Trong cuốn " Đối thoại giữa người thành Milet và người thành Athènes " sử gia Hi Lạp thời thượng cổ Thucydide (460-395 TCN) nói: "Các vị thần cũng như con người đều bị điều động bởi một định luật thiên nhiên thúc đẩy những kẻ mạnh nhất thống trị những kẻ khác... Luật đó có trước chúng ta và sẽ tiếp tục tồn tại sau chúng ta". Câu nói của Thucydide có thể được hiểu là sự thành hình của mọi tổ chức xã hội loài người chỉ tuân theo một định luật thiên nhiên là sức mạnh: từ một nhóm, một bộ lạc thuộc một chủng tộc, đến một quốc gia gồm nhiều chủng tộc, một đế quốc gồm nhiều dân tộc. Định luật này cũng giải thích sự sụp đổ của mọi đế quốc khi không còn được duy trì bởi sức mạnh nữa như đế quốc đầu tiên trên thế giới, Sargon vùng Lưỡng Hà ( Mésopotamie), Ai Cập, Ba Tư, Macédoine, Mông Cổ... , nhưng không đủ để giải thích lí do sự trường tồn của 2 đế quốc La Mã và Trung Hoa : La Mã, nếu kể từ thời Cộng Hoà đến khi thất thủ Constantinople (Istanbul), thì khoảng 1800 - 2000 năm. Đế quốc Trung Hoa, nếu kể từ khi Hán Vũ Đế thôn tính đế quốc Nam Việt đến triều Thanh, cũng khoảng vậy. Sở dĩ 2 đế quốc này tồn tại được lâu dài là vì đã biết tạo cho mình những quyền lực chính trị, kinh tế, văn hoá, tư duy, để dựa vào đó mà ngự trị chứ không phải chỉ dựa vào sức mạnh quân sự.
Nhưng ngoài sự giống nhau về thời gian tồn tại, 2 đế quốc La Mã và Trung Hoa hoàn toàn khác nhau địa lí và nhân văn mà nhà địa lí học người Đức Ratzel ((1844-1904) gộp chung lại dưới một thuật ngữ: Địa lí-Nhân văn (Anthropogéographie) trước khi cho ra đời khoa Địa-Chính trị (Géopolitique), thật ra chỉ là một ngành của Địa lí-Nhân văn:
Tôi xin tuần tự nói về:
Những khác biệt về nhân văn
Những khác biệt về địa lí
Những diễn tiến khác nhau về kinh tế, chính trị và tư duy
1. Những khác biệt về nhân văn
Đế quốc La Mã gồm nhiều dân tộc khác nhau nhưng đa số đều thuộc cùng một chủng tộc Ấn-Âu ::
Nguồn gốc của chủng tộc này ở Trung Á (Nam Nga và Iran). Cách đây 5-6 ngàn năm những bộ lạc Ấn- Âu, từng đợt một, đi về phía Đông xâm chiếm toàn thể miền Bắc Ấn Độ, đi về phía Tây định cư ở những phần đất quanh Địa Trung Hải và toàn thể Châu Âu bây giờ. Những dân tộc Tây phương ngày nay là dòng dõi của những bộ lạc đó nên trong ngôn ngữ vẫn còn giữ được gốc tiếng Ấn-Âu cổ là tiếng Phạn (Sanskrit) của Kinh Vệ Đà. Cũng vì vậy mà thần thoại Hi Lạp có nhiều điểm tương đồng với thần thoại Ấn Độ. Khi sáp nhập những Thành - Quốc Hi Lạp vào đế quốc mình, người La Mã không những vẫn tiếp tục truyền thống văn hoá Hi Lạp mà còn lấy lại những thần thoại Hi Lạp, chỉ đổi tên các vị thần, làm đạo giáo cho mình. Người La Mã cũng rất khôn ngoan: khi sáp nhập vào đế quốc mình đất nước của các chủng tộc khác như Ai Cập, Do Thái, Carthage... , không bao giờ đặt vấn đề chủng tộc hay đạo giáo khác nhau trong đế quốc để chủng tộc này chống chủng tộc kia, đạo này chống đạo kia. Người La Mã muốn duy trì hoà bình giữa mọi dân tộc trong đế quốc, gọi là Hòa bình La Mã (Pax Romana) để khai thác tận lực tiềm năng kinh tế của mỗi dân tộc và đem lại lợi lộc cho mình.
