Nhìn ra thế giới

Peter F. Drucker Bàn về một Xã hội Hoạt động

Peter F. Drucker nổi tiếng nhất vì công trình của ông về quản lý. Thông báo báo chí của Nhà trắng ngày 21-6-2002, công bố rằng Drucker sẽ nhận Huy chương Tự do của Tổng thống tuyên dương Drucker như “người tiên phong nhất thế giới về lý thuyết quản lý”. Quả thực ông là vậy. Thế nhưng tất cả công trình có ảnh hưởng sâu rộng về quản lý này xảy ra khi Drucker theo đuổi mối quan tâm chính của mình trong một chủ đề lớn hơn và thậm chí có tầm quan trọng rộng rãi hơn. Bài báo này cố gắng áp dụng một viễn cảnh hệ thống đối với các công trình của Peter F. Drucker, sắp xếp các tác phẩm của ông vào một cái toàn thể nhất quán, để giúp bạn định vị khối tri thức khổng lồ mà con người xuất sắc này đã tạo ra trong suốt 65 năm vừa qua. Đấy không phải là một thách thức nhỏ và cách tiếp cận của tôi chỉ là một sự khởi đầu.

Mục tiêu của tôi là một sự hiểu rõ về các phần của các công trình của Drucker liên hệ với nhau thế nào, hơn là một sự mô tả về các phần riêng lẻ. Tuy nhiên, để hiểu các phần tương tác với nhau ra sao, chí ít ta phải có sự hiểu biết nào đó về bản thân các phần – tức là, những tác phẩm chính của Peter Drucker.
 
 
Drucker trốn thoát chủ nghĩa toàn trị với tư cách một thanh niên trẻ. Đấy là vì sao trong chính cuốn sách đầu tiên của mình, Sự kết thúc của Con người Kinh tế - The End of Economic Man (1939), ông phân tích các nguyên nhân của chủ nghĩa toàn trị và sự bất an, sự sợ hãi, sự suy thoái, và thất nghiệp (“các con quỷ”) những cái đã sinh ra một khoảng chân không tạo ra các điều kiện cho sự nổi lên của một kẻ độc tài. Toàn bộ cuộc đời làm việc của Drucker đã dành hết cho việc đảm bảo chắc chắn rằng điều đó không bao giờ xảy ra nữa. Ông đã sang Hoa Kỳ bởi vì cơ hội mà nó mời chào và bởi vì các định chế của Hoa Kỳ được thiết kế để thúc đẩy và bảo vệ tự do.
Một số người đọc điều này có thể nghĩ là gượng gạo đi nói rằng toàn bộ đời hoạt động của Drucker đã dành cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa toàn trị. Họ có thể hỏi một cách có lý cái gì là sự kết nối giữa cuốn sách đầu tiên của ông, The End of Economic Man, và các tác phẩm muộn hơn như  Thực hành Quản lý -The Practice of Management (1954), Quản lý vì Kết quả - Managing for Results (1964), Nhà điều hành Hữu hiệu-The Effective Executive (1966), hay Đổi mới và Tinh thần Nghiệp chủ-Innovation and Entrepreneurship (1986)? Việc viết các cuốn sách về quản lý ngăn chặn chủ nghĩa toàn trị thế nào? Vì sao các công ty quan trọng đến vậy đối với Drucker? Đấy là những câu hỏi rất hay, những câu trả lời cho chúng sẽ rọi sáng lên các tác phẩm của Drucker như một tổng thể.
Một đoạn chiến lược trong các tác phẩm của Drucker, đoạn làm rõ mục đích công việc của ông về xã hội và quản lý, được thấy trong lời nói đầu cho lần xuất bản bìa cứng của cuốn Quản lý: Các Nhiệm vụ, Trách nhiệm và Thực hành - Management: Tasks, Responsibilities and Practices (1974, các trang. ix và x):
Xã hội chúng ta, trong vòng một thời kỳ ngắn lạ thường có năm mươi năm, đã trở thành một xã hội của các định chế. Nó đã trở thành một xã hội đa nguyên trong đó mỗi nhiệm vụ xã hội chủ yếu được giao phó cho các tổ chức lớn – từ sản xuất các hàng hóa và dịch vụ kinh tế đến chăm sóc sức khỏe, từ an sinh xã hội và phúc lợi đến giáo dục, từ tìm tòi tri thức mới đến bảo vệ môi trường tự nhiên....
Nếu các định chế của xã hội đa nguyên gồm các định chế của chúng ta không hoạt động trong sự tự trị có trách nhiệm, chúng ta sẽ không có chủ nghĩa cá nhân và một xã hội trong đó có cơ hội cho người dân phát huy hết năng lực bản thân. Thay vào đó chúng ta sẽ bắt mình phải chịu sự tổ chức hoàn toàn thành đoàn trong đó không ai sẽ được phép tự trị. Chúng ta sẽ có chủ nghĩa Stalin hơn là nền dân chủ tham dự, nói chi đến sự tự ý hân hoan làm việc riêng của mình. Chế độ bạo ngược là sự lựa chọn khả dĩ duy nhất đối lại các định chế mạnh, hoạt động tự trị [nhấn mạnh của tôi].
Drucker kết thúc đoạn này bằng cho biết rằng chính “các nhà quản lý và sự quản lý là cái khiến các định chế hoạt động. Sự quản lý hoạt động, có trách nhiệm [tôi nhấn mạnh] là sự lựa chọn khả dĩ đối lại chế độ bạo ngược và là sự bảo vệ duy nhất của chúng ta chống lại nó”.
Với đoạn chiến lược này như cái nền, thật rõ vì sao các cuốn sách và bài báo của Drucker đề cập đến “cộng đồng, xã hội, chính thể” nhiều hơn là chúng đề cập đến quản lý. Để lĩnh hội cái cốt lõi của các tác phẩm của Peter Drucker, ta phải bắt đầu với câu hỏi, Phải làm gì để tạo ra các định chế đa nguyên, thực hiện chức năng và hoạt động của một xã hội tự do?
Từ ngay cuốn sách đầu tiên của ông năm 1939 đến tận cuốn cuối cùng của ông năm 2004, Peter Drucker đã theo đuổi chủ đề to lớn, Chúng ta tạo ra như thế nào một xã hội hoạt động? Câu trả lời của ông: chúng ta phải tạo ra các định chế hay các tổ chức hoạt động – việc đó đến lượt nó lại dẫn đến câu hỏi, Làm thế nào người ta tạo ra các tổ chức hoạt động? Và rồi, Người ta khai thác thế nào các nhà quản lý những người tạo ra các tổ chức hoạt động?

