Lão Quân mang Tề Thiên về cung Đâu Suất, ném vào lò bát quái. “Nguyên lò này gồm tám cung của các quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Đại Thánh chui ngay vào nằm dưới cung Tốn. Tốn là gió, có gió thì không có lửa.” (...) “Thời gian thấm thoát, chẳng mấy chốc đã được bốn mươi chín ngày, đủ số ngày luyện.” ([2])
Câu chuyện được kể tỉ mỉ với những chi tiết rườm rà. Đây là cả một vấn đề sinh tử đối với những người muốn học đạo trường sinh, tu theo đạo Lão. Đoạn văn diễn tả một giai đoạn cơ bản của thực hành thiền hay luyện nội đan. Có ba chi tiết phải chú ý: (1) bốn mươi chín ngày; (2) lò bát quái; (3) cung Tốn.
Thất thất và cửu cửu
Tại sao Tây Du bảo phải đợi đến bốn mươi chín ngày mới gọi là “đủ số ngày luyện”? Bốn mươi chín tức là thất thất (7x7). Nó ám chỉ trong quá trình tu tập thiền định (Cao Đài gọi là tịnh luyện, công phu), có một giai đoạn hành giả phải giam mình trong chốn tư phòng, hoặc thiền thất, thiền đường (Cao Đài còn gọi là tịnh thất, tịnh trường), hoặc vào chốn vắng vẻ núi non, như mấy ông đạo ở Thất Sơn dựng cốc.
Theo đạo Phật, bốn mươi chín ngày cũng rất quan trọng cho linh hồn người chết. Vì sau khi hồn lìa khỏi xác, linh hồn chưa ra trước Diêm Đình để các phán quan xét xử. Thời gian tại ngoại hậu tra (bail) dài bốn mươi chín ngày, và linh hồn được phép đăng ký tạm trú ở một khu vực (cảnh giới) mà Phật Giáo gọi là antarabhava, dịch là trung hữu hay trung âm, trung ấm.([3]) Đây là lúc để thân nhân cõi thế lo cầu siêu cho người quá cố, để linh hồn ấy tiêu tai giải nghiệp, ngõ hầu khi ra tòa án âm phủ sẽ dễ dàng được cứu rỗi, được cho về cõi trên, hoặc luân hồi vào đường tốt. Lễ cầu siêu bảy lần bảy ngày, kể từ ngày chết.
Ở đạo Lão và Cao Đài giai đoạn này kéo dài, và gọi là cửu cửu (9x9) tức tám mươi mốt ngày. Cho nên khi Đường Tăng đặt chân tới chùa Lôi Âm, Quan Âm Bồ Tát cộng sổ, thấy mới có tám mươi nạn, phải lập kế để Đường Tăng chịu thêm một nạn chót, cho đủ chỉ tiêu. Tây Du kể: “Bồ Tát xem qua quyển sổ một lượt, bèn truyền bảo: Trong đạo Phật ‘chín chín tám mươi mốt mới về nguồn’, Thánh Tăng đã chịu tám mươi nạn, còn thiếu một nạn nữa mới đủ số.” ([4])
Đi từ kinh đô Tràng An nước Đại Đường (đất phàm, con người luân hồi) đến chùa Lôi Âm nước Thiên Trúc (đất Phật, chân nhân giải thoát), Đường Tăng phải trải qua tám mươi mốt nạn và vượt qua mười vạn tám ngàn dặm (108.000 = 9x12.000). Ý nói rằng, quá trình tu luyện để siêu hóa từ phàm nên thánh phải gồm những công đoạn bắt buộc.
