé đến, nhưng “Ông đồ vẫn ngồi đấy!”. Rồi cho đến ngày, ông đồ cũng không còn ở đấy nữa. Và nhà thơ thảng thốt kêu lên:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Không hẳn là hoài cổ. Cũng không hẳn là sự tiếc nuối một thời xưa, như trong những Chiếc cáng xanh, Mùa cổ điển. Mà là một tiếc nuối cho tình người, tình đời. Cho sự gắn nối xưa và nay, lịch sử và hiện tại. Mối dây gắn nối ấy mới mong manh làm sao! Trong mong manh con người bỗng thấy chơi vơi, và có phần rợn ngợp.
Quả như có một sợi dây nghĩa tình vô hình mà rất bền chặt gắn nối hai đầu thế kỷ nơi hình ảnh Ông đồ của Vũ Đình Liên. Và với chính nhà thơ Vũ Đình Liên, người đã ra đi theo chân những ông đồ xưa, ở tuổi trên tám mươi.
Nhà thơ sinh năm Quý Sửu, dáng cần mẫn, vất vả và gương mặt chân tình, phúc hậu, lặng lẽ đi và lẩn vào dòng người trên các đường phố Hà Nội là hình ảnh đã trở nên quen thuộc trong ngót hai chục năm trước đây. Cũng vẫn hình dáng ấy, gương mặt ấy như một nhớ nhung, một hoài niệm trên dòng chảy của thời gian.
Đoàn Văn Cừ với hội xuân và những phiên chợ tết.
Sinh cùng năm Quý Sửu với Vũ Đình Liên – Đoàn Văn Cừ(**) – tác giả của những bài thơ về chợ tết của làng quê Việt Nam xưa đã qua đời - ở tuổi tám mươi chín. Vũ Đình Liên đã ra đi theo các “Ông đồ” và “Những người muôn năm cũ” vào tháng giêng 1996, ở tuổi thọ tám mươi tư, nhưng hình ảnh họ - những “Ông đồ” thì thỉnh thoảng vẫn còn lưu lại trên một vài góc phố Hà Nội. Còn những phiên chợ tết như trong thơ Đoàn Văn Cừ thì đã phôi pha theo năm tháng, thậm chí không còn nữa, không sao tìm thấy lại bóng dáng nguyên xưa nữa.
Những phiên chợ tết, những hội xuân của làng quê xưa, những làng quê cổ truyền Việt Nam may mắn còn lại dáng nét trong thơ Đoàn Văn Cừ, như chứng tích của cả một thời xưa:
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo nhau
(Chợ tết)
Đoàn trải dài vùn vụt giữa dòng sông
Người lố nhố chèo lên làn nước lạnh
Bọn đô vật trước đình thi sức mạnh
Mình cởi trần gân cốt nổi như lươn
Tiếng reo hò khuyến khích dậy từng cơn
(Đám hội)
Một cụ già râu tóc trắng như bông
Mặc áo đỏ cầm hương đi trước đám
Dăm sáu cụ áo mền bông đỏ sẫm
Quần nâu hồng chống gậy bước theo nhau
Hàng ô đen thong thả tiến lên sau
(Đám cưới mùa xuân)
Những hình ảnh thật đầy màu sắc và hoạt động, và sống động. Nó dường như muốn tự phân biệt với số lớn thơ của nhiều tác giả trong phong trào Thơ mới, nhìn chung là hướng ra đời sống thị thành, và hướng con người đi vào và đào sâu vào một cái Tôi riêng. Còn Đoàn Văn Cừ cùng với những người thuộc xu hướng như ông là Anh Thơ, Bàng Bá Lân, và nhất là Nguyễn Bính, lại muốn con người trở về, hoặc ở lại với nông thôn, với làng quê, trong những vui buồn xen kẽ, và cả trong cái vui chung, dẫu hiếm hoi, nơi đời sống cộng đồng. Hướng về cội nguồn, về cái chung của số đông, của sinh hoạt nhân quần, lẽ tự nhiên là có cái ồn vui, và cả sự ấm áp:
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ tết
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc
Cả những gam màu trong thơ tết của Đoàn Văn Cừ cũng là những gam màu nóng:
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết
Con gà sống mào thâm như cục tiết
…
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh
Chợ là thế. Và chợ tết càng thế. Đông hơn thường. Và vui hơn thường, nhiều màu sắc hơn thường. Nhân quần trong thơ về chợ tết của Đoàn Văn Cừ vẫn là một nhân quần trong sự mưu sinh, trong sự vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày. Nhưng đây là phiên chợ tết, phiên chợ cuối năm, phiên chợ của kết thúc và mở đầu cho một năm, nên lại có gương mặt rạng rỡ, và mang theo niềm vui, sự thong dong, sự thụ hưởng, sự ngắm nhìn… Cái đó chỉ có trong phiên chợ tết. Đón nhận được thần sắc đó, ý vị đó, Đoàn Văn Cừ đã chuyển được nó vào bức tranh chợ tết chỉ diễn ra có một lần trong năm. Và với những phiên chợ tết trong thơ Đoàn Văn Cừ, bức tranh quê Việt Nam trong lâu dài và chu chuyển của lịch sử bỗng trở nên vĩnh viễn.
