Tuy hoàn cảnh cuộc đời mỗi người có nhiều thay đổi, nhưng tình bạn của tôi đối với anh không thay đổi. Trong thời gian sau giai đoạn “Nhân văn - Giai phẩm”, sau khi cả hai đều mất công việc giảng dạy, chỉ còn làm phiên dịch, hai người thường đi chung với nhau. Người nào nhắc đến Phan Ngọc thì cũng nhắc đến Cao Xuân Hạo, và ngược lại cũng thế. Kể ra, điều này không phải là vô lý, vì tôi và anh Hạo có nhiều điểm chung, khiến chúng tôi khác nhiều người.
Tôi xin nói trước đến một vài điểm giống nhau.
Ai cũng nhận thấy anh Hạo thạo nhiều ngoại ngữ. Theo kinh nghiệm của tôi, điều này là dựa vào việc học tiếng La tinh. Người nào đã học tiếng La tinh cũng đều nhận thấy trong ngôn ngữ này, hệ thống biến hóa hình thái là vô cùng phức tạp. Hầu như mọi quan hệ hình thái có thể có trong các ngôn ngữ phương Tây, thì đều có sẵn trong tiếng La tinh, cho nên đã học tiếng La tinh thì việc nắm các quan hệ ngữ pháp của các ngôn ngữ châu Âu là hết sức dễ dàng, gần như không cần phải học. Còn về vốn từ, thì tối đại đa số các chính tố trong các tiếng châu Âu đều đã có sẵn trong tiếng La tinh, cho nên việc nhớ không phải vất vả. Đã thế, một câu tiếng La tinh trung bình có từ 200 đến 300 chữ. Khi dịch ra tiếng Pháp bắt buộc phải dịch thành 4-5 câu, vì tiếng Pháp là ngôn ngữ phân tích tính. Do đó mà học được cách ngắt câu và cách viết sao cho các câu tách rời này vẫn tạo thành một thể thống nhất chặt chẽ là điều hết sức cần thiết. Những điều này đều hết sức có lợi giúp người học biết phân tích, tổng hợp, hay biết cách dùng các từ đệm sao cho cả một loạt câu thành một thể thống nhất. Không phải ngẫu nhiên mà anh Hạo, cũng như Trương Vĩnh Ký đều rất giỏi ngoại ngữ. Anh Hạo còn hơn tôi về điểm anh rất thạo âm nhạc, đã từng là một nhạc công và một nhạc sĩ. Cho nên anh có tai rất tốt, và rất thạo cách bắt chước sao cho đúng với ngôn ngữ nước ngoài. Có thể nói anh là nhà ngôn ngữ học bẩm sinh, và đời tôi chưa gặp một người thứ hai có năng khiếu này như anh. Phần lớn các nhà ngôn ngữ học Việt Nam, kể cả tôi và anh Nguyễn Tài Cẩn, đều do say mê ngôn ngữ học mà học suốt ngày nên có đôi chút thành tựu, chứ không phải là những nhà ngôn ngữ học bẩm sinh.
Anh Hạo cũng không bị kỷ luật làm nản chí, trái lại, càng lo làm việc tích cực hơn. Công việc cũng là dịch và làm khoa học. Anh đi vào âm vị học, tôi đi vào tín hiệu học để tìm hiểu tiếng Việt và văn hóa Việt. Hai ngành này đều cùng một gốc, theo cái xu hướng ngôn ngữ học mới ra đời sau những năm 30 của thế kỷ 20. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà hai người gắn bó với nhau và thường tâm sự với nhau. Chính tôi đã đưa anh vào trường đại học tổng hợp và sư phạm để làm giảng viên ngữ âm học, vì thực tế lúc bấy giờ chưa có ai thạo ngữ âm học. Còn tôi thì biết năng khiếu của anh về ngữ âm học từ những buổi trò chuyện ở trường trung học Nguyễn Xuân Ôn phủ Diễn Châu (Nghệ An), vào những năm 1947-1949, khi thầy Cao Xuân Huy còn làm hiệu trưởng.
Anh Hạo cũng như tôi đều đi con đường thức nhận. Khi đi con đường này, người làm khoa học không bó hẹp vào cách nhìn của mình để đưa ngay ra kết luận về một hiện tượng. Trái lại, anh ta đối lập cách nhìn của mình về một vấn đề nào đó với mọi cách nhìn có thể có cũng về vấn đề này. Bài viết toàn là đối lập và đối lập, và người viết cố gắng giải thích mọi kiến giải khác nhau để cuối cùng đưa ra kiến giải của mình mà anh ta cho là hợp thực tế. Rất tiếc là tôi và anh tuy có cộng tác với nhau trong việc dịch một vài tác phẩm, nhưng chưa hề có dịp cộng tác với nhau về văn hóa học hay ngôn ngữ học. Việc khen chê đúng sai là thuộc thực tế sau này, tôi không dám bàn đến.
Bây giờ nói đến chỗ khác nhau.