Một trăm lẻ tám ngàn dặm là bội số của 9. Cây tích trượng của Đường Tăng có chín vòng. Cây đinh ba Bát Giới dùng làm vũ khí có chín răng. Xâu sọ người Sa Tăng đeo ở cổ cũng gồm chín cái. Xâu chuỗi lớn của nhà sư thông thường cũng gồm một trăm lẻ tám hột (9x12.000);([5]) hoặc có khi ngắn hơn là năm mươi bốn hột (9x6), hoặc hai mươi bảy hột (9x3) là bội số của chín, hoặc mười bốn hột (7x2) là bội số của bảy.([6])
Giới đạo sĩ dù theo trường phái nội đơn (thiền) hay ngoại đơn, đều theo quá trình chín lần khổ luyện này mà thuật ngữ đạo Lão gọi là cửu chuyển công thành, hay cửu chuyển đan thành.([7]) Cao Đài cũng vậy, cửu cửu là giai đoạn thiền (hay tịnh luyện) rất cơ bản, hành giả bước vào bực sơ thiền phải qua đó mới có thể chuyển lên những bực cao hơn, cho nên kệ sơ thiền Cao Đài có câu rằng:
Cửu cửu công phu chẳng chí bền,
Con đường tu luyện khó lòng nên...
Cũng như đạo Phật, ở Cao Đài hành giả không quan trọng hóa việc cầu siêu (thất thất vong: lễ bốn mươi chín ngày) vì hành giả phải tự giải thoát cho mình bằng chứng ngộ. Cầu siêu vì thế là để cho ai còn trong ràng buộc luân hồi. Lễ cầu siêu của đạo Phật là thất thất, thì ở Cao Đài là cửu cửu, cứ chín ngày cầu siêu cho người chết một lần, tính từ ngày chết. Cũng với quan niệm về chín từng trời, tín đồ Cao Đài tin rằng, cứ qua một lần cúng cửu, linh hồn nhẹ nghiệp hơn và thăng lên được một từng trời tương ứng.
Con số 9 còn là một tượng số khá phổ biến trong thiền nhà Phật.([8])
Tại sao Phật, Lão, và Cao Đài chú trọng con số 9? Và ở Tây Du, tại sao Đường Tăng muốn thành tựu công viên quả mãn phải trải qua chín lần chín tai nạn (ám chỉ là sự khổ luyện đớn đau của hành giả), phải vượt qua chín lần mười hai ngàn dặm?
Số 9 là số thành và là số dương lớn nhất (lão dương). Tu luyện là chuyển âm trược (phàm phu) thành dương thanh (Tiên Phật), mà số 9 là số thuần dương cho nên số 9 gắn liền với thiền đạo và thiền gia, đạo sĩ. Nhưng... nói như vậy thì hơi lẹ quá, nên cũng cần thử lướt sơ qua một chút về Dịch học, để hiểu thêm cái lò bát quái của Lão Quân nó tròn vuông lớn bé cỡ nào, và lò bát quái ấy đặt ở cung Đâu Suất hay là ở một nơi nào khác nữa.
Số 5, số 9 và cung Tốn trong Dịch
Dịch là âm dương. Âm là chẵn; dương là lẻ. Lẻ loi nên gọi cơ 奇; chẵn đôi nên gọi ngẫu 偶.([9]) Dịch chia mười con số từ 1 đến 10 làm hai loại, gồm: năm số dương (1, 3, 5, 7, 9) và năm số âm (2, 4, 6, 8, 10).
Số 5 theo ngũ hành có vị trí nằm ở trung ương như sau:
2
3 5 4
1
Số 5 được gọi là số sinh, vì nó sinh ra các số khác. Trong bát quái, số 5 ứng với quẻ Tốn. Tề Thiên bị hầm, bị ninh trong lò bát quái mà vẫn cứ sống nhăn, đó là nhờ ẩn mình trốn tại cung Tốn. Tốn là cửa sinh. Đọc truyện Phong Thần, hay Phong Kiếm Xuân Thu (chuyện Tôn Tẫn, Bàng Quyên), ai cũng nhớ người xưa đánh giặc thường lập trận đồ, bày cửa tử và cửa sinh. Đối phương kéo quân vô cửa tử thì chỉ còn có nước đại bại, mất mạng.
