Muốn hòa bình, thì chuẩn bị chiến tranh
Tác giả Vague Mathews nổi tiếng Roma cổ đại có một câu danh ngôn kinh điển: “Nếu bạn muốn hòa bình, thì chuẩn bị chiến đấu”, câu nói này đã được các nhà chủ nghĩa hiện thực trong giới lý luận quan hệ quốc tế phương Tây coi là câu châm ngôn.
Người Hy Lạp cổ cũng có câu: “Muốn hòa bình, thì chuẩn bị chiến tranh”.
Trong binh thư của “Binh pháp Tư Mã” thời cổ đại Trung Quốc, cũng có câu danh ngôn: “Thiên hạ tuy an, vong chiến tất nguy” (thiên hạ tuy là bình an, nhưng nếu quên đi cuộc chiến tranh, tất nguy hiểm).
Áp dụng tất cả các câu nói của các nhà hiền triết, người Trung Quốc đương đại có câu: “Muốn trỗi dậy trong hòa bình, thì cần phải trỗi dậy về quân sự”, “muốn hòa bình, thì chuẩn bị chiến tranh”.
Hòa bình, có diễn biến lịch sử không giống nhau. Hòa bình quốc tế thế kỷ 19 dưới sự thống trị đế quốc Anh là dựa trên các cuộc chinh phục thuộc địa. Hòa bình giữa thế kỷ 20, sự xuất hiện cuộc chiến tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô là hòa bình lạnh dưới sự đe dọa vũ khí hạt nhân. Hòa bình thế giới sau cuộc chiến tranh Lạnh là hòa bình dưới sự bá quyền của siêu cường quốc Mỹ. Hòa bình thế giới của thế kỷ 21 cần rất nhiều lực lượng tham gia, thế kỷ 21 Trung Quốc cần có đủ năng lực bảo vệ mình phát triển hòa bình, trỗi dậy hòa bình. Như vậy, hòa bình đã không thể dựa sự “hữu hảo” của kẻ mạnh mà có được, cũng không thể dựa vào sự “yếu kém” ẩn mình chờ thời cơ để giành được, mà phải dựa vào dũng khí và khả năng của bản thân mới giành được .
Tháng 5 năm 2004, trong một cuộc thảo luận tổ chức ở Bắc Kinh về con đường phát triển hòa bình của Trung Quốc, có người nói rằng Trung Quốc yêu hòa bình, kiên trì với sự nghiệp trỗi dậy trong hòa bình, nhưng nếu có quốc gia nào sử dụng vũ lực để ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy, thì Trung Quốc phải làm gì? Trung Quốc không đi đánh người khác, nhưng nếu người khác đến đánh thì Trung Quốc phải làm gì ?
Trung Quốc trỗi dậy trong hoà bình là lấy hoà bình làm điều kiện tiên quyết đối xử với các quốc gia khác, đặc biệt là với Mỹ. Trung Quốc trỗi dậy trong hoà bình, Mỹ phải chăng muốn ngăn cản điều đó? Nếu Mỹ không hạn chế được, cũng không đủ khả năng ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy hoà bình; dùng quân sự ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy, thậm chí tiến hành chiến tranh để kìm hãm, dùng vũ lực để ngăn cản trỗi dậy trong hoà bình của Trung Quốc, như vậy chỉ có thể đẩy Trung Quốc vào tình thế bắt buộc, buộc Trung Quốc chỉ còn cách là thông qua chiến tranh để bảo vệ quyền lực của quốc gia trỗi dậy. Trung Quốc không thể vì hoà bình mà không trỗi dậy, cũng không thể vì hoà bình mà chịu chia cắt. Ví dụ vấn đề Đài Loan, Trung Quốc kiến trì thống nhất hòa bình, nhưng khi Đài Loan dưới sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài đòi tách ra độc lập, Trung Quốc không thể vì hòa bình mà không cần thống nhất, cũng không thể vì hòa bình mà chịu đựng chia cắt. Khi mà không có cách nào thực hiện thống nhất hòa bình, thì phải thống nhất dùng vũ lực để chặn đứng chia cắt, lấy chiến tranh ngăn chặn Đài Loan đòi độc lập, dùng vũ lực để thống nhất đất nước, đây là điều kiện cần và đủ. Đương nhiên, cho dù Trung Quốc bị buộc phải vùng lên chiến đấu, thì không giống như sự trỗi dậy bành trướng, trỗi dậy giành bá chủ của các nước lớn trong lịch sử.