Chỗ khác nhau chủ yếu là ở lối sống. Tôi là nhà nho Việt Nam, về chuyện tình yêu tôi bó hẹp vào chuyện vợ chồng chung thủy. Tôi lại được đặc biệt may mắn có bà vợ hiền lo lắng cho tôi về mọi việc trong gia đình, cho nên tôi có điều kiện làm việc suốt ngày. Còn anh rất khổ sở về chuyện gia đình. Tôi xin phép chỉ nói đến giai đoạn trước năm 1975, khi hai người còn ở gần nhau, chủ yếu là ở Hà Nội. Còn giai đoạn sau khi đất nước thống nhất, hai người ở xa nhau, tôi ở Hà Nội, anh ở Thành phố Hồ Chí Minh, cho nên tôi không có ý kiến.
Trong thời gian trước 1975, anh không gặp may về chuyện lập gia đình, hầu như phải một mình gà trống nuôi con, lo cho hai cháu là Cao Xuân Minh và Cao Liễu Thanh mọi việc từ ăn uống đến sinh hoạt, nhất là trong thời gian đi sơ tán, cuộc sống cực kỳ vất vả.
Điểm khác nhau thứ hai là lối sống nhà Nho của tôi rất khác lối sống nghệ sĩ của anh. Anh là người đẹp trai, hát hay, đàn giỏi nên có nhiều tình duyên. Tôi đã có lần xung đột với anh về chuyện này, có một thời gian anh giận tôi gần như cắt đứt quan hệ với tôi. Cách làm việc của anh cũng khác tôi. Anh có thể thức 3-4 đêm liền không ngủ để hoàn tất một công việc. Nhưng rồi sau đó lại đi lông bông cả tuần, rượu trà không chừng mực. Còn tôi thì sáng 6 giờ dậy, tối 11 giờ ngủ, ngày nào cũng như ngày nào, suốt cả cuộc đời như vậy.
Có câu tục ngữ La tinh nói: “Những lời nói bay đi, nhưng chữ viết thì còn lại”. Những lời nói của anh không khỏi gây rắc rối cho anh. Nhưng những bài viết của anh sẽ còn. Những công trình của anh về âm vị học sẽ tồn tại như những đóng góp có một không hai trong ngôn ngữ học Việt Nam. Tôi hy vọng các bài ấy sẽ được tập hợp và xuất bản để nêu bật giá trị của một nhà ngôn ngữ học Việt Nam có tầm cỡ quốc tế.
Công trình âm vị học lớn nhất của anh là tác phẩm “Âm vị học tuyến tính, suy nghĩ về những định đề của âm vị học đương đại” (Nxb Quốc gia - Hà Nội - 2001). Công trình này anh dịch từ tác phẩm của anh viết bằng tiếng Pháp Phonologie et Linéarité réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine (SELAF - Paris - 1985). Về trình độ tiếng Pháp của anh, đây là nhận xét của hai giáo sư A. G. Haudricourt và C. Hagège [1]:
“Trước hết, cần nói rằng tác giả là một nhà ngôn ngữ học Việt Nam chưa từng sống ở Pháp, nhưng đã viết cuốn sách dày 273 trang bằng một thứ Pháp văn tuyệt hảo”;
“Điểm thứ nhất mà một độc giả biết được bằng cách tiếp thu được trong sách là không làm gì có một môn học gọi là ngữ âm học” (phonétique); đó chẳng qua là một thứ “liên âm vị học” (interphonologie). Tôi hoàn toàn tán đồng ý kiến này, nhưng tôi chưa bao giờ thuyết phục được các nhà ngữ âm học nghiệp dư (và các nhà ngữ âm học chuyên nghiệp nữa) hiểu được điều này”.
“Thế nhưng bài báo của Cao đã chứng minh một cách hoàn toàn chính xác rằng có những ngôn ngữ trong đó nguyên âm và phụ âm cũng chẳng có tính chiết đoạn gì hơn các thanh điệu”;
“Công trình của Cao chứa chất những hệ quả trọng đại”.
Chúng tôi thấy có nói cũng thừa, không bằng chính lời của J.P Chambon đã nói. Tôi chỉ nhắc đến câu kết luận:
“Sự thật là có lẽ phải nhìn về cái hướng mà Cao Xuân Hạo đã chỉ ra, chứ không phải về cái hướng của ngữ pháp tạo sinh cải biến, để tìm kiếm một cuộc cách mạng Copernic trong ngôn ngữ học hiện đại. Chẳng phải là một sự kiện có tính quy luật đó sao, khi lời chất vấn khẩn thiết này đến với chúng ta từ một nước xã hội chủ nghĩa thuộc Thế giới Thứ ba?”(Tôi nhấn mạnh).
Theo tôi, Cao Xuân Hạo là người Việt Nam đầu tiên đã góp được một tiếng nói quan trọng vào lý luận ngôn ngữ học của thế giới. Đây là mơ ước lớn nhất của một người làm khoa học. Trong bài này, tôi cố tình không nhắc đến chức vụ và tên từng tác phẩm của anh, và tôi gọi “anh Cao Xuân Hạo” với tư cách người anh cả của ngành âm vị học. Tôi tin chắc uy tín của anh sẽ còn và sẽ lớn lên với thời gian. Cái chết là chung cho mọi người, nhưng việc sống sau khi chết lại là rất hiếm. Trong những người ấy sẽ có anh Cao Xuân Hạo.
[1] Tập san của Hội Ngôn ngữ học, tập XI, 1986, trang 37-41.
[2] J.P Chambon, Tạp chí các ngôn ngữ La mã, Trung tâm nghiên cứu khoa học, tập LXXIII, tháng 11-1978, tập 1.
Bài đã đăng trên VHNA