Quản lý có trách nhiệm là sự bảo vệ duy nhất của chúng ta chống lại chế độ bạo ngược.

Khi bạn đọc các tác phẩm của Drucker, bạn sẽ liên tục thấy một mạch quan tâm đối với tất cả các định chế của xã hội, nhưng trong The Concept of the Corporation (1946), The New Society (1950), The Practice of Management (1954), Managing for Results (1964), The Effective Executive (1966), và Management: Tasks, Responsibilities, Practices (1973, 1974), tiêu điểm của ông chủ yếu, tuy chẳng hề riêng, về các định chế tạo ra của cải của xã hội..
 
 
Các công ty và các doanh nghiệp khác là các định chế tạo của cải của xã hội. Không có các định chế khu vực tư nhân này, thì các định chế khu vực công và khu vực xã hội sẽ không có nguồn lực để hoạt động. Chính khu vực tư nhân là khu vực cung cấp các nguồn lực để tài trợ các định chế khu vực công và xã hội. Chính khu vực tư nhân là khu vực có trách nhiệm khởi nghiệp kinh doanh quan trọng nhằm làm nhẹ bớt các tác động của chu kỳ kinh doanh và nhằm tránh “các con quỷ” thất nghiệp và suy thoái.
Drucker đã bắt đầu với các định chế tạo-của cải cơ bản này khi ông cố vươn tới mục đích tạo ra các điều kiện cho phép các định chế của xã hội hoạt động tốt. Vào giữa đến cuối các năm 1970, ông bắt đầu dần dần chuyển chủ đề từ quản lý các định chế khu vực tư nhân sang quản lý các định chế khu vực xã hội, chủ yếu là các tổ chức phi lợi nhuận. Tuy nhiên, ông đã luôn có một sự quan tâm đối với các định chế chính phủ và các thách thức quản lý của chúng. Mối quan tâm này đối với chính phủ đặc biệt nổi bật trong Thời đại Gián đoạn - The Age of Discontinuity (1969), trong đó ông phân tích “căn bệnh chính phủ”, nhưng cũng cả trong cuốn sách sớm hơn Những Cột mốc của Ngày mai - Landmarks of Tomorrow (1957).
Nhưng đúng là bắt đầu với việc xuất bản cuốn Tương lai của Con người Công nghiệp - The Future of Industrial Man (1942), ông đã bắt đầu đề cập đến vấn đề, Làm thế nào có thể duy trì được tự do cá nhân trong một xã hội công nghiệp dưới ánh sáng của sự thống trị của quyền lực quản lý và của công ty? Quản lý theo Mục tiêu (Management by objectives-MBO) gắn với tự-chủ (self-control) là triết lý quản lý do ông kiến nghị, đầu tiên trong The Practice of Management (1954), để giải quyết sự căng thẳng giữa tự do cá nhân và quyền lực cá nhân phải nhường cho công ty trong thời gian làm việc. Ngay cả trong Xã hội Tri thức hiện nay, MBO với tự-chủ là câu trả lời tốt nhất mà chúng ta có cho thế lưỡng nan về làm thế nào để bảo vệ tự do cá nhân trong các tổ chức.
Đạt tự do trong công ty và trong các định chế khác đòi hỏi trách nhiệm ở mọi mức. MBO với tự-chủ là một triết lý quản lý hợp nhất các phương pháp đề ra mục tiêu và giám sát thành tích bởi mỗi đơn vị tổ chức và bởi mỗi cá nhân. Quá trình MBO, nếu được thiết kế thích hợp, phát triển cả trách nhiệm và tự do cho các cá nhân trong các tổ chức.
