Những góc nhìn Văn hoá

Ngư­ời xư­a - Xuân xư­a - Thơ x­ưa

 I

Mùa xuân trong tự nhiên hiện lên bằng lộc nõn, hoa thơm.

Mùa xuân trong lòng ng­ời đư­ợc nói lên bằng văn chư­ơng, bằng thơ.

Xuân của đất trời bao giờ cũng đẹp, cũng vui, còn xuân trong tâm hồn thì mỗi thời, mỗi ngư­ời một khác. Cái vui xuân lên tột đỉnh; cái buồn xuân cũng đến tột cùng. Cái vui, cái buồn tột đỉnh, tột cùng ấy đều bật thành cảm xúc thơ, nếu là ở một tài năng thi sĩ. Cái ý ấy hiện rõ khi tôi đọc lại thơ x­a.

Trong kho tàng văn học viết của ông cha ta, thơ xuân chiếm một mảng lớn, và hầu như­ thơ chỉ có cảm xúc buồn.

Như­ng trong thơ đời Lý còn lại, ngoài một số câu rải rác trong các bài thơ  khác nhắc đến cảnh xuân, ý xuân, tôi chỉ đ­ợc biết hai bài nói về mùa xuân. Tôi dùng chữ "nói về" vì những bài này ch­a hẳn đã là thơ xuân. Tác giả đều là nhà tu hành, nhà s­. Các vị không vì vui xuân, buồn xuân mà làm thơ. Các vị chỉ m­ợn cảnh xuân - đúng ra chỉ m­ợn hoa xuân để nói triết lý đạo Thiền.

Bài sớm nhất là của Mãn Giác thiền s­ Lý Tr­ờng (1052-1096). Ông thông hiểu cả Nho lẫn Phật, đ­ợc vua Lý Nh ân tôn (1072-1128) trọng đãi, phong làm Nhập nội đạo tràng, dựng ngôi chùa cạnh cung Cảnh h­ng, mời ông về tu để tiện việc hỏi han đạo học và bàn bạc việc n­ớc. Ông chỉ để lại một bài "kệ", về sau đ­ợc Lê Quý Đôn (1726-1784) s­u lục và đặt đầu đề là "Cáo tật thị chúng", (có bệnh, bảo mọi ng­ời). TKĐ dịch:

"Trăm hoa rụng lúc xuân đi,

Xuân sang lại rộ một kỳ trăm hoa.

Tr­ớc mắt mình việc đi qua,

Trên đầu sòng sọc cái già đến mau.

Xuân tàn hoa rụng, hết đâu,

Đêm qua mai nở cành đầu, tr­ớc sân." (1)

Bài thứ hai xuất hiện sau bài trên khoảng nửa thế kỷ, là tác phẩm của Giác Hải thiền s­ (TK. XII). S­ Giác Hải, họ Nguyễn, ch­a rõ tên, lúc trẻ làm nghề đánh cá, 25 tuổi mới đi tu, và trở thành nhà s­, nhà thơ nổi tiếng, đ­ợc các vua Lý Nh ân tôn, Lý Thần tôn (1128-1137) rất kính trọng. Thần tôn nhiều lần vời ông vào cung, nh­ng ông lấy cớ tuổi già, từ chối. Một trong hai bài thơ còn lại của ông nói về xuân, về hoa, về b­ớm, TKĐ dịch:

"B­ớm hoa quen với tiết xuân hoà,

Hoa b­ớm đều phô đúng hẹn mà.

Hoa b­ớm thảy cùng h­ ảo cả,

B­ớm hoa chớ để bận lòng ta." (2)

ý hai câu đầu của bài thơ giống nhau: Xuân đi, hoa rụng, xuân đến, hoa nở (Giác Hải thêm b­ớm) phô đúng kỳ đúng hạn, là luật tự nhiên, cũng là luật "luân hồi". Nh­ng nếu hai câu sau của s­ Giác Hải chỉ nói lên cái triết lý "h­ vô", cái "không" của đạo, thì bốn câu sau của s­ Mãn Giác "đời" hơn; Xuân đi, hoa rụng, việc qua, cái già hiện lên mái tóc... Tác giả nghĩ đến cái già, cái tịch diệt. Song xuân tàn, hoa đâu có rụng hết? Đêm qua, một cành mai còn nở tr­ớc sân kia! Sự sống vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục. ấy là thái độ tích cực tr­ớc cuộc đời, là niềm tin ở cuộc đời.

Giáo s­ Đặng Thai Mai bình luận: "... từ trong thơ, luôn luôn toát ra một ấn t­ợng chân thật, bắt nguồn từ những cảm giác đã "sống", từ những cảm giác trực tiếp. Và trên cơ sở ấy, tứ thơ đã chắp cánh cho thơ bay bổng" (3).

*

*           *

 Đầu đời Trần, đạo Phật vẫn thịnh. Nhiều hoàng đế là thiền s­, và nhiều thiền s­ là thi sĩ. Nh­ng thơ nói chung, và riêng thơ xuân, dù là của nhà thơ thiền, cũng không còn mấy là thơ đạo, mà là thơ trần tục, thơ đời.

Tr­ớc tiên, tôi muốn nói về thơ của mấy ông vua. Nhiều vua Trần là thi sĩ tài hoa: Thái tôn (1218-1277), Thánh tôn (1240-1290), Nhân tôn (1258-1308), Anh tôn (1275-1320), Minh tôn (1288-1386), Nghệ tôn (1322-1395) v.v...

Điều cần nhắc lại là các vua đầu triều Trần đều rất thông hiểu Thiền học. Thái tôn đã lập lên dòng Thiền Trúc lâm; Nhâ tôn đã xuất gia tám năm... Nh­ng các vị xuất gia mà không xuất thế, không thoát khỏi cuộc đời trần tục, vì lẽ đơn giản các vị là vua, cai trị dân. Chính ba vị vua đầu triều đại này đã lãnh đạo nhân dân ba lần đánh thắng quân xâm l­ợc Nguyên - Mông.

Thánh tôn là ng­ời chủ trì Hội nghị Diên Hồng nổi tiếng, lại là tác giả những câu thơ nhàn nhã, t­ơi tắn lạ th­ờng. TKĐ dịch:

 

"...M­a tạnh, cây v­ờn màn biếc rủ,

Trời chiều vài bốn tiếng ve ran." (4)

                                      (Cảnh hè)

"Sớm dạo đảo khơi xem ráng nổi,

Chiều ngồi bến vịnh ngắm trăng suông." (5)

                                      (Chơi phủ Yên Bang)

và bài thơ bình dị, chân tình "Ngày xuân dạo v­ờn trong cung nhớ ng­ời cũ", TKĐ dịch:

"Bụi dày, cửa vắng lối rêu phong,

Lặng lẽ ngày trôi, khách vắng không.

Chẳng biết vì ai hoa vẫn nở,

Xuân phô muôn tía với nghìn hồng." (6)

"Ng­ời cũ" ở đây hẳn là một giai nhân? Đọc bài thơ, ta không nghĩ rằng đây là tác phẩm của một ông vua tinh thông Thiền học, một anh hùng cứu quốc, mà là của một... văn nhân bình th­ờng, một chàng trai đã yêu thiết tha và đang đau khổ.

Nhân tôn từng có những câu thơ đầy khí phách anh hào, TKĐ phỏng dịch:

"Cối Kê việc cũ anh nên nhớ:

Hoan Diễn đang còn m­ời vạn quân." (7)

"Xã tắc đòi phen mệt ngựa đá,

Non sông nghìn thuở vững âu vàng." (8)

Và đã viết bài phú "C­ trần lạc đạo" đầy chất thiền, lại cũng là ng­ời viết bài thơ "Sớm xuân" dịu dàng, t­ơi mát và đa tình nữa, TKĐ dịch:

"Ngủ dậy, mở cửa sổ,

Nào hay xuân đã về:

Kìa đôi b­ớm b­ớm trắng

Chấp chới sà bên huê" (9)

D­ới các hoàng đế - thi sĩ là những t­ớng quân - thi sĩ: Trần Quang Khải (1241-1294), Trần Quốc Tảng (1252-1313), Phạm Ngũ Lão (1255-1320)...

Trần Quang Khải là hoàng tử thứ ba của Thái tôn, văn võ kiêm toàn, làm Th­ợng t­ớng, có công lớn trong cuộc chống Nguyên Mông, đ­ợc phong t­ớc Chiêu minh v­ơng. Ông có tập thơ "Lạc đạo" nay chỉ còn mấy bài. Chúng ta đã từng viết bài thơ "Phò giá về kinh" nổi tiếng của ông, TKĐ dịch:

"C­ớp dáo bên Ch­ơng D­ơng,

Bắt giặc cửa Hàm Tử,

Gắng sức giữ thái bình,

Non sông bền muôn thuở" (10)

Đó là bài thơ ứng khẩu ngày mồng sáu tháng sáu năm ất dậu (1285) sau đại thắng quân Nguyên lần thứ hai. Năm đó ông 37 tuổi. M­ời ba năm sau, lúc 50 tuổi, Trần Quang Khải làm hai bài thơ "Cảm xuân", cụ Ngô Tất Tố dịch nh­ sau:

I

"Lâm dâm m­a bụi gội hoa mai,

Khép chặt phong thơ ngất ng­ởng ngồi

Già nửa phần xuân cam bỏ uổng,

Tới năm chục tuổi biết suy rồi.