Tại sao số 5 là số thành? Trong năm số 1, 2, 3, 4, 5 bày theo ngũ hành nói trên, thử làm bốn bài toán cộng như sau:
5 + 1 = 6 ; 5 + 2 = 7 ; 5 + 3 = 8 ; 5 + 4 = 9
Bốn kết quả 6, 7, 8, 9 là số thành, và 9 là số thành lớn nhất (ngụ ý viên mãn, hoàn hảo). Số 9 lại là tổng số của ba số dương: 1 + 3 + 5 = 9. Cho nên chín được gọi là số lão dương hay thuần dương. Mà dương là quân tử, chính nhân (âm là tiểu nhân, tiện nhân). Do đó ngôi vua được gọi là cửu trùng (chín tầng, chín bệ), và Bà Huyện Thanh Quan (Trấn Bắc Hành Cung Hoài Cổ) ngậm ngùi:
Chín tầng sen rớt rơi hương ngự,
Năm lớp mây phong sắc áo chầu.
Ở Trung Quốc, đời Tấn, cha con Vương Hy Chi (321-379) và Vương Hiến Chi đều là danh gia về thư pháp, được tôn là Thảo Thánh Nhị Vương. Thuở nhỏ, để mài mực luyện chữ, Hiến Chi đã gánh nước đổ đầy 18 chum (2x9) lớn.([10])
Ở Hy Lạp, nhà triết học kiêm toán học Pythagore (580-497 trước Công Nguyên) cũng khám phá ra số 9 là huyền diệu, nên bảo rằng: Chín là số hoàn hảo, và bình phương của ba (3x3 = 9), một tam hợp hòa hài trọn vẹn, rất mực đề huề.([11])
Lò bát quái
Trở lại với cái lò bát quái trên cung Đâu Suất của Lão Quân. Ở Á Đông có tới ba loại bát quái. Bát quái dùng để ninh, hầm Tề Thiên thuộc mô-đen nào?
Trong dân gian, trước cửa nhà thường có treo tấm bùa bát quái để trừ tà ma, xua yêu quỷ. Thầy bói cũng có khi xài loại bát quái này. Nó gồm tám quẻ xếp đặt như sau (kể theo chiều kim đồng hồ): Càn, Cấn, Khảm, Chấn, Khôn, Đoài, Ly, Tốn. Bát quái này không phải loại dùng để hầm Tề Thiên.
Theo Dịch, vua Phục Hy thời thượng cổ đã nghĩ ra sơ đồ tiên thiên bát quái hay tiên thiên cơ ngẫu. Tiên thiên tức là lúc vừa có trời đất, vũ trụ mới hình thành. Sơ đồ của Phục Hy gồm vị trí tám quẻ như sau: (đi ngược chiều kim đồng hồ - tức là theo chiều dương) Càn, Đoài, Ly, Chấn; (đi xuôi chiều kim đồng hồ - tức là chiều âm) Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Theo sơ đồ tiên thiên bát quái, con người nguyên thủy còn thuần lương, tâm người tâm Phật như nhau. Phục Hy biểu tượng bằng quẻ Càn (dương) ở trên, quẻ Khôn (âm) ở dưới. Âm dương chính vị, hòa hài.
Lò bát quái của Lão Quân không đúc theo mô-đen của Phục Hy. Ngô Thừa Ân kể rằng: “Nguyên lò này gồm tám cung của các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.” ([12])
Té ra lò bát quái của Lão Quân đúc theo hậu thiên bát quái hay hậu thiên cơ ngẫu, là mô-đen của Văn Vương. Hậu thiên là lúc trời đất, con người, vũ trụ đã không còn đúng tiêu chuẩn chất lượng của thời nguyên sơ khởi thủy. Con người gần quỷ ma, xa Tiên Phật. Tâm người tâm Phật đôi nẻo đôi nơi, hai phương trời cách biệt! Theo sơ đồ của Văn Vương, các quẻ xếp theo chiều âm (xuôi chiều kim đồng hồ), con người có xu hướng biến chất hơn là thăng hoa.