Một đặc điểm then chốt của MBO là truyền thông hướng lên trong đó mỗi người quản lý làm rõ các mục tiêu của cấp trên của mình và sau đó đặt ra các mục tiêu mà người quản lý đó có thể đạt được và phù hợp với các mục tiêu của cấp trên. Tiếp đến, cấp trên rà soát lại tất cả các mục tiêu và dàn xếp thỏa thuận với mỗi nhà quản lý thuộc cấp trong khi tìm cách tích hợp các mục tiêu của thuộc cấp mà mình phụ thuộc vào thành tích của người đó. Trong quá trình này, cấp trên tìm cách đạt được sự chấp nhận nhiệt tình và cam kết từ mỗi nhà quản lý đối với các mục tiêu đã thỏa thuận. Nếu cấp trên thành công, thì quá trình truyền thông và tham gia này sẽ khuyến khích các thuộc cấp tiếp thu các mục tiêu này làm của riêng họ.
Tiếp sau, cấp trên kèm cặp, hướng dẫn các thuộc cấp nhằm đạt các mục tiêu và tìm cách loại bỏ bất cứ rào cản được biết nào đối với việc thực hiện và và thành đạt các mục tiêu của các thuộc cấp. Cuối cùng, thượng cấp đảm bảo rằng các thuộc cấp có thông tin kịp thời và chính xác để đánh giá sự tiến bộ đến các mục tiêu và để đưa ra hành động chỉnh sửa mà không có bất cứ sự can thiệp nào từ bên trên. Bước cuối cùng này hoàn thành chiều “tự chủ” của MBO.
Nhưng MBO với tự-chủ chẳng dễ thực hiện cũng chẳng phải trò vui. Đối với Drucker, đấy là những cái lý tưởng và ông sẵn lòng thừa nhận rằng MBO được sử dụng rộng rãi hơn tự-chủ. Điều này và nhiều khó khăn thêm trong việc đạt cả tự do lẫn trách nhiệm cá nhân trong các tổ chức phải tiệt trừ bất cứ niềm tin nào rằng Drucker đề xuất một cách tiếp cận “không tưởng” đối với thực hành quản lý, như một vài người ngộ nhận cho là vậy[1].
Thế nhưng tự do và trách nhiệm là cần thiết đối với một xã hội và các tổ chức của nó để hoạt động ở mức thành tích cao. Và tự do thật sự trong các tổ chức đòi hỏi trách nhiệm về phía các cá nhân trong mỗi định chế của xã hội.
 

Tự do không phải là trò vui đùa.

 
Trong một bài báo ban đầu ("Tự do của Con người Công nghiệp -The Freedom of Industrial Man," được đăng trên Virginia Quarterly Review, Thu năm 1942), Drucker làm rõ đòi hỏi về trách nhiệm cá nhân nếu tự do phải đạt và được duy trì:
Tự do không phải là trò vui. Nó không hệt như hạnh phúc cá nhân, cũng chẳng như sự an toàn hay hòa bình hoặc tiến bộ. Nó là một sự lựa chọn có trách nhiệm. Tự do không phải là một quyền mà là một trách nhiệm. Tự do thực sự không phải là tự do khỏi cái gì đó; điều đó sẽ là sự cho phép. Tự do là lựa chọn giữa làm hay không làm cái gì đó, là hành động theo cách này hay cách kia, là giữ một niềm tin hay cái ngược lại.
Trong một phỏng vấn mới đây (được tường thuật trong cuốn sách của Jack Beatty, Thế giới theo Peter Drucker- The World According to Peter Drucker, tr. 79), Drucker cung cấp một định nghĩa tuyệt vời về trách nhiệm cá nhân:
Trách nhiệm mang cả tính bên ngoài lẫn bên trong. Về bên ngoài nó hàm ý trách nhiệm giải trình đối với ai đó hay cơ quan nào đó và trách nhiệm giải trình đối với thành tích cụ thể. Về bên trong nó hàm ý sự cam kết, tận tụy. Người lao động có Trách nhiệm không chỉ là người có trách nhiệm giải trình đối với những kết quả cụ thể mà cũng là người có quyền hạn để làm mọi thứ cần thiết nhằm tạo ra những kết quả này và, rốt cuộc, là người cam kết, tận tâm đối với những kết quả này như một thành tựu cá nhân.
Đấy là loại trách nhiệm trong các tổ chức cái sẽ tạo các điều kiện đối với sự tự do đích thực cho các cá nhân trong các tổ chức. Nó cũng là loại trách nhiệm cần đến để làm cho MBO với tự chủ có kết quả.
 