Muốn “yên ổn” thì phải “hùng mạnh”
Theodore Roosevelt nói: “Nếu không có vũ lực làm hậu thuẫn, ngoại giao là vô ích; các nhà ngoại giao là đầy tớ của quân nhân chứ không phải là chủ nhân”. Câu nói này của Roosevelt, Trung Quốc không hoàn toàn tán đồng. Nhưng lực lượng vũ trang có vai trò quan trọng đối với an ninh của một quốc gia, đầy là điều không thể phủ nhận. Trò chơi ngoại giao là trí tuệ, nhưng trí tuệ phải được xây dựng trên cơ sở của lực lượng vũ trang, nó trở thành một nghệ thuật để vận dụng các lực lượng với nhau thì ngoại giao mới có thể phát huy tối đa tác dụng. Đối với việc trỗi dậy trở thành một nước lớn, bảo đảm quốc gia yên ổn, thì cần phải có trí tuệ lớn, có lực lượng lớn, chỉ dựa vào trò chơi trí tuệ kế “thành bỏ không” thì khó mà được lâu dài.
Giáo sư John Mearsheimer, chính trị gia của trường Đại học Chicago Mỹ, trong một cuộc phỏng vấn của Đài truyền hình Trung ương đã nói rằng: “Bất kể người dân nào của nước Mỹ đều biết rằng, nếu Mỹ muốn an ninh tối đa, thì cần phải bảo đảm Mỹ là cường quốc mạnh nhất trên thế giới”, “muốn bảo đảm sinh tồn, cách tốt nhất là Mỹ phải mạnh nhất trong khu vực và trên thế giới…Trung Quốc hiện tại không có lực lượng quân sự mạnh nhất, quân sự Trung Quốc vẫn còn yếu kém”.
“Tôi nghĩ, cạnh tranh xảy ra cả về quân sự và kinh tế. Về mặt kinh tế chúng ta có thể nhìn từ hai góc độ; một là lý do quân sự và lý do chủ quyền. Bạn cần phải có kinh tế vững mạnh, mới có thể xây dựng lực lượng quân sự hùng mạnh để bảo vệ chính mình. Nguyên nhân thứ 2 là nhu cầu tài sản, con người ai chẳng muốn sống trong quốc gia phồn vinh, từ đó có thể thấy giành được thắng lợi trên thị trường là rất quan trọng. Có thực lực kinh tế là mấu chốt của sự sinh tồn, nhưng nếu không có lực lượng quân sự hùng mạnh thì sẽ rất nguy hiểm. Nếu nước láng giềng của bạn có những quyết định sai lầm, bạn có thể bị trừng phạt. Ý của tôi là, Trung Quốc rất rõ điều này, bắt đầu năm 1930 và nhìn lại cuối thế kỷ 19, Trung Quốc là một nước yếu về quân sự, kết quả là bị người Nhật và người châu Âu xâm chiếm một cách tàn bạo, làm những việc đáng sợ. Từ đó đối với người Trung Quốc mà nói, không phát triển quân sự hùng mạnh để bảo vệ chính mình thì thật là ngu xuẩn. Cạnh tranh về quân sự bất kể khi nào cũng có thể xảy ra. Tôi nghĩ trong tương lai xuất hiện cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc không thể là cuộc cạnh tranh ý thức, nó có thể là cuộc cạnh tranh về quân sự và kinh tế”. “Bạn cần phải bảo vệ chính mình, cách duy nhất bảo vệ mình là phải trở thành một cường quốc….Mỹ không muốn nhìn thấy Trung Quốc mạnh lên. Trung Quốc sau này trở thành nước mạnh thì Trung Quốc cũng không muốn nhìn thấy nước khác trỗi dậy, cũng không hy vọng bất kể nước nào trỗi dậy”.
Phân tích của chuyên gia Mỹ tuy không phù hợp với thực tế của Trung Quốc, nhưng ý tưởng chiến lược mang tíªnh điển hì¬nh của tư duy Mỹ mठông ta bà¤y tỏ là¤: “có mạnh mới có an ninh; muốn yên ổn thì phải mạnh”, thì¬ cũng có® ý nghĩa tham khảo đối với Trung Quốc. Thế kỷ 21 Trung Quốc muốn yên ổn thì phải mạnh.