Mơ màng n­ớc cũ chim bay mỏi,

Khơi thẳm nguồn ân cá khó bơi.

Đảm khí ngày nào rày vẫn đó

Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi."

II

"Đêm xuân hầu hết, bóng trăng mờ,

Lành lạnh hơi xuân m­ợn gió đ­a.

Dính gác, chùm bông tan trận múa,

Đập hiên, cành trúc quấy hồn mơ.

Hơi m­a xa gửi ơn đằm thắm,

Vẻ mặt buồn phai nét trẻ thơ.

Tiêu khiển may nhờ ba chén r­ợu,

Vỗ thanh g­ơm cũ nhớ non x­a." (11)

Tuổi năm m­ơi ch­a phải là cao, thế mà so với bài thơ làm nhân ngày chiến thắng hơn m­ời năm tr­ớc, tác giả đã già đi quá nhanh, quá sớm. Trong một bài thơ khác, ông lại nói đến mái đầu bạc; và, trong hai bài này dù đảm khí của vị danh t­ớng vẫn đó, nh­ng sức chỉ đủ ngồi trong phòng nghiền sách, tự cho mình là "si th­" - mê sách - và lòng chỉ còn "muốn quật ngọn gió đông mà ngâm thơ", "tiêu khiển may nhờ ba chén r­ợu". Nỗi buồn về cái già dày vò ông, rồi bốn năm sau ông qua đời.

Hàng thi sĩ - văn thần có Chu Văn An (?-1370), Trần Nguyên Đán (1320-1390), Nguyễn Phi Khanh (1355-1428?) và rất nhiều ng­ời khác.

Chu Văn An là vị s­ mô lớn, khí tiết lớn. Ông đỗ Thái học sinh ở nhà dạy học, đ­ợc vua Minh tôn vời vào giảng sách cho Thái tử. Đời Dụ tôn (1341-1369), ông dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần. Vua không nghe, ông liền bỏ về ẩn ở núi Ph­ợng Hoàng huyện Chí Linh. Bài thơ "Sóng xuân" d­ới dây làm trong khi ở ẩn, TKĐ dịch:

"Thảnh thơi nhà vắng, mái non quê,

Chớm lạnh, nghiêng nghiêng lớp cửa che.

Biếc loá cỏ xanh, trời hãy choáng,

Hồng nhoà hoa thắm, c­ởi ch­a se.

Lòng cùng giếng cũ sóng nào gợn,

Thân với mây côi núi chẳng lìa.

Lửa bách lơ thơ, khói trà tắt,

Mộng xuân tàn với tiếng chim khe." (12)

Tiều ẩn tiên sinh vốn là ng­ời tích cực, muốn đem sở học giúp đời. Nh­ng rủi là ông sống vào cái buổi mà "vua thì mãi mê chơi bời  bỏ bê việc n­ớc, bọn nịnh thần thì lộng hành, hà khắc, tham nhũng, lời nói phải không đ­ợc nghe, có khi ng­ời trung còn mang vạ", cho nên ông buộc phải trở thành ẩn sĩ. Bài thơ xuân nói về cảnh nhàn: "lòng nh­ giếng cũ", "khói trà tắt", "mộng xuân tàn", nh­ng đàng sau chữ nghĩa ta vẫn nghe rõ tiếng lòng ông, gắn bó với đời, với ng­ời:

"Biếc loá cỏ xanh, trời hãy choáng,

Hồng nhoà hoa thắm, c­ởi ch­a se."

Trần Nguyên Đán là một hoàng thân, cháu bốn đời Trần Quang Khải, ngoại tổ Nguyễn Trãi, có "Băng Hồ ngọc hác tập". Ông rất trọng các bậc hiền tài nh­ Nguyễn Trung Ngạn, Phạm S­ Mạnh, Đỗ Tử Vi, nhất là Chu Văn An. Đang làm T­ đồ phụ chính, thấy nhà Trần sắp mất, ông bèn xin về ẩn ở Côn Sơn.

Bài thơ làm "Tháng giêng năm mậu thân" (1368) lúc ông 43 tuổi, là lời tâm sự, nói lên nỗi chán ngán tr­ớc một tình thế oái oăm, TKĐ dịch:

"Ba phần đầu bạc một niềm son,

Bối rối vì muôn việc khó dần.

C­ời tớ chẳng bằng Tiền Nh­ợc Thuỷ,

Bốn m­ơi đã kịp trở về non." (13)

Mới 43 tuổi, lại giữ trọng trách phụ chính, nh­ng thấy không thể vực nổi chiếc ngai mọt của triều nhà Trần, ông đã tự c­ời mình không dám "dũng thoái" nh­ Tiền Nh­ợc Thuỷ đời Tống đã bỏ chức Đồng trixu mật lúc vừa mới bốn m­ơi.

Nguyễn Phi Khanh tức Nguyễn ứng Long, thân phụ Nguyễn Trãi, đỗ Tiến sĩ năm 1374, nh­ng vì ông là con nhà th­ờng dân lấy con gái hoàng tộc, nên không đ­ợc triều Trần dùng. Mãi năm 1401 ông mới đ­ợc nhà Hồ vời ra làm quan. Nh­ng năm 1407, quân Minh sang c­ớp n­ớc ta, ông cùng bị bắt với vua quan nhà Hồ, bị đ­a sang Kim Lăng và mất ở quê ng­ời.

Trong thời gian bị bỏ rơi, d­ới triều Trần, ông buồn chán đến cực độ chỉ biết ký thác tâm sự trong thơ. Trong số thi phẩm làm trong thời gian này có khá nhiều thơ xuân, bài nào cũng biểu lộ tấm lòng ­u ái của tác giả. Bài "Rét xuân" là một, TKĐ dịch:

"Lớp lớp mây đùn, mù bủa kín,

M­ời ngày rét cuối, mịt mùng sao.

M­a sa tơ liễu treo dây bạc,

Chim lặng buồn xuân nép nụ đào.

Phòng sách vắng tanh, chồng gối, ngán,

Việc đời dằng dặc, quấn chăn, nao.

Mong sao mình đ­ợc làm thân bễ,

Thổi ngọn hoà phong ấm chín châu." (14)

 

 

___________

(1) Nguyên văn:        Cáo tật thị chúng

Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tòng đầu th­ợng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

(2) Nguyên văn:         Hoa điệp (Hoa và b­ớm)

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,

Hoa điệp ­ng tu cọng ứng kỳ.

Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,

Mạc tu hoa điệp h­ớng tâm trì.

(3) Lời bình luận chung về thơ Thiền.

(4) Nguyên văn:        "Viên lâm vũ quá lục thành ác,

                                   Tam l­ỡng thiền thanh náo tịch d­ơng"

                                                                        (Hạ cảnh)

(5) Nguyên văn:          Triêu du phù vân kiệu,

                                   Mộ túc minh nguyệt loan.

                                                     (Hạnh Yên Bang phủ)

(6) Nguyên văn:       Cung viên xuân nhật hoài cựu

Môn không trần yểm kính sinh đài,

Bạch trú trầm trầm thiểu vãng lai.

Vạn tử thiên hồng không lạn mạn,

Xuân hoa nh­ hứa vị thuỳ khai.

(7) Nguyên văn:      Cối Kê cựu sự quân tu ký,

                               Hoan Diễn do tồn thập vạn quân.

 

(8) Nguyên văn:           Xã tắc l­ỡng hồi lao thạch mã,

                                     Sơn hà thiên cổ điện kim âu.

(9) Nguyên văn:                Xuân hiểu

Thuỵ khởi khải song phi,

Bất tri xuân dĩ qui.

Nhất song bạch hồ điệp,

Phách phách sấn hoa phi.

(10) Nguyên văn:       Tụng giá hoàn kinh s­

Đoạt sáo Ch­ơng D­ơng độ,

Cầm Hồ Hàm Tử quan.

Thái bình tu trí lực,

Vạn cổ thử giang san.

(11) Nguyên văn:        Xuân nhật hữu cảm.

                    I

Vũ bạch phì mai tế nh­ợc ti,

Bế môn ngột ngột toạ nh­ si.

Nhị phần xuân sắc nhàn tha quá,

Ngũ thập si ông dĩ tự tri.

Cố quốc tâm hoàn phi diễn quyện,

Ân ba hải khoát túng lân trì.

Sinh bình đảm khí luân khuân tại,

Giải đảo đông phong phú nhất thi.

                       II

Nguyệt tắc vi vi dạ h­ớng lan,

Đông phong đặc địa khởi xuân hàn.

Phiên không liễu nhứ niên cao các,

Giảo mộng t­ơng quân phốc hoạ lan.

Bị vật nhuận tòng thiên ngoại vũ,

Kinh tâm hồng thốn tích thì nhan.

Khu sầu lại hữu tam bội tửu,

Phủ kiếm du du ức cố san.

(12) Nguyên văn:                      Xuân đán

Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,

Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.

Bích mê thảo sắc, thiên nh­ tuý,

Hồng thấp hoa sao, lộ vị can.

Thân dữ cô vân tr­ờng luyến tụ,

Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.

Bách luân bán lãnh, trà yên yết,

Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.

(13) Nguyên văn:             Mậu thân chính nguyệt tác

Tam phần đầu bạch thốn tâm đan,

Thế th­ợng phân phân vạn sự nan.

Tự tiếu bất nh­ Tiền Nh­ợc Thuỷ,

Niên tài tứ thập tiện l­u quan.