Sự lãnh đạo không phải là charisma!

 
XÃ HỘI hoạt động đòi hỏi những người lãnh đạo hữu hiệu. Một quan điểm về sự lãnh đạo, có xuất xứ trong điều khiển học, nhấn mạnh vai trò của “người cầm lái” và nhiệm vụ của người cầm lái là “lái” một thực thể. Việc lái đòi hỏi thiết lập tầm nhìn và các mục đích, truyền cảm hứng và thúc đẩy những người đi theo để đạt các kết quả mong muốn. Và đây là cách Drucker định nghĩa sự lãnh đạo. Sự lãnh đạo là nhận trách nhiệm vì những kết quả. Hơn nữa, sự lãnh đạo đòi hỏi tính nhất quán, trước sau như một và nêu gương cho những người khác để đi theo trong tổ chức (“tính nhất quán là tiêu chuẩn, là hòn đá thử của sự quản lý”). Sự lãnh đạo không phải là charisma, tài bẩm sinh thu hút quần chúng! Drucker cung cấp nhiều thí dụ về các nhà lãnh đạo xuất sắc những người “cực kỳ chán ngắt” nhưng rất hữu hiệu, và về nhiều nhà lãnh đạo “có tài lôi cuốn” những người, do thiếu tính nhất quán, đã làm xói mòn các điều kiện cho một xã hội hoạt động.
 
 
CÔNG VIỆC của xã hội được tiến hành thông qua các loại tổ chức khác nhau, mỗi loại với các nhiệm vụ riêng của mình. Ba loại khác nhau của các tổ chức tạo thành xã hội của các tổ chức. Thứ nhất, có các tổ chức khu vực công [public sector] trong đó công việc của chính quyền liên bang, bang và địa phương được tiến hành. Tiếp theo là các tổ chức khu vực tư nhân [pivate sector], được thiết lập để thỏa mãn những mong muốn và nhu cầu kinh tế của công dân. Và cuối cùng có các tổ chức khu vực xã hội [social sector] (đôi khi được nhắc đến như phi lợi nhuận [nonprofit]) để lo cho các nhu cầu sức khỏe và phúc lợi của các công dân không được thỏa mãn hoàn toàn bởi các tổ chức khu vực công hay khu vực tư nhân.
Drucker tin rằng để cho một xã hội hoạt động tốt, các tổ chức của nó phải là các định chế có mục đích-duy nhất. Thí dụ, các định chế đa-mục đích, như các trường công của chúng ta, trong đó các nhà giáo dục thường có trách nhiệm dạy giáo dục tình dục, nâng cao nhận thức về ma túy và rượu, và các kỹ năng sống, không thực hiện tốt về mặt học thuật như các trường giáo xứ tập trung hơn.
Như một kết quả, mỗi tổ chức, bất luận vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận, phải tập trung vào một nhiệm vụ duy nhất – chữa trị người bệnh, giáo dục trẻ em, và thỏa mãn các nhu cầu kinh tế. Và mỗi tổ chức phải được quản lý tốt nếu muốn xã hội hoạt động ở mức cao. Nhưng ai để ý đến lợi ích chung nếu mỗi định chế theo đuổi nhiệm vụ hẹp riêng của nó?
Trong nhiều công trình của mình, Drucker đã quan tâm đến mỗi định chế đảm nhiệm các nhiệm vụ mà nó làm giỏi nhất. Chính phủ thích hợp nhất với việc “cai trị” và không phải với “làm”. Doanh nghiệp giỏi nhất khi nó tập trung các nguồn lực của mình và bận rộn với các hoạt động tạo ra của cải. Một doanh nghiệp không có khả năng [am hiểu] để đảm nhận trách nhiệm đối với những cái xấu chính của xã hội trừ phi những cái xấu này có thể được chuyển thành các cơ hội kinh doanh. Nhưng, như ông nhận ra trong The Concept of the Corporation (1946) và sau đó, trong xã hội đa nguyên của các tổ chức, cái gì là tốt cho Hoa Kỳ phải được biến thành tốt cho các tổ chức (như General Motors), và không phải ngược lại.

Không cơ quan nào sống lâu hơn cơ thể nó phục vụ.

 Mỗi tổ chức là một cơ quan của xã hội. Và “không cơ quan nào có thể sống lâu hơn cơ thể nó phục vụ”. Vì thế, trong khi tập trung vào một nhiệm vụ duy nhất, mỗi định chế cũng phải để ý đến lợi ích chung. Kinh doanh tự do có thể biện hộ được chỉ ở mức độ nó là tốt cho xã hội. Khác đi, thì trong một xã hội đa nguyên của các tổ chức có mục đích riêng biệt sẽ có các định chế làm yếu các điều kiện của một xã hội hoạt động.
 