Theo đuổi “trỗi dậy trong hoà bình”, không sợ “trỗi dậy trong chiến tranh”
Cơ sở và điều kiện để Trung Quốc trỗi dậy trong hoà bình là Trung Quốc đã trải qua 400 chiến dịch.Trung Quốc muốn thực hiện trỗi dậy trong hoà bình thì cần phải trỗi dậy quân sự. Quân sự Trung Quốc cần phải mạnh trên thế giới để bất kỳ nước lớn nào cũng không dám dùng quân sự để ngăn cản quá trình trỗi dậy của Trung Quốc.
Trong quá trình trỗi dậy, trở ngại và thách thức lớn nhất đối với Trung Quốc là sự “kiềm chế chiến tranh ” của các nước bá quyền đối với sự trỗi dậy của Trung Quố. Clausewitz nói: “Nếu một bên tuyệt đối chịu đựng thì không thể xảy ra chiến tranh”. Một quốc gia phải có thái độ chịu đựng thì mới có thể hoà bình, trỗi dậy trong hoà bình của Trung Quốc không thể là trỗi dậy tuyệt đối chịu đựng. Trỗi dậy trong hoà bình của Trung Quốc cũng không loại trừ một khả năng, đó chính là sự trỗi dậy trong chiến tranh chống lại sự kiềm chế Trung Quốc. Khi mà các quốc gia bá quyền dùng chiến tranh để ngăn cản Trung Quốc trỗi dậy, thì Trung Quốc cần phải dùng quân sự để duy trì và bảo vệ mục tiêu trỗi dậy, để quá trình trỗi dậy không bị chấm dứt.
Trung Quốc muốn trỗi dậy trong hoà bình, vì sao nhất định phải ra sức trỗi dậy quân sự? Vì trỗi dậy trong hoà bình là kết quả nỗ lực của cả hai bên; Mỹ muốn cho phép Trung Quốc trỗi dậy thì không thể tiến hành kiềm chế bằng chiến tranh Lạnh, càng không nên tiến hành kiềm chế quân sự và kiềm chế chiến tranh. Tờ “Tín báo” Hồng Kông số ra ngày 9 tháng 7 năm 2004, có bài viết của một tác giả nhan đề “Trên trái đất này từ trước tới nay không có cái gọi là trỗi dậy trong hoà bình”. Tác giả đã cho rằng: “Nhiệm vụ trước mắt của Trung Quốc là bảo vệ chủ quyền trong quan hệ đối ngoại đang vô cùng căng thẳng, bảo vệ tốt chủ quyền Đài Loan và Hồng Kông để không bị nước khác lấy mất. Nhiệm vụ của Trung Quốc là cải thiện môi trường xung quanh, không để các quốc gia khác bao vây. Trong “thời điểm then chốt ”, sự bao vây này sẽ khiến Trung Quốc không có nguồn năng lượng, máy móc ngừng hoạt động, thông tin bị gián đoạn, thành phố tối đen. Tất cả các nước mạnh trên thế giới đều hy vọng trỗi dậy trong hoà bình, không có một tiếng súng, nhưng từ trước tới này trên thế giới chưa hề xảy ra cái gọi là trỗi dậy trong hoà bình. Lịch sử trỗi dậy của nước Mỹ là lịch sử chiến tranh, lịch sử nước Mỹ giành được bá quyền là lịch sử chiến tranh, Mỹ duy trì lịch sử bá quyền là dựa vào lịch sử chiến tranh. Trong thời kỳ vô chính phủ như hiện nay như hiện nay, hoà bình là nguyện vọng, bá quyền là thực tế, trang bị vũ trang cho mình là cơ bản. Nhật Bản là nước rất giàu có, nhưng vì quân sự dựa vào Mỹ, cho nên không trỗi dậy. Nước Mỹ tuy là đã trỗi dậy rồi, nhưng vẫn không ngừng gia tăng đầu tư vào quân sự, ưu tiên phát triển quân sự. Vì bảo vệ đất nước, vì hoà bình, Trung Quốc cần có bom nguyên tử, cần có khí phách anh hùng thể hiện trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, cần có quân đội hùng mạnh”. Quan điểm của tác giả này rất sâu sắc.