Sơ đồ này cho thấy hai quẻ Càn (dương) và Khôn (âm) nằm lệch một bên, không chính vị. Bên dưới là quẻ Khảm (nước, thủy, âm) và trên là quẻ Ly (lửa, hỏa, dương). Kinh Dịch, quẻ chót (quẻ 64) lấy Ly trên hiệp Khảm dưới thành ra quẻ Hỏa Thủy Vị Tế. Vị tế 未濟 là chưa xong. Kết thúc kinh Dịch, làm thành quẻ chót, tại sao lại bày ra chuyện dở dang?
Cuối bộ Tây Du, Đường Tăng đem kinh về Trường An, kinh bị rớt xuống sông Thông Thiên; lúc phơi kinh ai dè lại bị mất hết mấy trang chót,([13]) thì lại vẫn là chuyện dở dang!
Mà con người cũng là một dang dở đó thôi. Đã đành làm kiếp người thì cao trổi hơn vật thú, nhưng người chưa bằng Phật Tiên. Trên nấc thang chân-thiện-mỹ, giá trị con người mới ở nửa vời. Nếu tiến hóa thêm, con người sẽ hoàn thiện là Hiền Thánh, là Tiên Phật, là Chân Nhân. Còn nếu thoái hóa, người tuy bề ngoài mang hình hài thân xác con người xinh đẹp, sang trọng, nhưng bên trong thì tâm hồn đã rữa nát, ngang loài cầm thú. Ông Charles Darwin (1809-1882) chắc cũng đành lắc đầu than thở: Cốt khỉ hoàn cốt khỉ!
Phép tu đạo Lão khi xưa và Cao Đài ngày nay chính là biến hậu thiên bát quái trở lại nguyên vị tiên thiên bát quái, đưa con người hư hao trở lại con người nhân bản mà cuộc đời tôn xưng là Phật, Chúa, Tiên, Thánh, Thần. Biến cải hậu thiên ra tiên thiên, trong đạo Lão và Cao Đài gọi là chiết Khảm điền Ly; tức là tách hào hai dương ở quẻ Khảm bên dưới sơ đồ hậu thiên mà đưa vào quẻ Ly ở bên trên, đưa hào hai âm ở quẻ Ly xuống cho quẻ Khảm, thì Khảm Ly (hậu thiên) đổi lại Khôn Càn (tiên thiên), âm dương trở lại chính vị.([14]) Cao Đài gọi đây là con đường phản bổn hoàn nguyên. Lão Giáo gọi là phục kỳ bản, phản kỳ chân.([15])
Lò bát quái đặt ở đâu?
Lò bát quái trong Tây Du như vậy là một ẩn ngữ, nói lên sự tu luyện của con người. Lò đặt ở đâu? Tại cung Đâu Suất chăng? Không phải thế! Lò bát quái ấy nằm trong thân xác con người, đặt ở chỗ mà đạo gia gọi là Đơn Điền, là Phương Thốn.([16]) Bức hình Tẩy Tâm Thối Tàng Đồ của đạo Lão kèm theo đây cho thấy vị trí lò bát quái trong thân hành giả luyện nội đan.
Tẩy Tâm Thối Tàng Đồ [Max Kaltenmark 1965: 161]
Đạo Đức Thiên Tôn (Lão Tử) cầm bát quái hậu thiên
(tranh thế kỷ 19)[Max Kaltenmark 1965: 161]
Lửa nào đốt lò bát quái?
Lửa để đốt lò bát quái, theo Tây Du Ký, là “thứ lửa văn lửa vũ”. Văn là chi, vũ (võ) là chi? Thuật ngữ này có thể hiểu theo hai nghĩa.
Hiểu cạn, văn ám chỉ kinh điển; phải học kinh, trì chú để trợ lực; vũ (võ) ám chỉ phép hành công tọa thiền, và kèm một số môn ngoại công phu (physical exercises) để hộ trợ như Bát Đoạn Cẩm (tám bài luyện tập), Thập Nhị Cẩm Đoạn (mười hai bài luyện tập), v.v... Cho nên người tu thiền cũng cần văn ôn võ luyện, phải văn võ song toàn.