 
Drucker đặt ra thuật ngữ "tái tư nhân hóa" trong The Age of Discontinuity (1969) và đề nghị rằng, vì lợi ích của xã hội, chính phủ chuyển giao các hoạt động trước đây do gia đình thực hiện cho các định chế khu vực xã hội (tức là, phi lợi nhuận) đang nổi lên. Như thế ông đã là người sớm khuyên chính phủ và muộn hơn cả doanh nghiệp đi "outsourcing" [thuê bên ngoài làm] ("Sell the Mailroom," 1989) để cho các định chế này có thể tập trung vào các nhiệm vụ chính mà chúng có trách nhiệm hàng đầu và năng lực [am hiểu] duy nhất.
Mối quan tâm trong tái tư nhân hóa là trả lại cho khu vực tư nhân và khu vực phi lợi nhuận những hoạt động có thể được tiến hành hữu hiệu hơn ở đó, và để cho chính phủ những việc mà chỉ có chính phủ mới có thể làm. Chính phủ phải đấu tranh chống khủng bố và chính phủ phải giải quyết môi trường tự nhiên. Mặt khác, các tổ chức khu vực xã hội, như Girl Scouts [Nữ Hướng đạo], Salvation Army [Đội Cứu tế], và Prison Fellowship [Hội Bạn Tù] lại hữu hiệu hơn nhiều trong, thí dụ, phát triển các thiếu nữ, biến những người bị bỏ rơi, những người nghiện ma túy phục hồi sức khỏe thành các công dân, và giảm sự tái phạm tội trong các nhà tù của chúng ta.
Mối lo của Drucker rằng các định chế của xã hội hoạt động vì lợi ích chung đã dẫn ông đôi khi trở thành người phê phán tập quán kinh doanh và đảm nhận vai trò thuyết giảng của một nhà tiên tri. Thí dụ, một số tỷ lệ giữa đền bù (thu nhập) của các nhà điều hành chóp bu và thu nhập của người làm ở tuyến đầu là cao hơn 500 trên 1 trong danh sách Standard & Poors của 1.500 công ty (xem www.aflcio.org, Executive Paywatch). Đối với Drucker điều này là đáng hổ thẹn và gửi một thông điệp sai cho nhân viên và cho công chúng về đạo đức, tư cách của người điều hành. Nó thể hiện sự thiếu quan tâm đến phúc lợi của nhân viên và xã hội. Có các công ty đại chúng đã rất thành công trong các thời kỳ dài cũng đã duy trì, bằng chính sách hay tập quán, một tỷ lệ thấp hơn nhiều giữa [thu nhập của] những người ở chóp bu và những người ở dưới đáy (xem Lasting Value-Giá trị lâu bền, 2000, của tôi).

Drucker phản đối việc dùng rộng rãi quyền chọn cổ phiếu.

Drucker phản đối việc sử dụng rộng rãi quyền chọn [mua] cổ phiếu (stock options). Stock options thường khiến các nhà điều hành bận tâm với giá cổ phiếu ngắn hạn. Việc này có thể khuyến khích họ không để mắt đến những cái căn bản của doanh nghiệp và tập trung vào làm bất cứ thứ gì để đẩy giá cổ phiếu công ty của họ lên trên “giá thực hiện”. Tuy nhiên, Drucker có ủng hộ các khuyến khích đáng kể nhằm thúc đẩy đổi mới về sản phẩm, quy trình, và dịch vụ..
 