(14) Nguyên văn:                        Xuân hàn

Ng­ng vân mạc mạc, vụ trầm trầm,

Nh­ỡng tác d­ hàn thập nhật âm.

Đới vũ hữu ngân niệm thụ nhự,

Th­ơng xuân vô ngữ cách hoa cầm.

Th­ trai tịch mịch duy cao chẩm,

Thế sự du du chính bão khâm.

An đắc thử thân nh­ thác th­ợc,

Hoà phong h­ biến cửu châu tâm.

*

*        *

II

Trong bảy năm cầm quyền, vừa lo chấn chỉnh nội trị, vừa lo chuẩn bị đối phó với cuộc xâm l­ợc của nhà Minh, nhà Hồ ch­a đủ thời gian để đạt đ­ợc những thành tựu về văn hoá đáng kể, ngoài cuộc thi lấy 20 Thái học sinh năm canh thìn (1400), trong đó có những ng­ời đặc biệt xuất sắc nh­ Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn..., và cuộc thi lấy 170 cử nhân năm ất dậu (1405).

Một ng­ời đỗ Thái học sinh năm 1400 là Lê Cảnh Tuân (?-1416). Tháng m­ơi năm đinh hợi (1407), ông gửi cho bạn cũ là Bùi Bá Kỳ đang làm quan với giặc Minh, bài "Vạn ngôn th­" khuyên Kỳ chống Minh. Th­ lọt vào tay giặc, ông phải bỏ trốn. Sau đó, ông cải trang đến dạy học ở Thăng Long để có cơ hội m­u việc phục quốc. Nh­ng đến năm tân mão (1411), ông bị bắt đ­a về Yên kinh. Vua Minh hỏi sao dám xui Bá Kỳ làm phản, ông đáp rằng: "Ng­ời n­ớc Nam mong n­ớc Nam còn, hỏi mà làm gì?". Ông liền bị tống vào ngục Kim Lăng và mất ở đó. Cũng nh­ Nguyễn Phi Khanh, Lê Cảnh Tuân không đ­ợc coi là nhà thơ đời Hồ. Hiện nay, ông còn để lại 12 bài thơ, trong đó có một số bài làm ở Trung Quốc. Xin tạm dịch hai bài ngũ ngôn tuyệt cú làm vào dịp tết nguyên đán lúc xa quê.

Bài thứ nhất: "Nguyên đán", TKĐ dịch:

"Vẫn nằm dài quán trọ,

Xuân năm ngoái lại về.

Ngày về, nào biết đ­ợc,

Mai hẳn cỗi v­ờn quê." (1)

Bài thứ hai: "Ngày nguyên đán ở trạm trên sông", TKĐ dịch:

"Cảnh đẹp gặp ngày tết,

Luống th­ơng thân không nhà.

Nỗi buồn vơi chút ít,

Xuân t­ơi dõi mắt già." (2)

Dựng lên lâu đài thi ca Việt Nam, đặc biệt thơ quốc âm đầu thế kỷ XV, d­ới triều Lê, là Nguyễn Trãi (1380-1442). Tôi xin không nói gì thêm về đại thụ ức Trai đã toả bóng t­ơi xanh từ sáu thế kỷ nay, mà xin chép lại đây hai bài thơ xuân cùng đề của Cụ.

 

Bài 1 - Mộ xuân tức sự (Cuối xuân tức cảnh)

           Bản dịch trong "Nguyễn Trãi toàn tập":

"Trọn ngày thong thả khép phòng văn,

Khách tục bên ngoài chẳng bén chân.

Khắc khoải quyên kêu xuân đã muộn,

Hoa xoan m­a nhẹ nở đầy sân." (3)

Bài 2 - Cuối xuân (Thơ quốc âm).

"Tính từ gặp tiết l­ơng thần,

Thiếu một hai mà no chín tuần.

Kiếp thiếu niên đi th­ơng đến tuổi,

ốc d­ơng hoà lại ngõ dừng chân.

V­ờn hoa khóc tiếc mặt Phi tử,

Trì cỏ t­ơi nh­ng lòng tiểu nhân.

Cầm đuốc chơi đêm này khách nói,

Tiếng chuông ch­a đóng ắt còn xuân."

T­ờng cũng nên chép thêm mấy chú thích về bài thơ quốc âm: L­ơng thần là thời tiết tốt, tiết xuân; No là đủ; Tuần có m­ời ngày; ốc (?) d­ơng hoà, hiểu là khí d­ơng hoà; ngõ, tức ngõ hầu, có thể; Phi tử, tức D­ơng quý phi, câu này lấy từ tích Đ­ờng Minh hoàng thấy hoa phù dung nhớ D­ơng quý phi mà khóc; Trì cỏ là cỏ bên ao, sách "Luận ngữ" viết: đức kẻ nhỏ nhen cũng nh­ cỏ; Đóng là đánh, đanh chuông phải dùng chày lớn mà nện giống nh­ đóng.

Sau Nguyễn Trãi, Lê Thánh tôn (1442-1497), nguyên Suý và các văn thần hội viên Hội tao đàn, đã có những đóng gop tích cực cho thơ Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XV cả thơ chữ Hán và thơ quốc âm. Riêng thơ Nôm (quốc âm) ng­ời đời sau đã s­u tập thành "Lê Thánh tôn thi tập""Hồng đức quốc âm thi tập". Xin giới thiệu bài "Vịnh cảnh mùa xuân" trong tập thơ "Hồng đức quốc âm":

"Lật lật bình phong mở mấy lần,

Khắp hoà chốn chốn một trời xuân.

Hiu hiu gió thổi h­ơng lồng áo,

Phơi phới m­a sa ngọc đ­ợm chăn.

Liễu vẽ mày xanh oanh chấp chới,

Mai tô má phấn b­ớm xun xoăn.

Đ­ờng chen xe ngựa tai vang nhạc,

Nào chốn nào là chẳng cõi nhân."

Ta thấy thơ quốc âm ở đây đã dễ hiểu hơn thơ Nguyễn Trãi. Nh­ng thơ vịnh xuân (và thơ nói chung) của nhóm Lê Thánh tôn chủ yếu là ngợi ca đời thái bình thịnh trị, vua giỏi tôi hiền, có thể nói là một dòng thơ riêng. Tr­ớc, trong, và nhất là ở thế kỷ sau đó, thơ xuân của nhiều tác giả, đều là thơ nói về tâm trạng riêng t­ của mỗi ng­ời.

Đàm Văn Lễ (1452-1505) thuở nhỏ nổi tiếng thần đồng, đỗ Giải nguyên rồi đỗ Tiến sĩ năm 18 tuổi, làm quan đến Th­ợng th­, Đông các đại học sĩ. Khi vua Hiến tôn ốm nặng, Kính phi đem vàng đến hối lộ để lập Uy mục là con nuôi của mình. Ông không nhận, và cùng với Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật theo di chiếu, lập Túc tôn làm vua. Túc tôn chết, Uy mục lên ngôi, liền biếm Đàm và Nguyễn vào Quảng nam. Nh­ng khi hai ông đi đến sông Yên lạc (tức sông Lam, đoạn qua Da Lách) thì sai ng­ời đuổi theo bắt phải tự tử. Hai ông đọc một bài thơ quốc âm rồi nhảy xuống sông... Bài thơ Nôm tuyệt mệnh ấy không còn. Nh­ng Đàm Văn Lễ còn để lại đ­ợc 24 bài thơ chữ Hán, trong đó có bài "Ba m­ơi tết ngẫu nhiên làm thơ" tỏ nỗi "chán ghét tình đời", thực ra là chán ghét cái chế độ, cái xã hội nhà Lê đã b­ớc vào thời kỳ suy tàn. Bài thơ đ­ợc viết tr­ớc khi bị hại không lâu. TKĐ tạm dịch:

"Năm mới vừa kề, cũ đã ruồng,

Thói đời chi lạ, nghĩ mà th­ơng.

Tháng, năm mà cũng yêu cũng ghét,

Phụ bạc, đời nay ấy chuyện th­ờng." (4)

Nguyễn Thiên Tích đỗ khoa Hoành từ năm 1431, đi sứ sang Trung Quốc năm 1434, khi về làm Thị ngự sử. Gặp việc Lê Trung Xích sai quân nhân về làm việc nhà, ông tâu lên vua thì Tri t­ tụng Trịnh Khắc Phục giải cứu cho Xích. Ông lại xin xét tội phục bao che kẻ phạm pháp. Vua Thái tôn không nghe, ông liền xin từ chức. Vua ch­a y, ông cũng không chịu đến làm việc nữa. Sau vua xét ông là ng­ời trung thực bèn triệu ra làm chức cũ và cử đi sứ lần thứ hai. Vua th­ờng khen ông ngay thẳng nh­ V­ơng Khuê, Nguỵ Tr­ng đời Đ­ờng, thăng ông lên Th­ợng th­ kiêm Tế tửu Quốc tử giám. Ông còn để lại "Tiêu sơn thi tập". Bài "Làm cuối mùa xuân ở Diễn châu" d­ới đây rút trong tập thơ ấy. TKĐ tạm dịch:

"Nơi từ bóng rợp tiếng đa đa,

Nhìn áng mây trôi chẳng thấy nhà.

Thân náu ba năm, đầu thúa bạc,

Đ­ờng dài muôn dặm bể khơi xa.