Cộng đồng quốc tế chưa có trỗi dậy trong hòa bình. Nhưng, không có nghĩa là trong tương lai cũng không có. Trung Quốc từ trước chưa hề trỗi dậy trong hòa bình, vì thế giới nên mới tạo nên tiền lệ trỗi dậy hòa bình, việc tạo tiền lệ này đòi hỏi Mỹ và Trung Quốc phải cùng nhau nỗ lực, đặc biệt cần văn minh và khai phá văn minh của Mỹ.
Sau cuộc chiến tranh Lạnh, Mỹ thông qua Nato khống chế Nga, còn ở châu Á Mỹ dùng chiến lược bao vây Trung Quốc: ở phía Đông của Trung Quốc, Mỹ, Nhật và Hàn Quốc xây dựng quân đồng minh, dùng Đài Loan kiềm chế Trung Quốc; ở phía Tây Nam, Mỹ khuyến khích Ấn Độ khuếch trương; ở Biển Đông, Mỹ cũng tích cực hành động, ngầm đứng đằng sau thúc đẩy các quốc gia liên minh đối phó với Trung Quốc. Có thể thấy, vì trỗi dậy trong hoà bình, Trung Quốc cần trỗi dậy quân sự. Quân sự Trung Quốc càng mạnh thì khả năng đe doạ đối với chủ nghĩa bá quyền càng lớn, điều này càng có lợi cho Trung Quốc trỗi dậy trong hoà bình.
Phát triển trong hoà bình, trỗi dậy trong hoà bình đã trở thành lợi ích hạt nhân của Trung Quốc trong thế kỷ 21. Quyền phát triển, quyền trỗi dậy trở thành chủ quyền quốc gia mà Trung Quốc cần bảo vệ. Nếu có bất kỳ thế lực nào phá rối và ngăn cản Trung Quốc phát triển và trỗi dậy, nếu sự ngăn của họ vượt quá giới hạn của “ngăn cản hòa bình”, dùng vũ lực tiến hành “ngăn cản chiến tranh”, Trung Quốc cần chiến đấu để bảo vệ đất nước phát triển và trỗi dậy của mình.
Không thể để dân tộc Trung Hoa trở thành “dân tộc kinh tế”
Trỗi dậy kinh tế mà không có trỗi dậy quân sự thì là một sự trỗi dậy nguy hiểm, bởi vì nó sẽ đưa một dân tộc trở thành một dân tộc kinh tế. Weber nói: “Một dân tộc phải chuyển biến từ một dân tộc kinh tế thành dân tộc chính trị, trở thành dân tộc trưởng thành về mặt chính trị”. Căn cứ theo cách nói của Weber, “một dân tộc kinh tế là một dân tộc không trưởng thành về chính trị”, để hiểu rõ vấn đề này chúng ta “dùng phương pháp kinh tế học để nhìn nhận vấn đề”, mục tiêu dân tộc sẽ được chuyển hóa thành mục tiêu kinh tế. Tính đột phá của cách nhìn này biểu hiện ở chỗ: thứ nhất là, khi định ra chính sách kinh tế và chính sách đối ngoại của quốc gia, thường làm người ta quên đi sứ mệnh chính trị của dân tộc; hai là, nói một cách đơn giản kinh tế phồn vinh đồng nghĩa với quốc gia lớn mạnh, nhưng mức độ sung túc và mức độ an ninh không giống nhau. Cần có quyết tâm đưa một phần của cải chuyển hóa thành khả năng an ninh.
Dân tộc kinh tế là dân tộc nguy hiểm, sẽ khiến một dân tộc trở thành “động vật kinh tế”, khiến một dân tộc đi theo con đường giàu mà yếu, giàu mà suy, giàu mà diệt vong, Machiavelli cho rằng, quân sự là gốc rễ để xây dựng nước, quân đội mạnh là nền tảng của thái bình. Ông ấy khi ấy đã tận mắt nhìn thấy thành phố Millan và Florence của nước Ý, tuy là của cải nhiều, nhưng lại không bình an, không thể chống ngoại xâm, đã khiến cho ông cảm thấy rất phẫn nộ. Ông cho rằng, kinh tế quá phồn vinh, nhân dân quá quan trọng lợi ích, dẫn đến bại hoại thuần phong mỹ tục, dân tộc mất đi tinh thần chiến đấu, thì sự suy bại của quốc gia đó chỉ còn là tính bằng ngày.