Trong phép đạo dẫn, lửa văn 文火là cách thở nhè nhẹ, dùng khi ôn dưỡng; lửa vũ (võ) 武火cũng gọi dương hỏa 陽火, là cách thở mạnh mẽ, liên miên không ngừng để dẫn khí đi khắp nơi, áp dụng vào lúc cần nấu luyện nội dược, thí dụ như nấu diên 鉛 (chì) ở Khảm (nước, thận) cho bốc lên.
Hiểu sâu xa hơn, lửa văn lửa vũ ám chỉ việc thực hành công phu thiền định của hành giả, gọi đích danh là luyện hỏa hầu 火候. Thiền đạo Lão và thiền Cao Đài có bốn giờ công phu là thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, trong đó hai thời Tý Ngọ theo Lão Giáo là để luyện hỏa hầu. Tổ sư Hy Di Trần Đoàn bảo: “Hỏa hầu là công phu giờ Tý và giờ Ngọ, hai thời ấy luyện tập và trì thủ không kể đêm ngày.” ([17])
Nếu hiểu lửa ở đây là lửa trong nội thân, để luyện hỏa hầu thì hành giả có lúc vận công nhu nhuyễn, giống như đốt lửa riu riu, đó là dùng lửa văn; hoặc có lúc vận công tích cực hơn, giống như đốt lửa cho ngọn hừng lên, đó là dùng lửa vũ (võ). Giống như bà nội trợ giỏi khéo nấu cơm, hành giả cũng phải tùy lúc mà nổi lửa cho đúng cách.
Đái Nguyên Trường viết: “Hỏa hầu như nấu cơm, lúc mới đốt thì nước nguội, gạo sống, vậy ắt phải dùng lửa vũ mãnh liệt cho cơm mau chín. Nếu lửa khi chậm khi mau không đều đặn, khi đốt khi ngưng thì cơm ấy sống sượng không đều, vị lại không ngon. Nếu đã dùng lửa lớn (vũ) nấu qua thì hãy dùng lửa văn nấu chậm. Khi cơm chín tức thì tắt lửa. Nếu như vẫn dùng lửa lớn như cũ ắt phải lo sợ rằng thừa hơi nóng, bốc thẳng lên nắp nồi và cháy khét sinh vị đắng. Luyện đan thì vận dụng lửa văn lửa vũ cũng y như vậy. Như khi luyện tinh một trăm ngày tiểu chu thiên thì nên dùng lửa vũ; khi luyện khí mười tháng đại chu thiên thì nên dùng lửa văn. Nhưng nấu cơm là chất liệu hữu hình cho nên thời gian ít và dễ dàng, còn tu luyện kim đơn là thứ vô hình vô chất, nếu hỏa hầu không phù hợp thì khó thành công. Cho nên phải cầu minh sư dạy bảo, không để một chút xíu sai biệt nào cả. Kinh dạy luyện đơn không bao giờ nói sai vậy.” ([18])
Tốn là gió
Bị nấu liên tục bốn mươi chín ngày trong lò bát quái, nhờ Tề Thiên núp vào cung Tốn nên an toàn tánh mạng. Tốn là gió. Điều này ám chỉ hành giả khởi công phu phải dựa vào hơi thở. Điều thân (tư thế thích hợp khi ngồi thiền), điều tức (hô hấp để hơi thở một vô một ra cho đúng cách), điều tâm (giữ cho tâm an định, không bị phóng tán như ngựa khỉ lăng xăng), đấy chính là ba công đoạn cơ bản của thiền gia hay hành giả.
Đạo Lão và Cao Đài cho rằng Tam Bảo (trinity) gồm có Tinh, Khí, Thần. Khí 氣 theo nghĩa hẹp có thể hiểu tạm là hơi thở. Ở sinh mạng, khí là sự sống; hơi thở dứt đi, mạng sống đoạn lìa. Ở tu thiền (tịnh luyện), người ngồi thiền (hành giả) phải để tâm, ý vào hơi thở luân lưu nhằm cột lại cái tâm viên ý mã,([19]) đó gọi là phép lấy thần dẫn khí 神引氣 để trừ tạp niệm, giữ cho tâm thanh tịnh.