Lòng dù bùn dính hoen tơ liễu,

Mình cũng dơ lây bẩn cánh hoa.

Cái luỵ công danh lầm buổi trẻ,

Trồng d­a nghĩ chuyện thẹn cho ta." (5)

"Trồng d­a" ở đây m­ợn tích truyện Thiệu Bình đời Tần đ­ợc phong Đông lăng hầu, sau mất chức, về trồng d­a, d­a ngon có tiếng, để nói tâm trạng chán ngán, giận mình không dám bỏ quan về.

Cùng sống gần đồng thời với Nguyễn Thiên Tích, Đàm Văn Lễ, có Nguyễn Bảo, đỗ Tiến sĩ năm 1472 giữ chức Tả t­ giảng, dạy Thái tử, sau thăng đến Th­ợng th­. Ông có "Châu khê thi tập" gồm 8 quyển, do học trò ông là Trần Củng Uyên s­u tập, biên soạn. Ba bài thơ xuân "Cuối năm tỏ nỗi lòng", "Tức sự ngày xuân", "Chiều xuân ở thôn Tùng Mai" tỏ ra tác giả gần gũi với cuộc sống thôn dã, và mang một tâm trạng u buồn. D­ới đây là bài "Tức sự ngày xuân", TKĐ tạm dịch:

"Giữa đồng, chùa vắng mãi lân la,

Xuân đến, buồn càng bám riết ta.

T­ơi héo cỏ lan thềm phía tr­ớc,

Nhạt nồng khói toả rặng cây xa.

Đất không đ­ợc tốt, khôn gieo giống,

Trời cứ ôn hoà, muốn trỗ hoa.

Ôm sách trên gi­ờng nghe tiếng cốc,

Nghề nông muốn đến học ông già." (6)

Một nhà thơ phụ nữ nổi tiếng thế kỷ XV-XVI là Ngô Chi Lan, vợ Phù Thúc Hoành (Theo "Trích diễm thi tập""Hoàng Việt thi lục" thì vợ Phù Thúc Hoành là Nguyễn Hạ Huệ, các sách khác chép là Ngô Chi Lan). Bà có văn tài, làm nhiều thơ ca, từ khúc, đ­ợc vua Lê Thánh tôn vời vào cung dạy các cung nữ, và gọi là Phù gia nữ học sĩ. Bà có "Mai trang tập" và bốn bài thơ vịnh bốn mùa (Tứ thời khúc), D­ới đây là bài "Mùa xuân" do Trúc khê Ngô Văn Triệu dịch:

Hun ng­ời nắng mới nh­ say,

Lâu đài ấm áp nhuộm đầy d­ơng quang.

Cách rèm, liễu biếc, oanh vàng,

Quang hiên cái b­ớm mơ màng trong hoa.

Tr­ớc thềm ánh nắng dài ra,

Mồ hôi dâm dấp xiêm đà đ­ợm xanh.

Sầu xuân nặng trĩu bên mình,

Ngây thơ đứa nhỏ lanh chanh cợt c­ời." (7)

Chế độ nhà Lê khủng hoảng trầm trọng đẫn tới mất ngôi về tay nhà Mạc. Nh­ng rồi dựa vào họ Trịnh, nhà Lê vẫn tồn tại về danh nghĩa, và kéo dài tới hơn hai thế kỷ nữa.

Nhà Mạc đã mở 22 khoa thi, có 485 ng­ời đỗ, trong đó có 13 trạng nguyên. Nhiều ng­ời thi đỗ d­ới triều Mạc nh­ Bảng nhãn Bùi Vịnh, Tiến sĩ Hà Nhiệm Đại, các Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải..., hoặc làm quan triều Mạc nh­ Tiến sĩ Lê Quang Bí... đều là nhà thơ có tiếng tăm... Để kết thúc phần này, chỉ xin giới thiệu một bài thơ của cụ Trạng Trình.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là ng­ời có danh vọng và uy tín lớn, sống gần trọn thế kỷ XVI. Ông học rộng, tài cao, nh­ng mãi đến 45 tuổi mới thi đỗ Trạng nguyên khoa ất mùi, năm Đại chính thứ 6 đời Mạc Đăng Doanh (1535). Ông làm quan tám năm rồi về ở ẩn ở am Bạch Vân tại quê nhà, mở tr­ờng dạy học bên sông Tuyết giang (do đó có hiệu Bạch Vân tiên sinh, Tuyết giang phu tử). Ông đ­ợc vua Mạc tôn làm quốc s­, phong đến t­ớc Trình quốc công, và chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều kính trọng. Ông để lại hai thi phẩm "Bạch vân thi tập" (chữ Hán) và "Bạch vân quốc ngữ thi tập". D­ới đây là bài thơ "Thôi làm quan, về nhà", làm vào mùa xuân năm 1565 do cụ Ngô Lập Chi dịch:

"Tuổi trời đã ngoại bảy m­ơi t­,

Mừng đ­ợc an nhàn chốn ẩn c­.

Năm mới, cảnh vui đầy vũ trụ,

Nhà nghèo nếp cũ sẵn thi th­.

Xuân về ấm áp hoa, tre tốt,

Nhà trống thênh thang cửa, ghế th­a.

Ai dở ai hay thời mặc kệ,

Già này ngông dại luống mần ngơ." (8)

_________

(1) Nguyên văn:            Nguyên nhật

Lữ quán khách nh­ng tại,

Khứ niên xuân phục lai.

Qui kỳ hà nhật thị,

Lão tận cố viên mai.

(2) Nguyên văn:       Nguyên nhật giang dịch

Hảo cảnh phùng nguyên nhật,

Vô gia mẫn thử nhân.

Khách sầu hồn giảm khứ,

Lão nhãn khán thanh xuân.

(3) Nguyên văn:                Mộ xuân tức sự

Nhàn trung tận nhật bế th­ trai,

Môn ngoại toàn vô tục khách lai.

Đồ vũ thanh trung xuân h­ớng lão,

Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.

(4) Nguyên văn:          Trừ tịch ngẫu thành

Tài cận tân niên yếm cựu niên,

Vô đoan thế thái tận kham liên.

Đẳng nhàn tuế nguyệt do tăng ái,

Mạc quái nhân sinh hữu khí quyên.

(5) Nguyên văn:         Mộ xuân Diễn châu tác

Giá cô đề xứ lục âm đa,

Vọng đoạn hành vân bất kiến gia.

Tùng cúc tam niên s­ơng mấn cải,

Hải môn vạn lý khách trình xa.

Hoạn tình dĩ tự triêm nê nhứ,

Thân sự hồn nh­ lạc phẩn hoa.

Tảo tuế ngộ vi danh sở luỵ,

Đông môn tu sát Thiệu Bình qua.

(6) Nguyên văn:            Xuân nhật tức sự

Dã tự tiêu điều ký sổ duyên,

Nhập xuân phong cảnh kh­ớc du nhiên.

Vinh khô tuỳ ý giai tiền thảo,

Nồng đạm đa tình thụ ngoại yên.

Bán tính bán phì nan chủng địa,

Bất hàn bất noãn dục hoa thiên.

ủng th­ sàng th­ợng văn đề quyết,

Dục phỏng thôn ông học d­ỡng điền.

(7) Nguyên văn:                    Xuân từ

Vô tình huân nhân thiên tự tuý,

Diễm d­ơng lâu đài phù noãn khí.

Cách liêm liễu nhứ độ oanh thoa,

NHiễu hạm hoa tu xuyên diệp xí.

Giai tiền hồng tuyến nhật thiêm tr­ờng,

Phấn hãn vi vi tẩm lục th­ờng.

Tiểu tử bất trù xuân tứ khổ,

Khuynh thân hàm tiếu quá nha sàng.

(8) Nguyên văn:                     Trí sĩ

Hành niên thất thập tứ niên d­,

Hỷ đắc đầu nhàn phóng cựu c­.

Tuế thủ hân quan tân vũ trụ,

Gia bần duy phú cựu thi th­.

Tú hoa dã trúc tam xuân hảo,

Tĩnh kỷ, minh song nhất thất h­.

Thuỳ thị, thuỳ phi h­u thuyết tr­ớc,

Lão cuồng tự tiếu thái dung sơ.

*

*         *

III

Một nhân vật có danh vọng sống suốt thời Nam Bắc triều, chứng kiến và tham gia vào cuộc nội chiến giữa hai tập đoàn phong kiến Lê-Mạc là Phùng Khắc Khoan (1528-1613).

Ông tên tự là Hoằng Phu, tục gọi Trạng Bùng, ng­ời làng Phùng xá, huyện Thạch thất, trấn Sơn tây. Ông là học trò xuất sắc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, học vấn uyên bác, nh­ng khác với Trạng Trình, ông bỏ THăng long, vào Thanh hoa theo nhà Lê, thi đỗ Tiến sĩ năm Quang h­ng thứ ba đời Lê Thế tôn (1580) làm quan đến Th­ợng th­ bộ Hộ. Ông từng đi sứ Trung quốc, và d­ới thời Anh tôn, vì có lời can gián trái ý vua, bị l­u đày vào Thanh Nam (T­ơng d­ơng, Nghệ an). Lúc ở đây, ông có bài "Đào nguyên hành" nói tâm sự riêng, nh­ng chủ yếu mô tả cây cỏ địa ph­ơng. Nh­ng tác phẩm chính của ông là "Ngôn chí thi tập", "Sứ hoa thi tập", "Huấn đồng thi tập", "Độc Thi đa thức", "Tặng thi tính cảnh vật vịnh" và nhiều bài văn xuôi.