Giống như con đường sai lầm của kinh tế Hà Lan, một bài học đau buồn. Hà Lan là quốc gia sớm đã tiếp nhận tư tưởng cải cách quân sự của Machiavelli, Hà Lan không phải là nước châu Âu lớn, chỉ là là một quốc gia nhỏ. Hà Lan khi đó gọi là Niederland (ý nghĩa là “đất thấp”). Niederland vốn là thuôc địa của Tây Ban Nha, năm 1568 phát động cuộc chiến tranh giành độc lập, đến năm 1648 mới giành được độc lập, cuộc chiến đấu kéo dài 80 năm. Lúc đó Tây Ban Nha là một nước mạnh trên thế giới, Hà Lan muốn chống lại kẻ địch lớn thì cần phải tìm ra con đường mới đủ sức mạnh để chiến đấu. Hà Lan đã tìm ra con đường đặc biệt đó là cải cách quân sự, Hà Lan là nước đầu tiên cải cách quân sự ở châu Âu. Những thành tựu đạt được trong cuộc cải cách quân sự của Hà Lan đã thu hút sự chú ý của các nước châu Âu. Thanh niên các nước bắt đầu nghiên cứu quân sự và đi đến Hà Lan để tiếp nhận nền giáo dục quân sự, đến Hà Lan du học quân sự đã trở thành thời thượng. Nhưng, mọi người chỉ nhìn thấy sự trỗi dậy về mặt kinh tế của Hà Lan, mà không nhìn thấy sự trỗi dây về mặt quân sự của Hà Lan.
Sự trỗi dậy của Hà Lan bắt đầu từ cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, còn “thương mại là chính trị của chính phủ Hà Lan”. Vì sự phát triển thương mại viễn dương, Hà Lan rất coi trọng xây dựng quân đội, Hà Lan đã có một lực lượng quân đội hùng mạnh. Trong cuộc chiến tranh lần thứ nhất giữa Hà Lan và Anh, Hà Lan mỗi chiến dịch đều phát động 200 chiến hạm trở lên, chiến dịch này Hà Lan phối hợp 6.000-8.000 cỗ pháo, 20.000-30.000 lính thủy. Trong cuộc chiến tranh thứ hai giữa Hà Lan và Anh, hải quân Hà Lan thâm nhập vào sông Thames, trực tiếp uy hiếp London. Trong cuộc chiến trên biển, hạm đội Hà Lan rất nhiều lần đánh bại hạm đội của Tây Ban Nha, thậm chí có lúc một mình ngăn cản quân liên minh Anh, Pháp, Thụy Điển mà không hề tỏ ra yếu đuối. Sở dĩ Hà Lan ở vào vị trí cao trong cuộc chiến đấu giành thuộc địa giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là nhờ ưu thế quân sự của Hà Lan. Kỹ thuật chế tạo chiến hạm đặt biệt của Hà Lan là phía sau khoang tàu thiết kế thêm pháo đài, nó đã trở thành một kiểu mẫu cho Tây Âu và các nước khác học tập. Peter vô cùng ngưỡng mộ ngành chế tạo thuyền của Hà Lan, đã từng hai lần đến Hà Lan học tập kỹ thuật chế tạo tàu.
Hà Lan giống như một phòng thu chi do các hạm đội bảo vệ. Nhưng, ngày 11 tháng 4 năm, Hà Lan, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Thụy Điển cùng nhau ký hoà ước kết thúc cuộc chiến tranh giành vị trí cao nhất, đồng thời cũng kết thúc vai trò vĩ đại của Hà Lan. Sau rất nhiều thế kỷ các cường quốc châu Âu chiếm lĩnh thế giới, các nước cộng hoà tự nguyện rút ra khỏi đội ngũ các nước lớn. Quân đội các nước cộng hoà bị hạn chế vũ trang, hạm đội bị xuống cấp trong các bến cảng, các tướng hải quân giải ngũ, lĩnh tiền hưu. Vị trí các tướng quân được các nhà ngoại giao dùng một lượng tiền lớn để thay thế. Tiền này dùng để mua hoà bình. Bằng bất kỳ giá nào, thậm chí dùng mọi thủ đoạn để mưu cầu hoà bình, đã trở thành chính sách mới của các quốc gia cộng hoà.
