Các nhà khoa học khẳng định dự án không có mục đích nào khác ngoài nâng cao hiểu biết của con người. Họ cũng nhấn mạnh dự án tập trung vào các vấn đề khoa học cơ bản hơn là việc tìm kiếm những thứ như dầu mỏ hay các tài nguyên khoáng sản. Không nên nghi ngờ rằng đó không phải là sự thực - vì nó đã từng là động cơ của rất nhiều người đi biển dưới sự bảo vệ của hải quân với khát khao nâng tầm hiểu biết, kiến thức một cách rõ ràng. Nhưng kiến thức là sức mạnh, và nếu các nhà khoa học Trung Quốc là những người đầu tiên khám phá vùng biển sâu của Biển Đông, thì sau đó các doanh nhân Trung Quốc sẽ có vị trí tốt hơn với những người khác trong việc khai thác bất cứ giá trị thương mại nào và hải quân Trung Quốc cũng sẽ có vị thế vượt trội hơn để bảo vệ họ.
Dự án do Vương Phẩm Tiên, Đại học Đồng Tế ở Thượng Hải - một chuyên gia đầu ngành hải dương học, phụ trách. Để được hỗ trợ, ông có thể gọi tới các dịch vụ của Giao Long - loại tàu lặn sâu mới nhất của Trung Quốc, được thiết kế để có thể lặn ở độ sâu 7km. Tháng 7 năm ngoái, Giao Long đã hoạt động ở độ sâu 3,8km, loại tàu có người lái này đặt mục tiêu hoạt động ở độ sâu 5km vào mùa hè này và đạt tối đa như thiết kế vào năm tới.
Dự án này một phần bắt nguồn cảm hứng từ công trình nghiên cứu thực hiện trên con tàu mang tên Đại Dương Nhất Hào năm 2007của khu vực ít được biết tới gọi là Sống núi tây nam Ấn Độ. Đây là một phần của hệ thống các sống núi giữa đại dương được hình thành khi các mảnh kiến tạo của vỏ trái đất tách giãn - một quá trình được gọi là là tách giãn đáy đại dương. Giữa những thứ khác, các nhà nghiên cứu trên tàu Đại Dương Nhất Hào đã định vị được những khu vực giàu trích đồng, chì, kẽm kết hợp với suối nước nóng gọi là các miệng thủy nhiệt thường tìm thấy ở những sống núi giữa đại dương. Và khi Cơ quan quản lý đáy biển quốc tế chịu trách nhiệm giám sát những vấn đề này, đã ban hành quy định sửa đổi hồi tháng 5 trước về việc khai thác các loại trầm tích, Trung Quốc đã nhanh chóng đệ đơn xin làm việc này tại Sống núi tây nam Ấn Độ.
Biển Đông cũng như vậy, cũng được xem là sản phẩm của tách giãn đáy đại dương, dù quá trình này vẫn còn là điều cần bàn và đã xảy ra từ 32-16 triệu năm trước đây. Và Lâm Kiện của Học viện Hải dương học Woods Hole tại Massachusetts, một trong những người lãnh đạo chuyến thám hiểm tới Sống núi tây nam Ấn Độ Dương cũng thực hiện một dự án phụ nhằm nghiên cứu sự tiến hóa kiến tạo của khu vực. Điều này sẽ giúp giải quyết các câu hỏi về việc Biển Đông ra đời và tồn tại thế nào, bao nhiêu tầng của nó là bazan đáy đại dương, bao nhiêu đá lục địa đơn giản xảy ra ngay dưới mực nước biển.
Phần hai của dự án, một nghiên cứu trầm tích và khí hậu cổ đại sẽ tiếp theo các đánh giá kiểm tra ban đầu trong khu vực của Tiến sĩ Vương, năm 1999, đó là một phần của nỗ lực quốc tế gọi là Chương trình Khoan Đại dương. Bất chấp mọi phủ nhân, nó vẫn là sự quan tâm lớn nhất tới đến ngành công nghiệp dầu khí.
Ba hệ thống thoát nước lớn, Mekong, sông Hồng và mạng lưới tiểu vùng Châu Giang, mang 14.000 nghìn tỉ tấn trầm tích đổ vào Biển Đông trong 30 triệu năm qua hoặc tương đương như vậy. Nó tạo nên dầu và khí, nó cũng giữ một lượng thông tin lớn về nhiệt độ, lượng mưa và mực nước biển trong quá khứ. Kiến Trí Mẫn cũng ở Đại học Đồng Tế và các cộng sự hy vọng sử dụng thông tin này để làm sáng tỏ quá trình tiến hóa của khí hậu hiện đại, đặc biệt là của gió mùa châu Á đã cung cấp đủ lượng mưa cho nông nghiệp, đảm bảo lương thực cho dân số châu lục.
Họ cũng sẽ điều tra trực tiếp khí hậu hiện đại với sống núi phía đông của Biển Đông là một phần của khu vực gọi là Western Pacific Warm Pool. Với nhiệt độ trung bình là 29 độ C, nó trở thành vùng nóng nhất trong đại dương, là nguồn quan trọng của việc kiểm soát khí hậu nóng và ẩm, tham gia điều tiết cả gió mùa và El Niño.
Lan truyền thông tin
Phần thứ ba của dự án sẽ nhìn vào hệ sinh thái của Biển Đông - đặc biệt là ở độ sâu, do các nhà nghiên cứu Tiêu Niệm Chí thuộc Đại học Hạ Môn ở tỉnh Phúc Kiến và Thiên Kỳ Văn thuộc Đại học Hải dương Trung Quốc ở Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông phụ trách. Họ sẽ nghiên cứu việc cô lập carbon của vi sinh vật, khảo sát đời sống xung quanh các miệng phun của đáy đại dương, thực hiện các phép đo dài hạn của các dòng và trao đổi chất dinh dưỡng cũng như sinh vật phù du giữa các vùng khác nhau của Biển Đông, giữa Biển Đông và Thái Bình Dương.
Dĩ nhiên, tất cả đều cần chi phí. Ngân sách cho dự án Vùng Sâu Biển Đông là 150 triệu nhân dân tệ (22 triệu USD) được Qũy Khoa học Tự nhiên Quốc gia - một tổ chức chính phủ có trụ sở tại Bắc Kinh - chi trả trong tám năm. Đây không phải là công trình hải dương học duy nhất của Trung Quốc. Một trung tâm công nghệ biển sâu ở Thanh Đảo có chi phí 400 triệu nhân dân tệ và một mạng lưới các đài quan sát đáy đại dương tương tự như chương trình Neptune của Canada và Sáng kiến Các đài quan sát Hải dương của Mỹ có chi phí tới 1,4 tỉ nhân dân tệ. Không nghi ngờ gì rằng tiền sẽ được chi tiêu hợp lý, vì lợi ích nghiên cứu thuần túy. Tuy nhiên, như Trương Công Thành thuộc Tập đoàn Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc, nói trong cuộc họp rằng, trữ lượng khí tự nhiên tại Biển Đông ước tính lên tới 200 nghìn tỉ mét khối. Nghiên cứu thuần túy là rất tốt, xong sẽ không phương hại gì nếu cùng một lúc để ý tới một số vấn đề khác.