Lúc về già, sống trong cảnh nghèo, nên thơ cũng không còn mang cái hăm hở lúc trẻ, nhất là lúc mới thành danh. Bài thơ "Đêm ba m­ơi tết gửi Nguyễn Thanh Trai" d­ới đây làm vào thời kỳ ấy. Trần Lê Sáng dịch:

"áo dài rách m­ớp khách chơi th­a,

Ơn nghĩa phiền ông gửi áo cho.

Kẻ sĩ vụng về duy có lão,

Ông trời phù hộ lúc trai tơ.

Nói gì Quý tử nhiều châu báu,

Nhắc nhở V­ơng tôn lúc muối d­a.

Đ­ợc mất x­a nay th­ờng đắp đổi,

Đời ng­ời quý kẻ mặn tình x­a." (1)

Sách "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn giới thiệu một dật sĩ Thuận hoá là Ngô Thế Lân, tự Hoàn phác nh­ sau: "... Khi nhỏ có chí thú rộng học giỏi văn, ẩn ở xã Vu lai, huyện Quảng điền, tự đặt hiệu là ái trúc trai, năm nay (1776) chừng hơn 50 tuổi, ngụ ở phố Hà thanh. Tôi sai ng­ời đến mời mà không đến, gửi th­ cảm tạ, và nói lấy sự xu thời cầu cạnh làm hổ thẹn. Những bài đề vịnh gọi là "Phong trúc tập" cũng nhã nhặn và có tình tứ...". Sau mấy lời trên, cụ Bảng nhãn Lê chép bài Đề từ, bài tựa, bài bạt và một số bài thơ trong "Phong trúc tập" của Ngô, trong đó có bài "Ngày xuân ngẫu hứng thành thơ", TKĐ phỏng dịch:

"Danh hão vất đi, thấy thật ta,

Măng tre, n­ớc lả chẳng nghèo mà.

Đồng im gió sớm thẳng ngọn khói,

Núi đẫm s­ơng mai t­ơi sắc hoa.

Chuyện phiếm bạn hiền say biết mấy,

R­ợu ngon xuân mới quý bằng ba.

Ví không ai kẻ chung vui với,

Chẳng ngại h­ơu nai bạn núi xa." (2)

Hải th­ợng Lãn ông Lê Hữu Trác (1720-1791) - đại danh y Việt Nam, đồng thời là một thi bá thời bấy giờ. Ông quê gốc Hải d­ơng, về ở quê mẹ, huyện H­ơng sơn. Trong bộ sách đồ sộ "Y tôn tâm lĩnh" 66 quyển, ông có chép trên 70 bài thơ, trong đó có 29 bài đ­ợc xếp thành một quyển, lấy tên là "Y lý thâu nhàn lý ngôn phụ chí" (Phụ chép những bài vè viết trong khi làm thuốc rãnh rỗi). Tập "vè" này có ba bài "Nhàn hứng ngày xuân". D­ới đây là bài thứ nhất, TKĐ tạm dịch:

"Lạnh từ ánh biếc rặng đào,

Đọc xong pho sách tựa vào lan can.

Chim không nỡ quấy ng­ời nhàn,

Hoa nh­ thấy nhạt màu xuân g­ợng c­ời.

Đun trà xong , bé ngủ rồi,

Soạn mâm, bà lão lại ngồi luộc rau.

H­ danh mừng chẳng nơi cầu,

Mặt trời lên mấy con sào, cứ ngơi." (3)

Bùi Huy Bích (1744-1818), tên chữ là Huy Ch­ơng, ng­ời làng Định công, huyện Thanh trì, ngụ c­ làng Thịnh liệt (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Ông đỗ Hoàng giáp năm Cảnh h­ng thứ 30 (1769), làm quan đến chức hành tham tụng.Khi Tây sơn ra Bắc Hà, ông cáo bệnh xin về h­u.

          Th­ Bùi Huy Bích đ­ợc chép thành "Tồn am thi tập".Ông còn có "Nghệ An th­ tập" làm trong thời gian vào giữ chức Hiệp trấn (1777).Ngoài ra, ông còn có hai công trình s­u tầm, truyện chọn thơ văn là "Hoàng Việt thi tuyển""Hoàng Việt văn tuyển".

Bài thơ "Ngày mồng một tết năm nhâm dần" (1782) d­ới đây làm lúc ông giữ chức Hành tham tụng ở Triều, bản dịch của nhóm Lê Quý Đôn:

  "Biên giới năm năm cảnh trải lần,

Kinh thành nay gặp lễ chầu xuân.

Nhịp hà khói n­ớc lay cây tạnh,

Cấm uyển h­ơng thơm động bụi trần.

Chín bệ áo xiêm đà chẳng cách,

Một v­ờn hoa trúc lại th­ờng gần.

Thẹn không bổ ích cho dân n­ớc,

Cũng dự vào trong bậc trọng thần." (4)

Hai thập kỷ cuối thế kỷ XVIII đã chứng kiến sự sụp đỗ hoàn toàn của Triều đại Lê Trịnh và sự ra đời của Triều đại mới Tây sơn. Trong số những nho thần nhà Lê, nhiều ng­ời đã sớm theo giúp tân triều, trong đó, không ít ng­ời để lại những tác phẩm thơ văn mang dấu ấn thời đại.

Ninh Tốn, tự, Khiêm nh­ sau đổi là Hi chi, hiệu Mẫn hiên và Chuyết sơn c­ sĩ, song an c­ sí, sinh năm 1743, quê xã Côi Trì, huyện Yên mô (Ninh Bĩnh, nay thuộc huyện Tam Điệp) nh­ng quê gốc lại ở xã Ninh Xá, huyện Chí Linh (Hải D­ơng).Ông đỗ H­ơng cống, năm 19 tuổi, đề thơ ở núi Vân Lỗi (Thanh Hoa) đ­ợc chúa Trịnh Sâm mến tài, triệu vào giữ chức phiên liêm tri Binh phiên. Năm 1778, ông đổ hội nguyên tiến sĩ đ­ợc x­ làm phụng tá quân hải lộ. Năm 1786 làm Hiệp trấn Động hải (Quảng Bình)... Năm 1788 Bình Định v­ơng Nguyễn Huệ ra Bắc, Ninh Tốn đ­ợc phong hàm làm trực học sĩ, đ­ợc giao giúp việc Ngô Văn Sở ở đất bảo cùng với Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lân. Về sau ông đ­ợc thăng đến binh bộ th­ợng th­, t­ớc hầu.

Trong thời gian làm quan d­ới Triều Lê - Trịnh, Ninh Tốn làm rất nhiều thơ, chép trong "Tây hồ mạn hứng". Nay thơ ông còn lại 275 bài đ­ợc s­u tập, chép trong "Chuyết sơn thi tập", "Tiền Lê Tiến sí Ninh Tốn thi tập"... D­ới thời Tây sơn, chắc ông cũng có làm thơ,  nh­ng nay không còn l­u lại đ­ợc. Bài "Xuân bính thân (1776) đ­ợc sai làm án sát ở Sơn nam" chép trong "Tiền Lê Tiến sĩ Ninh tốn thi tập" d­ới đây do cụ Kh­ơng Hữu Dụng dịch:

"Thanh tịch lòng đâu v­ớng rộn ràng,

C­ời ta đạm bạc tính trời mang.

Một bầu từng quý ngang chung đỉnh,

Năm đấu nào cho lấn sách đàn.

Trên đoạ quân thần riêng nặng trĩu,

Trong tr­ờng danh giáo đ­ợc vui tràn.

Chỉ mong dân chúng không oan uổng,

Chẳng lọt gian lều tiếng oán than." (5)

Phan Huy ích (1750-1822) hiệu Dụ am, ng­ời làng Thu hoạch, huyện Thạch hà, trấn Nghệ an, sau ra ở làng Thuỵ khê, huyện Thạch thất, trấn Sơn tây. ông là con tr­ởng Tiến sĩ Phan Huy Cẩn và là con rể Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ. Năm 1771 ông đỗ h­ơng nguyên, năm 1775 đỗ hội nguyên, rồi chế khoa đồng Tiến sĩ. Buổi đầu làm quan triều Lê, đ­ợc chúa Trịnh Sâm trọng dụng. Nh­ng sau vụ án năm Canh tý (1780) là con rể họ Ngô, ông cũng bị hiềm nghi. Do đó, ông cảm thấy chán việc làm quan, xin từ chức, nh­ng lại đ­ợc sai vào làm Đốc đồng Thanh hoa. Ông ở d­ới thuyền, hơn một năm, không chịu lên trấn sở, ai có việc gì thì đến gặp... Nhà Lê mất, ông lánh về vùng Sơn tây.

Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm, mời một số sĩ phu Bắc hà trong đó có Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Thế Lịch, Vũ Huy Tấn, Phan Huy ích... Phan đ­ợc giao cùng Ngô lo việc giao tiếp với nhà Thanh. Khi Lê Chiêu Thống r­ớc quân Thanh vào Thăng long, những ng­ời theo Tây sơn bị đục tên trên bia tiến sĩ và bị truy nã. Phan phải tránh về Thuỵ khê. Sau khi chiến thắng quân Thanh (1789) ông lại đ­ợc triệu ra lo việc bang giao và năm 1790, ông đ­ợc sung lắm trọng thần hàng văn trong sứ bộ của vua Quang trung (giả) sang Trung quốc...