 
KHI được hỏi, "Ông phân loại mình thế nào?" Peter Drucker trả lời, "Tôi là một nhà sinh thái học xã hội." Một nhà sinh thái học xã hội là gì?
Mục tiêu cuối cùng của sinh thái học xã hội là hành động, một cách điển hình, để cải thiện sự hoạt động của các định chế của xã hội. Về khía cạnh này, Alexis de Tocqueville đã hoạt động như một nhà sinh thái học xã hội, và có lẽ là tấm gương lịch sử tốt nhất về một nhà sinh thái học xã hội, khi bằng cách thử hiểu các định chế của nền dân chủ ở Hoa Kỳ ông đã tìm cách cải thiện hoạt động của các định chế đó ở Châu Âu cũng như ở Hoa Kỳ.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà sinh thái học xã hội đối với Drucker là nhận ra các xu hướng chính đã nổi lên rồi ở những điểm cơ bản nhưng vẫn chưa làm cho tác động của chúng cảm nhận được trên các định chế của xã hội (“tương lai cái đã xảy ra rồi”). Một khi các xu hướng này đã được nhận diện, sau đó Drucker phóng chiếu chúng vào tương lai trước xa những người khác có bao giờ nhận ra chúng và cảnh báo xã hội về những cơ hội và hiểm nguy mà các xu hướng đang nổi lên này tạo ra cho các định chế và các cá nhân. Bởi vì ông nhận ra các xu hướng này rất sớm, có thời gian để kiểm tra những khám phá của ông và để tận dụng triệt để các xu hướng đang nổi lên, trong khi phân biệt các xu hướng quan trọng khỏi những cái nhất thời. Như thế ông tìm cách cung cấp cho các nhà điều hành và các nhà lãnh đạo của tất cả các định chế của xã hội thông tin họ cần để định hình tương lai hơn là trở thành các nạn nhân của các xu hướng này.
Nhận ra tương lai cái đã xảy ra rồi là rất quan trọng đối với Peter Drucker. Một mục tiêu chủ yếu của một nhà sinh thái học xã hội là để giúp thúc đẩy sự liên tục trong bảo tồn các định chế của xã hội (thí dụ, gia đình, các định chế tôn giáo, và Tòa án Tối cao) trong khi thúc đẩy sự thay đổi trong các định chế gây bất ổn một cách cố hữu của một xã hội tự do, đặc biệt các định chế kinh doanh nhưng cả các định chế khu vực xã hội và khu vực công. Các nhà sinh thái học xã hội vì thế chẳng là bảo thủ cũng không là tự do. Đúng hơn, họ tìm cách thúc đẩy các giá trị đứng vững với sự thử thách của thời gian trong khi luôn luôn kích các nhà điều hành của các định chế để đổi mới, để trở thành các nhà lãnh đạo thay đổi, tận dụng “những thực tế mới”, và bằng cách ấy thúc đẩy các lợi ích của xã hội.
 
 
MỘT MINH HỌA về công việc của Drucker với tư cách một nhà sinh thái học xã hội chứa đựng trong bài báo “The Next Society-Xã hội Tiếp theo”, xuất hiện trong Economist, November 1, 2001, và trong cuốn sách Quản lý trong Xã hội Tiếp theo - Managing in the Next Society (2002) của ông. Bài báo và cuốn sách này bằng nhiều cách minh họa công việc của Drucker với tư cách một nhà sinh thái học và giải thích là một nhà sinh thái học xã hội có nghĩa là gì.
Các biên tập viên của Economist giới thiệu bài báo với các lời thế này: “Tương lai là gần hơn bạn nghĩ. Peter Drucker giải thích nó sẽ khác hôm nay thế nào, và cần làm gì để chuẩn bị cho nó”. Một trong những cách xã hội tiếp sau sẽ khác hiện nay là sự nổi lên của tri thức như nguồn lực tạo ra của cải chủ yếu. Ông mô tả sự nổi lên đầy đủ của xã hội tri thức và các hệ lụy của nó đối với tất cả ba khu vực – công, tư, và xã hội – của các nước phát triển và đối với các cá nhân. Cái đáng chú ý để nhắc tới, tuy vậy, là Drucker thực sự đã bắt đầu theo dõi sự nổi lên của người lao động tri thức, của nền kinh tế tri thức, và của xã hội tri thức gần nửa thế kỷ trước khi bài báo này xuất hiện trên Economist.
Drucker đã hiểu rằng việc thông qua dự luật GI[2] sau Chiến tranh Thế giới II sẽ dẫn đến sự nổi lên của “người được giáo dục”. Từ các năm 1950 trở đi ông bắt đầu nói và viết về người lao động tri thức (thí dụ, trong Landmarks of Tomorrow, 1957) và về tầm quan trọng của vốn nằm trong đầu chúng ta và nó sẽ vượt tầm quan trọng của vốn vật lý như thế nào. Ông tiếp tục theo dõi các sự kiện này. Chúng xuất hiện chi tiết trong The Age of Discontinuity (1969). Các sự kiện này sau đó được phát triển thậm chí đầy đủ hơn trong các cuốn sách của ông: Thực tế mới-The New Realities (1989), đặc biệt Xã hội Hậu-Tư bản Chủ nghĩa - Post-Capitalist Society (1993), và Những Thách thức Quản Lý cho Thế kỷ 21 - Management Challenges for the 21st Century (1999).[3] Bây giờ tri thức là “tiền của vương quốc”, tài sản then chốt đối với các cá nhân, các tổ chức, và quốc gia.

Tri thức bây giờ là tiền của vương quốc.

 Nhận ra tri thức với tư cách vốn tư bản đang nổi lên là một thí dụ về khả năng nhận thức sâu sắc của Drucker để nhìn thấy “tương lai cái đã xảy ra rồi” và để hiểu và truyền đạt các hệ lụy của nó cho tất cả các bên trước xa khi nó trở thành một thực tế hàng ngày. Nhiều cá nhân và định chế đã nắm lấy những cơ hội của xã hội tri thức rồi.
 