Vì Khí với người tu quan trọng như thế, nên cũng đừng lấy làm lạ khi bước vô bửu điện của một thánh thất, thánh tịnh Cao Đài bất kỳ, đối diện với Thiên Nhãn là bàn thờ Hộ Pháp, thấy nơi ấy chỉ tượng trưng bằng một chữ Khí - chữ Nho viết thảo.
|
Chữ Khí
|
Tóm gọn lại, câu chuyện nấu Tề Thiên trong lò bát quái là ẩn ý gì?
1. Tề Thiên là cái lý trí phàm phu phân biện (nhị nguyên). Lão Quân đòi giết Tề Thiên trong lò bát quái tức là dùng công phu thiền pháp để diệt cái tâm điên đảo (phàm tâm tử, đạo tâm sanh); lấy hơi thở (điều tức) để kềm lại, cột lại cái tâm viên ý mã ưa lăng xăng xạo xự.
2. Tề Thiên nhờ núp ở cung Tốn bốn mươi chín ngày nên không chết, vì ở cung Tốn “có gió mà không có lửa”. Bốn mươi chín ngày chưa phải là trọn vẹn quy trình hành pháp của thiền gia (Đường Tăng còn phải lặn lội cho tới một trăm lẻ tám ngàn dặm). “Có gió” tức là mới ở khởi đầu, dùng hơi thở (điều tức) để kềm tâm định ý... nhưng tâm ý vẫn còn có thể bay nhảy nếu quên chú ý vào một hơi thở vô, một hơi thở ra. “Không có lửa” tức là chưa đến giai đoạn cực kỳ quan trọng hiểm nghèo: luyện hỏa hầu.([20])
3. Lò bát quái nấu kim đơn của Lão Quân chính là lò lửa luyện nên vàng mười; thân phàm phu huyết nhục qua trui luyện thành công sẽ trở nên kim thân bất hoại. Mỗi con người đều sẵn có trong cơ thể một lò bát quái. Đường Tăng là người đã chụm lửa đốt lò bát quái, mang lò ấy để đi ngược dòng đời thế tục, tìm về cõi Phật, thành Phật thành Tiên.
ậy thì tất cả những gì linh thiêng, mầu nhiệm đều không ở đâu xa. Máy Tạo Hóa huyền vi đã tàng ẩn trong chính mảnh thân nhỏ bé của mỗi con người. Quả thực, truyện Tây Du được kể bằng lối nói úp úp mở mở, nhưng lắng lòng thật kỹ thì nghe như đâu đó có Ngô Thừa Ân cất lên lời tha thiết rằng: Con người ơi, anh chính là một huyền nhiệm!
30-9-1991
Bổ túc 25-5-2010
([1]) [TDK I 1982: 165, 166].
([2]) [TDK I 1982: 165, 166].
([3]) Trung hữu 中 有 ; trung âm, trung ấm 中 陰[Soothill 1962: 10].
([5]) [Soothill 1962: 438] giải thích hai chữ “sổ châu” như sau: “A rosary; to tell beads, which consists of various numbers, generally 108.”
([6]) [Từ Hải 1948: 607] viết: “Sổ châu giả, yếu đương tu mãn nhất bách bát khỏa, như kỳ nan đắc, hoặc ngũ thập tứ khỏa, hoặc nhị thập thất, hoặc thập tứ khỏa, diệc giai đắc dụng.” (Chuỗi hạt nên đủ một trăm lẻ tám hột, nếu khó được như thế, thì hoặc năm mươi bốn hột, hoặc hai mươi bảy hột, hoặc mười bốn hột, đều có thể dùng được.) Lê Anh Minh dịch.
([8]) Theo [Đoàn Trung Còn 1963: 357-365], từ thuật ngữ cửu bộ kinh cho đến cửu trụ tâm, tổng cộng là hai mươi hai mục từ về số 9; trong đó liên quan đến thiền thì có: cửu thiền, cửu thứ đệ định, cửu trụ tâm.