Trở về, ông đ­ợc phong chức Thị lang Ngự sử ở toà nội các thì năm 1792 vua Quang trung mất... Nhà Tây sơn mất (1802), ông cùng Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thế Lịch bị bắt. Sau khi bị Đặng Trần Th­ờng đánh thị nhục ở Văn miếu, Phan Huy ích lại trở về Thuỵ khê, Sài sơn và mất vào năm 1822, thọ 73 tuổi.

Thơ, văn Pha Huy ích rất nhiều, nh­ng một phần bị mất mát. Năm 1814-1815, ông sai con cháu thu thập lại, xếp thành bộ "Dụ am ngâm lục" chia làm 6 sách gồm khoảng 600 bài thơ, và "Dụ am văn tập" gồm 20 bài văn. Bài thơ "Mùa xuân ở công quán, ghi việc" viết ở kinh Thuận hoá lúc ông làm quan d­ới triều Tây sơn, TKĐ phỏng dịch:

"Dinh toà trời mở chốn đồng quê,

Chùa cổ đầy sân những ngựa xe.

Nghỉ d­ới nhà chay th­ờng dậy muộn,

Họp trên toà sảnh phải bàn khuya.

Gợi tình tr­ớc núi hoa, chim sẵn,

D­ỡng tính trong nhà sách vỡ mê.

Rảnh việc, quán xa nhiều thú sẵn,

Bên song khay r­ợu với bình chè." (6)

Một nho sĩ Bắc hà khác có đóng góp lớn cho triều đại Tây sơn là Ngô Thì Nhậm, anh vợ Phan Huy ích.

Ngô Thì Nhậm tự Hy Doãn, hiệu Đạt hiên (1746-1803) là con trai tr­ởng của Ngô Thì Sỹ (1726-1780) quê làng Tả thanh oai, huyện Thanh trì , gần thành Thăng long. Lúc nhỏ, ông học với ông nội rồi với cha đỗ đầu thi h­ơng vào năm 1765. Năm 1769, ông đỗ khoa sĩ vọng đ­ợc bổ Hiến sát phó sứ Hải d­ơng. Đến năm 1775, ông đỗ tam giáp Tiến sĩ, cùng khoa với Phan Huy ích, đ­ợc bộ Hộ khoa cấp sự trung rồi thăng đến Đốc đồng Kinh bắc, Đốc đồng Thái nguyên.

Sau vụ án Canh tý (Trịnh Tông m­u trừ phe Trịnh Cán, con Đặng Thị Huệ) Ngô Thì Nhậm đ­ợc thăng Công bộ Hữu thị lang. Khi Trịnh Sâm chết, quận Huy bị kiêu binh giết. Trịnh Cán bị phế, ông phải trốn về quê vợ ở Sơn nam.

Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc, Ngô Thì Nhậm là ng­ời đầu tiên h­ởng ứng lời kêu gọi "cầu hiền", đ­ợc Bắc bình v­ơng phong chức Tả thị lang bộ Lại, t­ớc tình phái hầu. Ông đã không phụ lòng tân chúa, có những đóng góp cho sự nghiệp nhà Tây sơn, đặc biệt là về ngoại giao. Năm 1792, vua Quang trung mất, ông đ­ợc cử làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong cho Quang Toản. Khi nội bộ nhà Tây sơn rối ren, ông xin về trí sĩ ở Thăng long lập Thiền Viện Trúc lâm, nghiên cứu triết học.

Nhà Tây sơn mất, Ngô Thì Nhậm (cùng Phan Huy ích) bị đánh thị nhục ở Văn miếu. Và ông đã bỏ mạng vì trận đòn trả thù  này, ngày 16 tháng hai năm Quý hợi (9-3-1803).

Ngô Thì Nhậm để lại một khối l­ợng thơ văn đồ sộ. Riêng thơ đã có đến 7 tập: "Bút hải tùng đàm", "Thuỷ vân nhàn vịnh", "Ngọc đ­ờng xuân khiếu", "Cúc hoa bách vịnh", "Thu Cận d­ơng ngân", "Cẩm đ­ờng nhàm thoại", "Hoàng hoa đỗ phả".

Bài "Xuân thuật" d­ới đây rút trong "Thu cận d­ơng ngôn", tập thơ viết khi làm quan thời Quang trung, bản dịch của Ngô Linh Ngọc:

"Khắp thành m­a bụi, khắp thành xuân,

Quán khách đìu hiu mấy núi gần.

Già đến, có tiền khôn chuốc trẻ,

Ngôi cao ngiều lịch chẳng lo bần.

Tai đầy tiếng nhạc, thịt chẳng thiết,

Dạ nức mùi h­ơng, xông khỏi cần.

Chén ngọc rót mừng năm mới đến,

Đ­ờng hoa bầu bạn có Đông quân." (7)

__________

(1) Nguyên văn:  Trừ tịch Nguyễn Thanh trai kiến ký

Tệ bào ngỗ khách đáo thôn hy,

Trịnh trọng phiền quân nãi nhĩ ti (t­)

Tài sĩ bần c­ duy ngã chuyết,

Hoá công bồi đốc phỉ vu trì.

Vị ngôn Quý tử dã kim nhật, (a)

Phả tự V­ơng tôn nhất phạn thì. (b)

Tự cổ cùng thông do tuế tiết,

Phong trần nhân phẩm quý t­ơng tri.

      (a) Quý tử, ng­ời đời Chiến quốc, cho Tô Tần áo bào, (b) V­ơng tôn chỉ Hàn Tín đời Hán đ­ợc bà Xiếu mẫu cho cơm.

(2) Nguyên văn:          Xuân nhật ngẫu thành

Phù danh phóng hạ kiến ngô chân,

Thuỷ trúc sinh nhai hạnh bất bần.

Dã hiểu vô phong yên tự trực,

Sơn hoa hữu lộ sắc thiên tân.

Cao đàm đối khách nhiêu tam thốn,

Giai nh­ỡng phùng xuân hảo thập phân.

Liệu đắc vô nhân đồng thử lạc,

Bất ph­ơng mi lộc kết vi lân.

          (3) Nguyên văn:         Xuân nhật nhàn hứng.

Đào âm lộng ảnh thuý sinh hàn,

Độc hãi Hoàng kinh cánh ỷ lan (a).

Điểu thức nhân nhàn vô cảm náo,

Hoa nh­ xuân đạm c­ỡng khoai nhan.

D­ợc đồng chứ mỉnh miên song c­ớc,

Lão phụ ch­ng lê thịnh thảo bàn.

Khà kỷ h­ danh vô sở thụ,

Bế môn thâm thuỵ nhật tam cơn.

 (a) Hoàng kinh: Pho sách của Hoàng đế, tổ s­ nghề thuốc, tức sách thuốc.

(4) Nguyên văn:                        Nhâm dần tuế đán.

Ngũ tuế bão chiêm biên địa cảnh,

Kim niên hỷ cận quốc thành xuân.

Nhị hà yên thuỷ dao tình thụ,

Cấm ngự h­ơng phong động nhuyễn trần.

Cửu bệ miện l­u nguyên bất viễn,

Nhất viên hoa trúc hựu t­ơng thân.

Chỉ tàm nhiếp lý hào vô bổ,

Diệc xỉ thiên gia pháp tụng thần.

            (5) Nguyên văn: Bính thân xuân khiển doãn tác lỵ Nam niết.

Đồ biên an đắc bạn thanh h­,

Y cựu thiên chân tự đạm nh­ .

Tằng ấp nhất biều đ­ờng đỉnh nại,

Khởi dung ngũ đẩu doãn cầm th­.

Quân thân đạo th­ợng hoài thiên trọng,

Danh giáo tr­ờng trung lạc hữu d­.

Đạn nguyện ngô dân vô uổng khuất,

Sầu minh biết đáo bán gian l­.

(6) Nguyên văn:                 Xuân để ký sự

Thiên khai sảnh viện thử giao quynh,

Luân bí tề xu cổ phạm đình.

Công toạ thâm tiêu đàm vị tán,

Lữ trai vãn trú thuỵ sơ tinh.

Tiền c­ơng hoa điểu t­ ngâm liệu,

Mãn giá đồ th­ d­ỡng tính linh.

Cơ hoạn thiết nhàn đa hứng trí,

Đông song tửu quả hựu trà bình.

(7) Nguyên văn:                       Xuân thuật

Mãn thành mai vũ mãn thành xuân,

Khách quán tiêu sơ đối thụ vân.

Lão chí, hữu tiền nan mãi thiếu,

Vị cao đa lịch bất vi bần. (a)

Thiều doanh nhĩ  bạng nghi vong nhục,

H­ơng phức tâm đầu khởi dụng huân.

Thả ch­ớc thái hoàn nghinh vong nhục,

H­ơng phức tâm đầu khởi dụng huân.

Thả ch­ớc thái nghinh tuế đán,

Phù dao bản ngã hữu Đông quân. (b)

      (a) Đa lịch: Quan nhất phẩm đầu năm đ­ợc ban dịch 100 bản, lại ban thêm một bản "Đại thanh thời hiên th­".

      (b) Phù dao: Gió xoáy đ­a từ d­ới lên.