Đế quốc Trung Hoa gồm nhiều chủng tộc khác nhau nhưng chỉ có một chủng tộc được đề cao là chủng tộc Hoa Hạ, sau này được gọi là tộc Hán :
Chủng tộc Hoa Hạ từ thời cổ sơ vẫn sống bằng nghề canh nông ở lưu vực sông Hoàng Hà. Khi dân số tăng trưởng đồng ruộng sông Hoàng Hà không đủ nuôi dân, Tần Thủy Hoàng thấy cần phải hợp nhất những nước thuộc chủng tộc Hoa Hạ với nhau để một mặt chống lại những chủng tộc du mục hung hãn phương Bắc, một mặt tiến về phía Nam sông Dương Tử, cướp ruộng đất của người Bách Việt. Nhà Hán tiếp tục mưu đồ của Tần Thủy Hoàng : Bắt đầu bằng tiêu diệt nước Sở (bị coi là Sở di vì đa số dân là người Bách Việt). Sau lần lần thôn tính những nước Bách Việt khác. Nhưng đế quốc Hán gặp phải kỳ phùng địch thủ là đế quốc Nam Việt của Triệu Vũ Đế (Triệu Đà). Nhà Hán phải đợi đến 3 đời sau và phải dùng mỹ nhân kế (Cù Thị) mới tiêu diệt được nước Nam Việt và cướp được toàn thể đất đai, rừng rú và đồng ruộng phì nhiêu của người Bách Việt. Người Hán cho tới bây giờ vẫn thâm thù nước Nam Việt và mang nhiều mặc cảm với người Việt Nam vì Triệu Vũ Vương đã dám xưng đế trước Hán Cao Tổ (207 TCN) làm nhà Hán phải sai sứ sang dọa dẫm sẽ phá bỏ mồ mả tổ tiên của Triệu Vũ Đế ở Chân Định Triệu Vũ Đế mới chịu bỏ đế hiệu. Khi Hán Cao Tổ mất Vũ Vương lấy lại đế hiệu (183 TCN) rồi đem binh đi đánh Tràng Sa ( thuộc tỉnh Hồ Nam ) khiến Hán hậu lại phải sai sứ sang van lơn xin Triệu Vũ Vương bỏ đế hiệu để giữ hoà hiếu ! Đó cũng là số phận của 100 tộc Việt tuy đông hơn tộc Hán nhưng quá chia rẽ nhau lại không có một lãnh tụ nào có đủ khả năng thay thế Triệu Vũ Đế. Giả thử cháu chắt Triệu Vũ Đế có được 1 phần 10 can trường của Triệu Vũ Đế thì Nam Việt đã vẫn hùng cứ ở phía Nam sông Dương Tử và dân tộc Bách Việt đã không bị Hán hoá.
2. Những khác biệt về địa lí
Khi làm bá chủ Địa Trung Hải đế quốc La Mã đã trở thành đế quốc hàng hải đầu tiên trên thế giới :
La Mã được coi là đế quốc hàng hải (empire maritime,) đầu tiên trên thế giới mở đầu cho những đế quốc hàng hải Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp, Anh sau này vì là đế quốc đầu tiên đã thành công trong việc chiếm hữu biển Địa Trung Hải làm của riêng mình để qua đường biển đi xâm chiếm những vùng đất sâu trong nội địa, dùng biển để nối liền những lãnh thổ xa cách nhau trong đế quốc, đồng thời cũng nắm quyền kiểm sát mọi hoạt động kinh tế, thương mại và giao thông giữa những tỉnh thành trong đế quốc và những nước ở ngoài Âu châu.