Trong thế kỷ 18, Hà Lan không xây dựng quân đội một cách nghiêm túc, đây là hành vi mang tính tự sát. Nước cộng hoà Hà Lan đã từng là cường quốc trên biển, không thể nào không hướng ra ngoài chiêu mộ các sĩ quan hải quân. Hạm đội yếu kém Hà Lan nhiều lần đem tin tức bị sỉ nhục mang về nước. Thương nhân Hà Lan ở Đại Tây Dương và các thuyền đánh bắt cá Hà Lan ở Bắc Hải đối mặt với hoàn cảnh bị bắt ở biên giới, ngư dân và thương nhân Hà Lan ở Bắc Hải và Đại Tây Dương bị bắt, chạy trốn khắp nơi.
Trong thế kỷ 18, Hà Lan không ngừng suy yếu về quân sự, mọi người kêu gào cần tiền, tiền, nhiều tiền hơn. Người Hà Lan vứt bỏ “túi đạn ” mang trên mình, “túi tiền” của họ cũng trở thành mồi cho hải tặc.
Pháp cũng nhận được bài học tương tự, trong tác phẩm “Năm 1940: sự diệt vọng của Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha”, Tướng quân Bauffre của Pháp chỉ ra rằng: Trước đại chiến thế giới thứ hai, kinh tế Pháp tương đối ổn định, người dân có cuộc sống tương đối sung túc, nhưng tình hình chính trị thì rất gay go…..Khi đại chiến thế giới thứ hai xảy ra, người Pháp không giống như năm 1914 mọi người đoàn kết nhất trí dâng hiến sức lực cho tổ quốc, Pháp không có nhà lãnh đạo xuất chúng, cả nước từ trên xuống dưới trong không khí hỗn loạn chính trị đã vô tình tham gia chiến tranh, nhiều người dân có tâm lý ghét chiến tranh, rất nhiều người tình nguyện bị sỉ nhục cũng không muốn liều mạng trong chiến tranh. Trước khi chiến tranh xảy ra, một tác giả người Đức đã đưa ra bình luận gay gắt như sau: “Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha là các dân tộc đang trên bờ vực thẳm. Dân tộc không có mục đích, giá trị. Con người sớm muộn sẽ mất đi tinh thần truyền thống quý báu. Như vậy, chẳng khác gì tự sinh, tự diệt, không được tôn trọng”. Sự sụp đổ nhanh chóng của Pháp năm 1940 đã chứng minh cho quan điểm trên.
Tinh thần thương mại của người Mỹ là số một thế giới, của cải của Mỹ là số một thế giới, nhưng Mỹ xác định rõ dân tộc của họ không phải là một dân tộc kinh tế. Giáo sư Joshep Nye, Học viện chính trị Kennedy của trường Đại học Harvard đã nói rằng: “Lực lượng quân sự rất quan trọng. Tôi cho rằng, địa vị quân sự là nòng cốt của một quốc gia ”. Ở Mỹ, nhân tài có tố chất cao không phải trong các ngành nghề, lĩnh vực có lợi nhuận cao. Theo cuộc điều tra, trong giới giám đốc doanh nghiệp, số người có học vị thạc sĩ trở lên chỉ chiếm 19%, nhưng trong hàng ngũ chuẩn tướng, số người có học vị tương đương chiếm 88%. Ở Mỹ, đội ngũ nhân tài trong sự nghiệp “quân sự” gấp bốn lần số nhân tài trong sự nghiệp “dân sự”. Mỹ là một nước kinh tế lớn, lấy địa vị quân sự làm nòng cốt cho sức mạnh quốc gia.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc cần phải thống nhất hai mặt quân sự và dân sự, vừa trỗi dậy trở thành nước kinh tế lớn, vừa trỗi dậy trở thành nước quân sự hùng mạnh, tuyêt đối không thể trở thành một “dân tộc kinh tế” “có mỡ mà không có xương, có vóc mà không có sức”.
Kỳ sau: 3. Trung - Mỹ không có chiến tranh lớn: Trung Quốc cần có đại quân