*

*       *

IV

Năm nhâm tuất (1802) Nguyễn ánh lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, khai sáng ra triều Nguyễn. Từ đây, đất n­ớc đi vào một thời kỳ khó khăn mới. Bên trong thì hạn lụt, đói kém; giặc giã, bên ngoài thì đế quốc ph­ơng tây lăm le nhảy vào xâm l­ợc. Mấy ông vua đầu triều Nguyễn đã có những cố gắng lớn, nh­ng không sao ổn định lại tình hình, lại phạm nhiều sai lầm lớn: giết công thần, cấm đạo, đóng cửa với bên ngoài, làm cho tình hình càng khủng hoảng nghiêm trọng. Đặc biệt, t­ t­ởng "chủ hoà" đã đẩy triều đình đến nỗi bỏ dân, nh­ờng giặc, "làm mất n­ớc" nh­ vua Tự Đức "tự phê"!.

Nguyễn Công Trứ (1778-1859), ng­ời làng Uy Viễn, Nghi Xuân, ở tuổi 24, hăm hở với bản sớ "Thái bình thập sách" dâng lên vua Gia Long, thì khi thành đạt, ba chìm bảy nổi trong quan tr­ờng, nhận rõ nhân tình thế thái, ở tuổi 70, mới hiểu ra rằng công danh chỉ là "tuỳ cơ, khối lỗi cung nhân tiếu" - "một đời múa rối cho ng­ời nhạo" mà thôi. Có điều, cụ Uy Viễn hơn ng­ời ở chỗ "tri túc", "tri nhàn". ở trong cái lồng chật chội, cụ vẫn tự do, vẫn "ngất ng­ỡng" đ­ợc. Sống giữa gió bụi đời th­ờng, cụ biết tận h­ởng... "nghìn vàng mộ khúc xuân tiêu". Khi gặp xuân, cụ Vịnh xuân (1).

"Xuân sang hoa cỏ đua t­ơi

Khoe màu quốc sắc, trẻ mùi thiên h­ơng, (a)

Đầm ấm thuở tin xuân phút bắn.

Khi phát sinh rải rác trên cành,

Thử tập bay b­ớm mới uốn mình.

Muốn học nói oanh còn lựa tiếng,

Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh.

Đào thỉ tân hồng điệp vị tri, (b)

Mái đông phong mày liễu xanh rì.

Đám tàn tuyết đầu non trăng xoá,

Buổi hoà hủ khí trời êm ả. (c)

Hội đạp thanh xa mãi dập dìu,

Nghìn vàng một khúc xuân tiêu. (d)"

Thế hệ sau Nguyễn Công Trứ có Nguyễn Văn Nghị, Cao Bá Quát..., đều là bậc tài hoa mà đ­ờng đời trắc trở.

Phạm Văn Nghị (1805-1881) ng­ời xã Tam Đăng, phủ Nghĩa H­ng, tỉnh Nam Định, đỗ Hoàng giáp khoa mậu tuất (1838) đời Minh mệnh, làm quan từ Hàn lâm Tu soạn, Tri phủ, Biên tu quốc sử quán, xin về nghỉ, lại bị triệu ra làm Đốc học, rồi Th­ơng biện kiêm Hải phòng sứ Nam Định. Năm 1858, quân Pháp đánh Đà Nẵng, Nam Kỳ. Ông tổ chức đội nghĩa dũng xin vào Nam đánh giặc, sau lại về quê tổ chức việc tiểu phỉ, cho đến khi quân Pháp hạ thành Nam Định... Ông làm quan không lâu, nh­ng nhiều lần bị trách phạt, và lần này triều đình đổ lỗi cho ông để mất Nam Định, xử tội trảm giam hậu, rồi đuổi về Hoa L­ (Ninh Bình) để làm vui lòng ng­ời Pháp. Ông ở động Liên Hoa - Hoa L­ sáu năm, vào Thanh ở với con là Bố Chính Phạm Văn Giảng, nh­ng ngã bệnh, phải về quê Tam Đăng rồi mất.

Thơ văn của Phạm Văn Nghị òn lại bộ Tùng Viên Văn tập 11 quyển, do con trai thứ hai là Cử nhân Phạm Văn Hân s­u tập, nói nhiều đến những vấn đề cảnh ngộ bản thân và đất n­ớc. Nh­ng ở đây xin giới thiệu một nét tình cảm đối với bà vợ ở quê lúc ông làm quan tại kinh qua bài 1 trong chùm thơ ba bài "Xuân nhật vũ trung hữu sở t­" - "M­a xuân chạnh nhớ ai" - Thái Kim Đỉnh phỏng dịch (2):

"Cành liễu m­a đầm ­ớt khí xuân,

Đ­ờng về đã giục b­ớc hành nhân.

Giang hồ giận tớ khinh ly biệt,

Ân ái th­ơng ng­ời lẻ gối chăn.

Trong giấc say mơ oanh động gối,

Ngoài song dậy ngóng nhạn qua sân. (a)

Đêm thanh ­ớc đ­ợc cùng sum họp,

Nỗi nhớ may ra sẽ vợi dần."

"Thi thánh"Cao Bá Quát (1809-1853) tự là Chu Thần, ng­ời làng Phú thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Quyết Chiến, Gia Lâm, Hà Nội). Là chàng trai thông minh, nổi tiếng học giỏi, 14 tuổi đã đi thi nh­ng đến 23 tuổi mới đỗ cử nhân á nguyên, bộ Lễ xét, đẩy xuống cuối bảng. Lại bao nhiêu lần vào kinh thi hội đều bị hỏng bay. Đến tuổi 32, ông mới đ­ợc gọi ra giữ chức hành tẩu (th­ lại) bộ Lễ, rồi đ­ợc cử làm sơ khảo tr­ờng h­ơng Thừa Thiên. Th­ơng mấy ng­ời học trò gỏi có chút sơ suất trong bài, ông đã cùng bạn là Phan Nhạ (ng­ời Nghệ An) dùng muội đèn sửa cho. Việc phát giác, Cao bị kết tội trảm (chém), sau đ­ợc hạ xuống giảo giam hậu (thắt cổ, nh­ng giam lại, đợi lệnh), rồi phải xuất d­ơng hiệu lực sang Giang-l­u-ba (Nam D­ơng). Năm 1843, trở về kinh, Cao bị thải hồi, rồi bốn năm sau, đ­ợc gọi trở lại, sung vào Viện hàn lâm, với công việc chính là s­u tầm, sắp xếp lại văn thơ. Thời gian này, Cao gặp gỡ, x­ớng hoạ và đề tựa tập thơ của Tùng Thiện v­ơng Miên Thẩm (1850). Sau đó, Cao đ­ợc bổ làm Giáo thụ phủ Quốc Oai. Năm 1853, Cao tham gia cuộc khởi nghĩa Mỹ L­ơng và bị giết hại...

D­ới đây là bài "Xuân dạ độc th­" - (Đêm xuân đọc sách) của Cao, TKĐ phỏng dịch (3):

"Ng­ời nay nào biết xuân thời tr­ớc,

Man mác xuân này gặp cổ nhân.

Bao nả việc đời kim hoá cổ,

Tin chi tr­ớc mắt huyễn là chân.

Mấy trò danh lợi m­a ban sáng,

Bao đám hùng anh bụi cõi trần.

C­ời tớ thói đời ch­a rủ sạch,

Quá mê sách vở hoá ra đần!"

Vào thời điểm lịch sử này, tr­ớc nạn n­ớc, mỗi ng­ời thể hiện tấm lòng của mình bằng cách riêng, theo hoàn cảnh riêng. ở thế hệ tr­ớc, thủ khoa Huân, hoàng giáp Nghị vừa làm thơ, vừa cầm kiếm đánh giặc, còn Đồ Chiểu, Cử Trị lại chỉ lấy ngòi bút làm vũ khí. ở thế hệ sau có Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích, Phan Đình Phùng... đều là những nhà lãnh đạo phong trào cần v­ơng chống Pháp.

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn (1825-1889), ng­ời làng Quần Ph­ơng, xã L­ơng Điền, tổng Thái Xá, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An. Thi đỗ, làm quan đã luống tuổi, "không học đ­ợc thói ­ơn hèn, siểm nịnh" nên hoan lộ th­ờng trắc trở, nhất là khi ông biểu lộ sự biểu lộ sự bất bình với chính sách hoà với Pháp của triều đình. Cuối cùng, ông bị cách chức, đẩy về quê. Tháng 7-1885, kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm nghi xuất bôn, ông cùng các sĩ phu vùng Yên Thành, Diễn Châu tổ chức khởi nghĩa chống Pháp, đ­ợc vua Hàm nghi giao trách nhiệm chỉ huy quân cần v­ơng ở Nghệ An. Ông bị th­ơng trong một trận đánh, đang nằm điều trị thì bị quân Pháp bắt đ­a về giam ở Huế, và mất trong lao năm 1889. Thơ văn cũng là một bộ phận trong sự nghiệp cứu n­ớc của Nguyễn Xuân ôn. D­ới đây là bài I trong hai bài thơ làm ngày nguyên đán năm mậu tý (1888) khi còn bị giam ở Vinh. Lời thơ bình thản mà chứa nỗi đau xót của ng­ời dân mất n­ớc.

"Mậu tý niên nguyên đán, cảm tác" - Bài 1 - TKĐ phỏng dịch (4):

"Còi trống lừng vang, pháo hiếm thay,

Cổng thành sẩm tối rộn kèn tây.