Khởi đầu La Mã chỉ là một thành - quốc như nhiều thành - quốc khác của những dân tộc Ấn-Âu được thành lập ở những vùng đất bao quanh Địa Trung Hải. Vì điều kiện địa lí không cho phép một dân tộc nào có vị trí trung ương và đủ rộng lớn để kiến tạo một quốc gia lục địa nên ý thức dân tộc chỉ đưa tới sự thành lập những thị thành (cités). Một số những thị thành này đạt được đủ điều kiện để trở thành những trung tâm thương mại, kinh tế, hành chính, quân sự văn hoá đủ sức mạnh khuynh loát những thị thành nhỏ bé hơn nên có tính cách một quốc gia gọi là những thành-quốc (cités-états). Những thành - quốc này luôn luôn muốn nắm ưu thế về thương mại và quân sự nên hay đánh lẫn nhau. Trong khoảng 200 năm (thế kỷ thứ 3, thứ 2 TCN), La Mã nhờ có ưu thế quân sự về đường bộ cũng như về mặt biển lại giỏi ngoại giao đã lần lần trở thành bá chủ các đảo, các thành thị, các thành - quốc quanh biển mà đa số được tạo lập bởi người Hi Lạp cả từ mấy trăm năm trước.
Người La Mã dùng những hải cảng, những thành thị và những thành - quốc này làm đầu cầu đi sâu vào nội địa cả 3 châu, chiếm hữu được hầu hết những xứ sở và làm chủ những phần đất phì nhiêu ở Bắc Phi, những khu rừng và những đồng cỏ mênh mông ở châu Âu. Ở những phần đất này, nhân công bản xứ và thành phần nô lệ được tận dụng cho sự trồng trọt, chăn nuôi súc vật, khai thác lâm sản khai thác những quặng mỏ sắt, đồng, thiết, đá cẩm thạch... Đế quốc La Mã nhờ vậy luôn luôn có đủ lương thực nuôi chừng 50 triệu dân toàn đế quốc (Bằng dân số đế quốc Hán cùng thời) và đủ nguyên liệu để đóng thuyền bè, làm võ khí, chế tạo mọi dụng cụ, đúc tượng, điêu khắc mỹ thuật, xây dựng cung điện v.v.. Từ những vùng đất năm sâu trong nội địa này, người La Mã làm những con đường xuyên lục địa rộng chừng 4 mét bằng những khối đá lớn để chuyển quân được dễ dàng và cũng để vận chuyển hàng hoá. Xứ nào có người La Mã cai trị đều được làm những con đường như vậy gọi là đường La Mã (les voies romaines). Những con đường này đều đưa đến những cửa biển hoặc đi thẳng tới thành La Mã: "Tất cả mọi đường đều đi tới La Mã" trở thành một thành ngữ. Hai con đường nổi tiếng nhất dài cả mấy ngàn cây số là con đường nối liền Tây Ban Nha qua xứ Gaule (Pháp) đưa thẳng tới La Mã và con đường nối Byzance (Constantinople) tới La Mã.
Đế quốc Trung Hoa là đế quốc lục địa thuần túy :
Tuy có bờ biển dài tới 14 ngàn cây số suốt dọc phía Đông lục địa Trung Hoa ngó ra Thái Bình Dương, đế quốc Trung Hoa là một đế quốc lục địa (Empire continental, Land Empire) thuần túy vì không có một phần đất nào ở ngoài biển khơi và cũng không biết khai thác biển khơi như người La Mã. Khó có thể nói là Thái Bình Dương không hội tụ được đủ mọi điều kiện thuận lợi như biển Địa Trung Hải để người Hán có thể như người La Mã mở rộng và đem lại giầu có cho đế quốc qua những hoạt động hàng hải. Chỉ có thể giải thích được sự vắng mặt của người Hán trên mặt biển vì 2 lí do:
- Lưu vực sông Hoàng Hà nơi người Hán sinh sống có vị thế trung ương. Nhưng phía Bấc và phía Tây bị bao bọc bởi sa mạc và đồi núi lại là đất đai của những tộc du mục hung dữ Hung Nô, Mông Cổ, Tây Tạng… luôn luôn đi xâm chiếm đất đai màu mỡ của người Hán và cướp phá mùa màng. Phía Đông giáp biển Đông Bắc (phía Bắc của biển Đông Hải bây giờ) đầy băng giá và sóng lớn, đất ven biển lại đầy sỏi đá không thể trồng lúa mì lúa gạo được. Vì vậy người Hán coi biển như 1 biên thùy.