Hoài Thanh qua Thi nhân Việt Nam có nói đến “đồng quê” như là “nơi nương náu cuối cùng của dĩ vãng”, trong lời bình thơ Đoàn Văn Cừ. Dĩ vãng và vẻ đẹp của dĩ vãng chỉ có nơi đồng quê ư? Xem ra là đúng. Sinh hoạt phố xá thành thị của ta đã hình thành từ đầu thế kỷ trước khiến cho người “chân quê” trong thơ Nguyễn Bính vừa ngậm ngùi, vừa âu lo đến thảng thốt:
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Thế giới thành thị đó đang đổi thay rất nhanh, rất gấp và cực kỳ gấp vào cuối thế kỷ trước đến đầu thế kỷ này. Đổi thay hàng ngày và thậm chí hàng giờ. Nó lấn dần nông thôn, và khoảng vài chục năm nay, nó làm thay đổi sắc diện nông thôn, đến mức xem ra đã hết hẳn những phiên chợ tết kiểu Đoàn Văn Cừ. Nhưng may mắn thay, còn đó những bài thơ về những “bức tranh quê” cùng “hội xuân” và “chợ tết”…
Hoài Thanh lưu ý đến cái sống động, cái hoạt động, cái “dồi dào mà rực rỡ” sắc màu trong thơ Đoàn Văn Cừ. Đó quả là nét riêng làm nên thơ ông. Nhưng phần tôi, đọc thơ Đoàn Văn Cừ ngay từ khi còn nhỏ, còn ở tuổi theo mẹ đi chợ tết, tôi thường buồn ngay sau cái vui, hoặc nói cách khác, thường thấm thía một nỗi buồn, có lẽ do được nhìn qua tâm thế một đứa trẻ thấy cuộc vui chóng qua, ngày vui ngắn quá:
Trên con đường đi các làng hẻo lánh
Những người quê lũ lượt trở ra về
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ
Không chỉ riêng chợ tết mà còn lan sang cả các đám cưới và hội xuân, vào cữ giêng – hai:
Người đi xem nhiều bọn đã ra về
Trên đường vắng lá đề rơi lác đác
Ốc xa rúc từng hồi trong xóm mạc
Những “lê thê”, “tơi bời”, rồi “lác đác”, và cả cái tiếng “ốc xa rúc” nơi “xóm mạc” gắn với cảnh hoàng hôn sau cuộc vui kéo dài trong ngày, tự nhiên vẫn cứ là cái phải đến, là cái không cưỡng được, làm đọng lại biết bao là buồn thương và nuối tiếc.
Sau này lớn lên tôi mới hiểu: rốt cuộc thì khí hậu thời đại vẫn là cái không ai, không nhà thơ nào, kể cả Đoàn Văn Cừ thoát được. Nó là nỗi sầu lớn của thời thế, nằm trong cảnh ngộ chung dân tộc. Và là sản phẩm của con người khi đi sâu vào cái Tôi riêng, trong cảnh ngộ chung ấy.
Trong Thi nhân Việt Nam, ở cả hai lần ấn hành, mục Đoàn Văn Cừ đều không có tiểu sử. Chỉ có thơ chọn và lời bình của Hoài Thanh. Tác giả Thi nhân Việt Nam đã hai lần đưa tin đề nghị nhà thơ cho biết địa chỉ, nhưng cả hai lần đều không liên hệ được, cả hai lần “vẫn chưa biết Đoàn Văn Cừ ở đâu!”. Nhà thơ như là người mai danh ẩn tích. Chỉ có thơ mà không thấy người.
Và xem ra không chỉ vào thời của Thi nhân Việt Nam lúc nhà thơ còn ở tuổi ngoài hai mươi lăm. Tác giả của Thôn ca, năm 1960, rồi tập Dọc đường xuân, năm 1979 hình như vẫn sống một đời thơ khiêm tốn, thầm lặng thế. Ngoài thời gian tham gia quân đội trong kháng chiến chống Pháp, rồi mười năm công tác ở Nhà xuất bản Phổ thông; từ năm 1970, sau khi nhà thơ đồng hương Nguyễn Bính mất bốn năm, Đoàn Văn Cừ về hưu, sống ở quê: xã Nam Lợi, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định. Người bé nhỏ, dáng hiền hậu, khiêm nhường và có phần khắc khổ, chân dung Đoàn Văn Cừ từ những bài thơ tết giữa những năm ba mươi cho đến nay dường như vẫn không thật “hòa hợp” lắm với đời sống thành thị. Chân dung Đoàn Văn Cừ xem ra phải được đặt trên nền cảnh nông thôn Việt Nam thuần hậu, ít thay đổi, thì mới thật là phù hợp. Nhưng như vậy có là đi ngược với quy trình “tiến hóa” không, khi trong tâm tưởng của nhiều thế hệ bạn đọc chúng ta vẫn “sống” với bao thiết tha, luyến nhớ những hội xuân và chợ tết qua bảng màu rực rỡ mà trong trẻo của Đoàn Văn Cừ?
___________
(*) 12-11-1913 – 18-1-1996.
(**) 25-11-1913 – 27-6-2004.
2298
2315
21449
220385
121356
114513512