 
TRI THỨC là nguồn lực then chốt trong các tổ chức và xã hội như thế nào, Drucker lập luận, còn quan trọng hơn bao giờ hết rằng ban quản lý coi những người lao động tri thức của mình như các tài sản phải được phát triển hơn là như các chi phí phải chi tiêu. Hơn nữa, một trong những nhiệm vụ chủ yếu của ban quản lý là nâng năng suất của những người lao động tri thức; một nhiệm vụ khác đáng kể với nâng năng suất của những người lao động chân tay và dịch vụ.
Trong công việc tri thức, chính người lao động tri thức là người xác định nhiệm vụ phải hoàn thành, bởi vì rất thường xuyên là người lao động tri thức biết về nhiệm vụ nhiều hơn bất cứ người quản lý nào. Không giống công việc chân tay và dịch vụ, nơi nhiệm vụ được định rõ, nhiệm vụ của người lao động tri thức phải được xác định. Trong đo lường và tăng năng suất của người lao động tri thức, vì vậy, bước đầu tiên phải là xác định nhiệm vụ. Một khi nhiệm vụ đã được xác định, sự đo lường thực sự của năng suất phải bao gồm chất lượng của số lượng đầu ra.
Cuối cùng, trong xã hội tri thức, các nhà điều hành phải tích hợp các lĩnh vực tri thức khác nhau vào một tổng thể hữu cơ nhằm thỏa mãn sứ mệnh của tổ chức. Việc này đến lượt nó lại có nghĩa rằng nhiệm vụ của người lao động tri thức phải được xác định bởi người lao động tri thức, các nhà điều hành phải tích hợp công việc của tất cả những người lao động tri thức và phải chuẩn y việc xác định các nhiệm vụ.
 
 
HỆT NHƯ một xã hội hoạt động phụ thuộc vào các tổ chức tự trị, hoạt động tốt, cũng thế nó phụ thuộc vào các cá nhân tự trị, có trách nhiệm, thi hành. Trong khi điều này đã luôn là như thế, bây giờ thậm chí còn quan trọng hơn rằng trong thế giới phát triển tri thức và những người lao động tri thức đã trở thành các tài sản chủ yếu đối với các tổ chức hoạt động.
Những người lao động tri thức sở hữu vốn của chính họ. Thế mà những người lao động tri thức cần các tổ chức để làm cho tri thức chuyên dụng của họ hoạt động trong thiết kế sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ hữu ích. Nhà thiết kế phần mềm, chẳng hạn, cần người vận hành phần cứng để kiểm tra và dùng phần mềm đó. Nhưng mối quan hệ giữa người lao động tri thức và tổ chức không còn là mối quan hệ nơi người lao động rất phụ thuộc vào tổ chức. Người lao động tri thức có độ di động lớn hơn nhiều và có trách nhiệm lớn hơn nhiều đối với việc duy trì tri thức hiện hành so với người lao động chân tay. Hợp đồng làm việc với người lao động tri thức có tính qua lại, hỗ tương hơn hợp đồng với người lao động chân tay, người phụ thuộc hơn nhiều vào người sử dụng lao động vì sự an toàn.
Thay đổi là liên tục trong xã hội tri thức. Tri thức rất dễ hỏng[4]. Người lao động tri thức phải hành động như một nhà kinh doanh khởi nghiệp và thực hiện việc quản lý cá nhân. Những người lao động tri thức phải quen với quá trình “phá hủy sáng tạo”. Họ phải trở thành những người lãnh đạo thay đổi, tích cực trong theo đuổi sự thay đổi, hơn là trở thành các nạn nhân của sự thay đổi. Điều này ép người lao động tri thức tham gia học tập liên tục. Xã hội tri thức là một xã hội di động nhanh lên phía trên nhưng nó có đưa vào những rủi ro đáng kể. Người lao động tri thức có thể lên tột đỉnh sớm và trở nên buồn chán, và vì thế phải chuẩn bị đối với các tình huống có thể xảy ra bằng phát triển một sự nghiệp thứ hai hay song song.

Sự thay đổi là liên tục trong xã hội tri thức

Cuối cùng, Drucker khuyên chúng ta, dẫu miễn cưỡng đến thế nào, như một phần của nhiệm vụ quản lý bản thân, để suy ngẫm về các vấn đề cơ bản liên quan đến ý nghĩa của sự tồn tại con người. Ông tự làm việc này trong một tiểu luận rất mạnh mẽ về Kierkegaard.
 