- Người Hán chỉ biết cày ruộng nên không thể sống ở những nơi xa sông ngòi không có đất phù sa để bón ruộng nương, không có nước ngọt để tưới ruộng.
Khi chiếm được toàn thể đất Bách Việt sáp nhập vào đế quốc mình những nước của người Bách Việt ở sát vùng biển như Ngô Việt (Chiết Giang), Mân Việt (Phúc Kiến), Nam Việt (Lạc Việt), người Hán vẫn chỉ cốt lấy đất đai cho người Hán có thêm đất cày cấy chứ không chịu học hỏi cái tài của người Bách Việt về biển cả : Người Bách Việt đã làm chủ được kỹ thuật đi biển rất sớm nên ngay từ thời thượng cổ sự giao thương trên biển giữa Bách Việt và các nước Đông Nam Á cũng đã rất phát triển : Thời đại đế quốc Nam Việt, Quảng Châu đã được coi như 1 thương khẩu quốc tế, buôn bán trao đổi với nhiều vùng, nhiều quốc gia từ Nam Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương cho tới tận Phi Châu. Cho đến ngày nay những người Tàu hải ngoại đều là con cháu người Bách Việt khi trước vì đều gốc gác ở những tỉnh Đông Nam nước Tàu. Tiếng Quảng Đông (Nam Việt khi trước) vẫn là tiếng thông dụng nhất ở những nơi có người Tàu trên thế giới chứ không phải là tiếng quan thoại Bắc Kinh. Những hải cảng lớn như Thượng Hải, Hồng Kông, Quảng Châu... đều nằm trên bờ biển của đất Bách Việt cũ.
Như đã nói trên, khi dân số tăng, sông Hoàng Hà lại hay gây ra ngập lụt khiến không đủ đất cho dân cày cấy, Hán Vũ Đế lấy lại chính sách của Tần Thủy Hoàng, bắt những người trai tráng nông dân và những tội đồ phải đăng lính lội bộ xuống miền Nam chiếm đất của người Bách Việt. Miền Nam mưa gió thuận hoà, đất sông Dương Tử lại rất là màu mỡ có thể cho một năm 2 mùa, mùa hạ lúa gạo, mùa đông lúa mì. Một khi đã được phân phối đất đai để cày cấy, những người lính nông dân này không có lí do gì trở về miền Bắc nữa, ở lại lấy con gái Việt và theo phong tục người Việt ở rể như những người Minh hương ở miền Nam Việt Nam sau này.
Có thể nói, chính sách Hán hóa chỉ là hậu quả của nền kinh tế nông nghiệp cần đất cần người. Chính sách này không phải chỉ được đề ra từ đời nhà Tần mà có từ đời nhà Chu, bắt đầu bằng 2 nước Ngô Việt ở vùng Chiết Giang. Sở dĩ như vậy là vì tộc Hán ít dân hơn những tộc Bách Việt nên không thể thực hiện chính sách diệt chủng được. Nhưng tôi cũng có thể suy luận ngược lại là trong khoảng thời gian 1 ngàn năm dân Hán đều đã bị Việt hóa vì ít hơn dân Bách Việt. Trái lại không còn văn hóa Bách Việt nữa vì mọi người Bách Việt đều phải học văn tự Hán.
2.Sự khác biệt về nhân văn và địa lí đã tạo ra những nền kinh tế khác nhau và những diễn tiến khác nhau về chính trị và tư duy
Người La Mã đã sớm biết tạo cho mình một nền kinh tế đa dạng trong đó thương nghiệp nắm phần chủ chốt vì biết lợi dụng vị thế đặc biệt của Địa Trung Hải :
Địa Trung Hải nằm giữa 3 châu Âu, Á (Cận đông), Phi (Bắc Phi) nên cả ngàn năm về trước đã là nơi giao tiếp của mọi nền văn minh của nhân loại, đồng thời cũng là ngã ba giao thông tiện lợi nhất cho những dân tộc của cả 3 châu có thể giao thương với nhau. Khi những dân tộc này cùng nằm trong đế quốc La Mã thì Địa Trung Hải nghiễm nhiên trở thành một thị trường rộng lớn cho mọi sản phẩm của mỗi miền trong đế quốc: sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp khai thác hầm mỏ, kỹ nghệ... Nền kinh tế nhờ vậy đã trở thành rất đa dạng mà trong nền kinh tế này thương nghiệp là chủ chốt, nông nghiệp chỉ là một thành phần của nền kinh tế nông, công, thương.