Theo [Soothill 1962: 15-20], từ thuật ngữ cửu, rồi cửu thượng duyên hoặc, cho tới cửu trai nhật, tổng cộng có đến sáu mươi bảy mục từ về số 9; trong đó liên quan đến thiền thì có: cửu trụ tâm, cửu tâm luân, cửu tưởng quán, cửu thứ đệ định, cửu chủng đại thiền.
([9]) Vì ngẫu là cặp, nên trai gái cưới nhau, được chúc lành nên duyên giai ngẫu. Giai ngẫu là tốt đôi. Trước kia, danh từ luật pháp Việt Nam gọi chồng hoặc vợ là phối ngẫu (spouse), tức là một người kết cặp với người khác (phối hợp, phối kết) cho đủ một đôi (ngẫu).
([10]) Lê Anh Minh, “Tản Mạn Về Thư Pháp”, tuần san Sài Gòn Thứ Bảy, số 421, ngày 06-3-1999, tr. 30.
([11]) Neuf est le nombre parfait en tant que carré de trois qu’est la trinité de l’harmonie complète.
([14]) Trong tu luyện (thiền) của hành giả đạo Lão và Cao Đài, giai đoạn hành pháp Khảm Ly trở lại Khôn Càn cũng gọi là chiết Khảm điền Ly 折埳填離hay Khảm Ly giao cấu 埳離交遘 để biến Khảm Ly (hậu thiên) trở lại Khôn Càn (tiên thiên). Hành giả lấy nhất dương (hào hai, vạch liền) trong thận là Khảm (nước) kết hợp với nhất âm (hào hai, vạch đứt) trong tâm (tim) là Ly (lửa) để luyện đạo.
([15])Phản bổn hoàn nguyên 反本還源(元); phục kỳ bản, phản kỳ chân 復其本 ,反其眞.
([16]) Xem bài Trăng Sao Cửa Động Đá Đầu Non.
([17]) Tý Ngọ công phu thị hỏa hầu, lưỡng thời hoạt thủ vô hôn trú.
([18]) [Đái Nguyên Trường 1970: 68], mục từ “văn vũ hỏa hầu”.
“Hỏa hầu như chử phạn, sơ khởi hỏa thời thủy lãnh, mễ sinh, tất dụng mãnh liệt chi vũ hỏa, sử kỳ tốc thục. Nhược hoãn cấp bất điều, thời thiêu thời hiết, tắc sở chử chi phạn, sinh ngạnh bất quân, vị diệc bất mỹ. Nhược dĩ dụng mãnh hỏa chử qua, tắc nghi dụng văn hỏa hoãn chử, thục tức chỉ hỏa. Như nhưng dụng mãnh hỏa, tắc hữu đĩnh cái phún dật chi ngu, cập thiêu tiêu vị khổ chi hoạn. Luyện đan văn vũ hỏa hầu chi vận dụng diệc nhiên. Như bách nhật tiểu chu thiên luyện tinh thời nghi dụng vũ hỏa; thập nguyệt đại chu thiên luyện khí thời nghi dụng văn hỏa. Đản phạn thị phanh chử kỳ hữu hình chi chất, cố thời đoản nhi dị, nãi vô hình vô chất chi vật, nhược hỏa hầu bất đắc kỳ nghi, hãn hữu thành công giả. Cố tất cầu minh sư chỉ điểm, bất dung hào phát chi sai thù, đơn kinh phi hư ngôn giả.” (Lê Anh Minh phiên âm và dịch nghĩa)
([19]) Xem bài Trăng Sao Cửa Động Đá Đầu Non.
([20]) Yoga gọi là luồng hỏa xà (kundalini), tượng hình con rắn lửa. Luyện thành công thì thông suốt hai mạch Nhâm, Đốc; còn luyện hỏng thì... tiêu, mà truyện chưởng Kim Dung và phim chưởng Hương Cảng gọi tên là tẩu hỏa nhập ma 走火入魔(lửa chạy đường tà).
Còn nữa, kỳ sau đăng tiếp