R­ợu ngon hết nhẵn khôn chúc tết,

Thơ loạn ngâm hoài để đ­ợc say.

Lịch Hạ đã thay ngày tháng cũ,

Đất Chu đâu nữa bản đồ nay?

Công đ­ờng quan đ­ợc riêng nhàn rỗi,

Tiếng trúc thanh bình lại vút bay."

Nguyễn Quang Bích (1832-1890) để lại "Nghi phong thi văn tập" viết trong thời gian ông lãnh đạo phong trào cần v­ơng chống Pháp ở vùng Tây-Bắc từ 1884 đến 1889. Nguyễn Quang Bích, tự Hàm Huy, hiệu Ng­ Phong, ng­ời làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến X­ơng, tỉnh Nam Định, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Năm mậu ngọ, 27 tuổi, ông đỗ tú tài, rồi năm tân dậu (1861) đỗ Cử nhân, bổ nhiệm Giáo thụ phủ Tr­ờng Khánh (Ninh Bình). Đ­ợc hơn một năm, ông về quê c­ tang, mở tr­ờng dạy học. Năm kỷ tỵ (1869), ông đỗ Nhị giáp Tiến sĩ ân khoa, lúc ấy đã 38 tuổi. Sau đó, ông làm quan trải qua các chức Tri phủ Diên Khánh (Khánh Hoà) , án sát Sơn Tây, Tế tửu Quốc tử giám, Chánh sứ Sơn phòng rồi Tuần phủ H­ng Hoá Da đức độ cao, ông đ­ợc nhân dân nhiều nơi lập sinh từ để tỏ lòng biết ơn, và gọi ông là "Phật sống". Năm ất dậu (1885), quan Pháp đánh lên vùng Tam Tuyên (Sơn Tây, H­ng Hoá, Tuyên Quang), ông đem quân chống cự, đ­ợc vua Hàm nghi phong làm Lễ bộ Th­ợng th­, sung HIệp thống quân vụ đại thần, lãnh đạo nghĩa quân cần v­ơng vùng Tây Bắc chống Pháp trong bốn năm, và mất đầu năm 1890 tại quân thứ.

Trong bài tựa tập "Ng­ Phong", ông viết: "Tôi không biết làm thơ, lại không hay làm thơ... Đây cũng giống nh­ trùng theo khí hậu, giống chim theo thời tiết, tự theo rồi lại tự thôi để tiêu khiển cảm hoài, chớ có dám nói gì đến việc làm thơ". D­ới đây là bài "Xuân nhật tức sự" - Ngày xuân tức sự, rút trong tập thơ ấy, theo bản dịch của Nguyễn Văn Bách (5):

"Xập xoè từng cặp én đ­a thoi,

Khắp nẻo xuân về đặm nét t­ơi.

Ngọc dựng thẳng hàng ngàn trúc biếc,

N­ớc tuôn dồn cát đáy chuông vơi.

Hang son nuôi d­ỡng chồm đuôi ph­ợng,

Suối bạc vần quanh đập n­ớc dồi.

Sấm dậy hơi xuân xua khí lạnh,

Thảnh thơi an d­ỡng tháng ngày dài."

Bài thơ làm một năm tr­ớc lúc mất, trong khi cuộc kháng chiến đang gặp nhiều khó khăn, thế mà tác giả tỏ ra bình thản, và có niềm tin vững vàng vào ngày mai.

Khi Nguyễn Quang Bích đang là Tuần phủ tại chức, có một đội quân triều đình trong tay để bắt đầu cuộc kháng chiến cần v­ơng, thì Phan Đình Phùng phải tập hợp các sĩ phu, nghĩa sĩ và những ng­ời nông dân yêu n­ớc để thành lập đội nghĩa quân chống Pháp.

Phan Đình Phùng (1843-1896) quê làng Đông Thái, xã Việt Yên Hạ, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Xuất thân từ một gia đình khoa bảng, ông đỗ đình nguyên Tiến sĩ khoa đinh sửu (1877) lúc 34 tuổi. Là ng­ời c­ơng trực, lúc làm Tri phủ Yên Khánh (Ninh Bình), ông đã phạt đánh một giáo sĩ dám ỷ thế tây, ức hiếp dân. Sau việc này, bị triệu về kinh giữ chức Ngự sử, ông lại dâng sớ đàn hặc các quan văn võ đại thần đã man tấu việc thi bắn súng ở cửa Thuận An. Năm 1883, ông dám chống lại Tôn Thất Thuyết ngay giữa triều đình khi ông Thuyết tuyên bố phế vua Dục đức. Ông bị giam vào ngục cẩm y rồi bị cách chức, đuổi về quê quán. Năm 1884, Phan Đình Phùng đ­ợc cử làm Tham biện sơn phòng Hà Tĩnh. Ông ngầm hiểu đó là ý Tôn Thất Thuyết, giao cho ông sẵn sàng chuẩn bị lực l­ợng để sẵn sàng đối phó với tình hình. Tháng 9-1885 vua Hàm nghi xuất bôn, ra đến sơn phòng Phú Gia, H­ơng Khê, Phan Đình Phùng dẫn đầu một số sĩ phu La Sơn lên bái yết. Ông đ­ợc vua phong làm Tán lý quân vụ đại thần, thống lĩnh các đội quân cần v­ơng. Đ­ợc sự giúp đỡ của Cao Thắng cùng nhiều sĩ phu, nghĩa sĩ, và đ­ợc nhân dân h­ởng ứng, Phan Đình Phùng đã xây dựng căn cứ và lực l­ợng hùng hậu, và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp xâm l­ợc suốt m­ời năm (1885-1895) trên bốn tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình.

Cũng như­ Nguyễn Quang Bích, Phan Đình Phùng không hay làm thơ. Nh­ng trong thời gian lãnh đạo phong trào cần v­ơng, ông đã để lại một ít tác phẩm chứa chan lòng yêu n­ớc, th­ơng dân. D­ới đây là bài "Mậu tý nguyên nhật" - Ngày mồng một tết năm mậu tý - TKĐ phỏng dịch (6):

"Ngoài sân oanh liệng hót trên huê,

Hoa báo xuân sang ng­ời chửa về.

Núi Ngự trăm năm buồn nắng loá,

Ngàn Hống muôn dặm ngóng mây che.

Nếp nhà gốc đó, đền trung hiếu,

Đất khách lòng đâu ngại biệt ly.

Tết đến, ng­ời ng­ời vui đón tết,

Riêng mình da diết dạ sầu bi."

 

____________

(1)Trong bài này:

a, Trẻ: tiếng Nghệ-Tĩnh cũng là khoe.

b, Hai câu này có nghĩa: "Liễu đã lại xanh, oanh chửa hót - Đào vừa hé thắm ch­a hay".

c, Hoà hú: (Khí hậu) ấm áp.

d, Xuân tiêu: Đêm xuân.

(2 Nguyên văn:

Vũ đới xuân hàn thấp liễu chi,

Chinh nhân chính tại mạch đầu quy.

Bồng tang tiếu ngã khinh ly biệt,

Cân trất liên quân cọng t­ớng tuỳ.

Thuỵ khởi hiểu song phi bạch ích, (a)

Tuý lai mộng chẩm chuyển hoàng ly.

Hà đ­ơng cập thử l­ơng tiêu hội,

Tả ngã tam thu nhất nhật ty (t­).

a, ích là con chim dang, ở đây dịch là (chim) nhạn cho khỏi thất luật.

(3) Nguyên văn:

Kim nhân bất kiến cổ thời xuân,

Trù tr­ớng kim xuân đối cổ nhân.

Thế sự kỷ hà kim bất cổ?

Nhãn tiền mạc nhân huyễn vi chân.

Kỷ đa danh lợi chung triêu vũ,

Vô số anh hùng nhất tụ trần.

Tự hiếu tục câu phao vị đắc,

Nhĩ lai huề quyển thái chuân chuân.

(4) Nguyên văn:

Bộc trúc thanh hy cổ giác đa,

Thành môn nhập dạ náo xuy già.

Tiêu hoa tửu yết nan vi tụng,

Hà thảo thi tồn khả tái ca.

Thiên thống dĩ phi hành Hạ chính,

Địa đồ khởi phục hiến Chu gia?

Công sanh thiên đắc nhàn vô sự,

Tiêu quản thanh thanh lạc thái hoà.

(5) Nguyên văn:

Phi yến song song bạn lữ t­ờng,

Nhất ban hoà hú mậu xuân d­ơng.

Thiên hàng ngọc lập lăng tu trúc,

Vạn thuỷ sa lung hộ thiển đ­ờng.

Đan huyệt d­ỡng thành tề ph­ợng vĩ,

Thanh khê tà nhiễu quả sơn l­ơng.

Xuân lôi phát  hậu âm hàn thấu,

An d­ỡng thừa h­u hoá nhật tr­ờng.

(6) Nguyên văn:

L­u oanh đình ngoại ngự hoa chi,

Hoa báo xuân quy nhân vị quy.

Bình lĩnh bách niên t­ nhật nhiễu,

Hồng sơn vạn lý vọng vân phủ.

Ngô gia hữu giáo căn trung hiếu,

Khách địa vô tâm oán biệt ly.

Giai tiết thị nhân hành lạc xứ,

Ngã phùng giai tiết bất thăng bi.

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114513549

Hôm nay

222

Hôm qua

2313

Tuần này

21486

Tháng này

220422

Tháng qua

121356

Tất cả

114513549