Nền kinh tế đa dạng của La Mã tạo trong xã hội nhiều thành phần có những quyền lợi trái ngược nhau khiến luôn luôn có những xung đột, những tranh chấp đòi hỏi sự trọng tài của quyền lực chính trị. Nhưng khi quyền lực chính trị trở thành trọng tài thì đã mặc nhiên từ bỏ tính cách tuyệt đối của mình. Muốn làm trọng tài phải đặt ra luật lệ phân minh. Luật La Mã vẫn còn được áp dụng cho tới bây giờ và là nền móng của mọi chế độ Pháp trị thời nay. Đế quốc La Mã đã gieo hạt giống dân chủ cho những chế độ Tây phương sau này. Tất nhiên là ngay từ thời đó cũng đã có những thành phần nắm được những ưu thế về kinh tế, dùng lợi khí kinh tế làm áp lực trên chính quyền để lái chính trị theo 1 chiều hướng có lợi cho mình. Những "lobbies" đã có từ thời đó.
Địa Trung Hải cũng là nơi lưu thông mọi tư tưởng triết học, khoa học, đạo giáo theo truyền thống đã có từ thời Cổ Hi Lạp. Trong số các đạo giáo có Ki Tô giáo từ Do Thái đến. Ki Tô giáo đưa ra ý niệm chỉ có 1 đấng sáng tạo con người và vạn vật vì vậy mọi chủng tộc, mọi con người sinh ra đều bình đẳng. Đạo này được sự hưởng ứng của những thành phần cùng đinh trong đế quốc, đặc biệt là thành phần nô lệ và thành phần những người làm công (Proletarius, dịch vô sản là sai nghĩa), công dân hạng thứ 6 chót cùng trong xã hội La Mã chỉ hơn thành phần nô lệ. Tất nhiên là Ki Tô giáo bị chính quyền La Mã coi là làm đảo lộn trật tự xã hội nên đã bị đàn áp dữ dội trong 400 năm. Nhưng ý tưởng mọi người đều bình đẳng trong mọi nền dân chủ Tây phương cũng ở đạo này mà ra.
Trái lại người Hán trong 2 ngàn năm chỉ biết bám chặt vào nông nghiệp :
Nông nghiệp thời cổ sơ cách đây 10 ngàn năm gọi là nông nghiệp sinh nhai, bắt đầu ở vùng Trung Đông chỉ có mục đích sản xuất đủ lương thực cho chính gia đình của mỗi người nông dân.
Nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật (Thí dụ lưỡi cày bằng sắt), sản xuất nông nghiệp tăng trưởng vượt quá nhu cầu của gia đình hay của bộ lạc để tạo ra một nền kinh tế nông nghiệp, thì quyền lực chính trị tự cho mình cái quyền quản trị nền kinh tế đó, từ sản xuất (cung cấp phương tiện sản xuất là đất và nước) cho đến phân phối sản phẩm. Đó là trường hợp của Cổ Ai Cập và của Trung Hoa từ thời phong kiến nhà Chu.
Tần Thủy Hoàng cũng vẫn như phong kiến nhà Chu coi nông nghiệp là chủ chốt. Nhưng để sự quản trị nông nghiệp được hữu hiệu hơn, một phần cũng vì muốn nắm toàn quyền sở hữu đất đai ngày trước nằm trong tay giới quí tộc, nhà Tần, nhà Hán, đã thay chế độ phong kiến nhà Chu bầng chế độ Trung ương Tập quyền.
Dưới chế độ này trong xã hội nông nghiệp Trung Quốc chỉ có 2 hạng người: người làm ruộng (nông dân) và người cai trị (kẻ sĩ). Kẻ sĩ là giới quan lại được tuyển lựa theo tiêu chuẩn Khổng giáo: phải tuyệt đối trung thành với quyền lực chính trị (triều đình) để thay mặt triều đình chia ruộng đất (công điền) cho những tổ, những hộ gồm nhiều gia đình nông dân, lo việc trị thủy phân phát nước cho người dân có nước cày cấy, lo thâu thuế và duy trì tôn ti trật tự..