 
TiỂU LUẬN của Drucker “The Unfashionable Kierkegaard [Lỗi thời]”, ban đầu được xuất bản năm 1949 trong Sewanee Review và được in lại năm 1993 trong tập tiểu luận The Ecological Vision-Tầm nhìn Sinh thái học, là một sự thú nhận rằng dù Drucker đã viết chỉ riêng về các chủ đề “trong xã hội”, xã hội là không đủ để lo cho sự tồn tại con người. Tiểu luận của ông về Kierkegaard là cái duy nhất ông đã viết “bên ngoài xã hội”, trừ hai tiểu thuyết của ông.
Vì sao tầm quan trọng của Kierkegaard? Có một chiều kích tồn tại hay tâm hồn đối với đời người. Với Drucker nó được thỏa mãn bằng niềm tin được trình bày trong các tác phẩm của Kierkegaard, và niềm tin đó cho chúng ta cả một lý do để sống trong xã hội lẫn một hy vọng vào cái chết khi xã hội trở thành không quan trọng.
 
 
BẤT CỨ cố gắng nào để rọi sáng việc các công trình của Peter Drucker gắn bó với nhau ra sao nhất thiết là tạm thời, bởi vì chỉ có ông mới có thể nói cho chúng ta chúng gắn kết với nhau thế nào. Một điều là chắc chắn: sự thể hiện của ông, nếu nó xuất hiện[5], sẽ rất khác trình bày này. Thế nhưng tôi hy vọng việc vận dụng viễn cảnh hệ thống này đối với công trình của ông thuyết phục bạn tiếp tục theo đuổi sâu các tác phẩm của ông, nếu bạn đã chưa làm như vậy. Một cách thuận tiện để làm việc này là nghiên cứu sâu cuốn Drucker Hàng ngày - The Daily Drucker (2004) và áp dụng các hành động được liệt kê đối với mỗi lượt đọc.
Một nghiên cứu có hệ thống các tác phẩm của Peter Drucker sẽ thuyết phục bạn rằng con người này đã có và tiếp tục có một ảnh hưởng khác thường lên các định chế hoạt động của Hoa Kỳ và của thế giới phát triển. Quan trọng hơn, một nghiên cứu như vậy sẽ cho phép bạn cải thiện hoạt động của tổ chức của mình, dù nó là một doanh nghiệp, một định chế xã hội phi lợi nhuận, hay một thực thể chính quyền.
Cuối cùng, nếu bạn đọc 65 năm công trình của ông, bạn sẽ thấy một con người hiến dâng cho tự do, cho các định chế hoạt động, cho sự quản lý, cho thành tựu cá nhân, cho địa vị và chức năng xã hội cá nhân, cho cộng đồng, và cho các giá trị mà chúng ta chia sẻ rộng rãi trong các xã hội tự do. Và những đóng góp của Drucker đối với hoạt động của các định chế của xã hội đã chắc chắn tăng cường tự do. Như thế Huy chương Vì Tự do của Tổng thống tặng cho Drucker thậm chí còn phù hợp hơn so với được nhắc đến trong tuyên dương của Nhà Trắng.

(*): Joseph A. Maciariello là Giáo sư Horton về Quản lý tại Trường Cao học Quản lý mang tên Peter F. Drucker và Masatoshi Ito ở Đại học Claremont. Ông là bạn lâu đời và đồng nghiệp của Peter Drucker. Ông đã cộng tác với Drucker trong "Drucker Hàng ngày - The Daily Drucker," được xuất bản mùa thu 2004. Giáo sư Maciariello dạy khóa học "Drucker nói về Quản lý " cho các sinh viên MBA và MBA điều hành.Maciariello, Leader to Leader, No. 37 Summer 2005
 
[1] Ngày nay đã có sự thống nhất rộng rãi rằng nhiều vấn đề không có lời giải, chỉ có thể có các lựa chọn khác nhau mà thôi (tất cả các chú thích là của người dịch).
[2] Dự luật GI được thông qua thành luật năm 1944 nhằm hỗ trợ các cựu chiến binh sau Chiến tranh Thế giới II: chữa bệnh, nhà ở, lập nghiệp và đặc biệt là giáo dục (cựu binh được chọn vào học trường mà mình thích, nếu trúng tuyển thì không phải đóng học phí. Sau 7 năm 2,3 triệu người đã học cao đẳng và đại học, 3,5 triệu đã học nghề, 3,4 triệu đã được đào tạo trong công việc theo tinh thần của luật GI).
[3] Cuốn này đã được Nhà Xuất bản Trẻ ấn hành bằng tiếng Việt, 2003, 2004.
[4] Perisable: dễ bị héo, ôi, hỏng. Tuy kiến thức được tích tụ, khi một người đã dùng nó không mất đi và người khác vẫn dùng được, song tri thức một khi đã trở thành kiến thức chung thì khó có thể mang lại lợi ích kinh tế cho người sở hữu, vì thế nó dễ hỏng.
[5] Bài báo này xuất hiện vào mùa hè 2005, và mùa đông năm ấy Drucker mất, nên khả năng này đã không còn.
 
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574466

Hôm nay

264

Hôm qua

2317

Tuần này

22012

Tháng này

221523

Tháng qua

130677

Tất cả

114574466