Cũng vì trong xã hội chỉ có 2 thành phần và người sản xuất cũng là người tiêu thụ không có người trung gian, không có sự mất cân bằng giữa sản xuất và phân phát, nên xã hội có vẻ ổn định. Nhưng cũng vì vậy mà trong suốt 2000 năm, xã hội Trung Quốc vẫn chỉ là 1 xã hội nông nghiệp bất động, sơ cứng.
Trái với La Mã nầm trong 1 thế giới "mở", Đế quốc Trung Hoa là 1 thế giới "kín cửa cao tường". Tư tưởng được gói trọn trong Khổng Giáo hậu Tần. Đạo Phật là đạo độc nhất từ nơi khác đến nhưng hoàn toàn bị Hán hóa và được thần thoại hóa qua chuyện Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh. Khổng Giáo được nhà Hán viết lại chỉ có mục đích phục vụ chế độ Trung ương tập quyền và trở thành 1 chủ nghĩa gọi là "Quân Phu Phụ". Triết học của Khổng Tử trong kinh Dịch trở thành môn bói toán và chỉ còn được tóm tắt trong 3 chữ "Thiên Địa Nhân".
Kết luận
Với con số 800 triệu nông dân, khó có thể nói là Trung Quốc ngày nay không còn là 1 nước nông nghiệp. Nhưng đồng thời Trung Quốc cũng là siêu cường thứ 2 trên thế giới nếu chỉ căn cứ vào Tổng Sản lượng (PIB). Tuy nền kinh tế Trung Quốc vẫn là 1 nền kinh tế chỉ huy hướng về xuất khẩu nhưng cũng tạo trong xã hội nhiều thành phần, nhiều bất công và nhiều chênh lệch giầu nghèo như trong xã hội Âu Tây thời kỳ đầu tư bản. Chỉ khác là đấu tranh giai cấp trong xã hội Tây phương ở thời kỳ đó đã đưa đến sự tạo lập những nền Dân chủ Xã-hội phỏng theo ý của Engels. Nhưng cũng phải nói là từ khi Engels đề xướng đến khi ra đời chế độ Dân chủ-Xã hội đầu tiên, phải nửa thế kỷ. Để tránh những diễn tiến trong xã hội giống ở Tây phương, đảng Cộng sản Trung Quốc muốn lấy danh Khổng giáo để tạo ra 1 chủ nghĩa gọi là Xã hội Hài hòa. Vấn đề là chủ nghĩa Hài hòa Khổng giáo chỉ thich hợp với nền kinh tế nông nghiệp, có thể thay thế Dân chủ-Xã hội của Engels được không?
Còn 1 vấn đề nữa là trở thành 1 siêu cường kinh tế, Trung Quốc thấy đã đến lúc thể hiện mộng bá quyền của mình:
- Bành trướng lục địa xuống miền Nam Đông Nam Á: Óc Đại Hán vẫn được trau dồi là chỗ nào có vết chân người Hán là đất của người Hán. Nghĩa là khắp cả ĐNÁ từ Indonésie cho tới Ấn độ. Cái rào cản cần phải vượt qua là Việt Nam.
- Bành trướng hàng hải như người La Mã và các đế quốc Tây phương sau này: Trung Quốc cho là mọi hải phận tiếp giáp với bờ biển dài 14 ngàn cây số của mình đều thuộc về mình, nghĩa là tất cả những đảo ngoài khơi biển Đông Hải và biển Nam Hải từ Nhật Bản cho đến Ấn Độ Dương, bất chấp thềm lục địa thuộc về nước nào. Mộng của Trung Quốc là 1 ngày kia qua biển Nam Hải sẽ đặt chân lên Úc Châu đất rộng người thưa....[...]
Sự khác biệt về địa lí và nhân văn giữa 2 đế quốc La Mã và Trung Hoa thời thượng cổ đã đưa tới những nền kinh tế khác nhau, giải thích một phần nào sự khác biệt về tư duy và chính trị giữa Trung Quốc và Tây phương ngày nay.