Bất ổn, lạm phát và dân số già đi, đó là những rào cản trên con đường Trung Quốc trở thành kẻ thống trị.
Chính xác là khi nào Trung Quốc sẽ cai quản thế giới?
Bất ổn, lạm phát và dân số già đi, đó là những rào cản trên con đường Trung Quốc trở thành kẻ thống trị.
Chính xác là khi nào Trung Quốc sẽ cai quản thế giới?
Khoảnh khắc điều đó thành sự thật dường như đang đến rất gần, tính theo từng phút. Đến năm 2050, Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới – HSBC bảo thế. Không, năm 2040 cơ – các nhà phân tích ở Ngân hàng Đức (Deutsche Bank) khẳng định. Hãy cứ cho là 2030 đi – Ngân hàng Thế giới nói với chúng ta như vậy. Goldman Sachs cho rằng 2020 mới là năm tính số. Còn IMF thì cách đây vài tuần đã nói là nền kinh tế Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ vào năm 2016. Có thể một ai đó kia còn cho là Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới từ 5 năm về trước rồi.
Nhưng chúng ta đừng để bị cuốn đi vội. Có rất nhiều xáo động đang sôi sục dưới lớp vỏ của sự thần kỳ Trung Quốc. Hãy xem nhanh vài lát cắt sau:
• Ở Hồ Nam (Hunan), những người nông dân bị các công ty bất động sản hung bạo cướp đất phát hiện ra rằng chính quyền địa phương không đứng về phía họ. Một anh nông dân đã tự thiêu, và phong trào phản đối nhanh chóng lan từ tỉnh lỵ này sang tỉnh lỵ kia.
• Một vụ rò rỉ hóa chất xuống sông đã cắt đứt nguồn nước tới Cáp Nhĩ Tân (Harbin), thành phố 4 triệu dân, gây phẫn nộ trong dư luận.
• Ở Nội Mông, một tài xế xe tải người Hán giết chết một người chăn gia súc ở địa phương bằng hành động gây tai nạn rồi bỏ chạy. Bạo động bùng lên và kéo dài nhiều ngày trong sắc dân thiểu số.
• Bạo động ở tỉnh Tân Cương vượt khỏi tầm kiểm soát, buộc Nhà nước phải chặn Internet trên một khu vực rộng gấp ba lần bang California.
• Tại thành phố ven biển Giang Tô (Xintang), đám lính được gửi đến để đàn áp biểu tình của công nhân nhập cư đã xô đẩy làm một phụ nữ mang bầu bị ngã, gây nên một làn sóng phẫn nộ mà chỉ lực lượng bán vũ trang, sử dụng xe bọc sắt, mới xử lý nổi.
An ninh của Trung Quốc giỏi nhất thế giới ở lĩnh vực trấn áp bạo động quy mô lớn, và những cuộc biểu tình đó không làm nên một loại đối lập có tổ chức nào đối với sự kiểm soát của Đảng Cộng sản. Phần lớn những người biểu tình chỉ nhằm vào quan chức địa phương, và họ bị kích động bởi những nỗi bất mãn riêng của địa phương. Ba thập kỷ liền tăng trưởng hai con số đã mang lại cho các lãnh đạo Trung Quốc sự kiên nhẫn rất lớn của cộng đồng.
Nhưng Trung Quốc là một nước đo số những cuộc biểu tình lớn hàng năm bằng con số chục nghìn. Riêng năm 2006, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc báo cáo có khoảng 60.000 “vụ tập hợp đông người” – lối nói tránh được sử dụng chính thức để chỉ các cuộc biểu tình biểu thị thái độ phẫn nộ của quần chúng, với ít nhất 50 người tham gia. Năm 2007, con số vọt lên 80.000. Mặc dù những số liệu như thế không còn được công bố nữa, nhưng thông tin rò rỉ cho biết con số của năm 2008 lên tới 127.000 vụ. Hiện nay, gần như chắc chắn là còn cao hơn.
Chắc chắn không có bằng chứng đáng tin cậy nào về việc Trung Quốc đang ở trên bờ vực một cuộc khủng hoảng không được báo trước, nhưng tất cả những gì mà cơn thịnh nộ của dân chúng hướng vào thì đều cho thấy những thách thức khổng lồ trên con đường phía trước. Những cường quốc đang nổi lên như Ấn Độ, Brazil và Thổ Nhĩ Kỳ có thể tiếp tục tăng trưởng trong 10 năm tới với cùng cái công thức căn bản đã kích thích tăng trưởng trong 10 năm qua. Trung Quốc, ngược lại, phải tiến hành những cuộc cải cách cực kỳ phức tạp và đầy tham vọng để có thể duy trì động lực trở thành một cường quốc hiện đại, và các nhà lãnh đạo của nước này hiểu điều đó.
Cuộc khủng hoảng tài chính làm lộ rõ sự phụ thuộc của Trung Quốc – nếu muốn tăng trưởng – vào sức mua của người tiêu dùng ở Mỹ, Âu châu và Nhật Bản; sự phụ thuộc đó tạo ra tình trạng dễ bị tổn thương hết sức nguy hiểm. Những ai cho rằng có thể lập chính xác biểu đồ tăng trưởng của Trung Quốc dường như đã giả định rằng lãnh đạo Trung Quốc có thể thay đổi một cách vững chắc mô hình tăng trưởng của đất nước theo hướng nâng tiêu dùng nội địa lên, chuyển núi tài sản khổng lồ từ các công ty quốc doanh của Trung Quốc sang hàng trăm triệu người tiêu dùng mới.
Đó đúng là một giả định. Bất chấp những nỗ lực kiệt cùng của các nhà thiết kế chính sách ở Bắc Kinh, năm ngoái, phần tiêu thụ của hộ gia đình góp vào tăng trưởng của Trung Quốc thật sự đã đi theo chiều ngược lại, một phần vì có những nhân vật môi giới quyền lực nằm trong chính giới – những kẻ đã kiếm quá nhiều tiền từ mô hình cũ đến nỗi không thể áp dụng đầy đủ một mô hình mới được nữa.
Không chỉ có thế, cùng với việc khoảng cách giàu nghèo tiếp tục mở rộng, bất ổn xã hội gần như chắc chắn là sẽ buộc nhà nước phải hạn chế ngặt nghèo hơn quyền tự do ngôn luận và tự do tụ họp. Điều đó có thể tạo ra phản ứng dữ dội, một khi những kỳ vọng về sự thịnh vượng vật chất tăng lên mà lại không được đáp ứng. Nguy hiểm nhất đối với tương lai của đảng cầm quyền là, các thành phần trong chính phủ có thể không đồng ý với nhau về cách nhà nước phản ứng trước một cơn biến động bất thình lình do bạo loạn có tổ chức gây ra.
Dân số Trung Quốc cũng gây thêm một thách thức nghiêm trọng khác. Lao động của nước này đang trở nên đắt đỏ hơn khi mà Trung Quốc đô thị hóa và dịch chuyển lên cao trên chuỗi giá trị sản xuất. Dân số cũng đang già đi, bởi vì chính sách một con và nhiều thành tố khác đang khiến cho ngày một ít người trẻ tham gia lực lượng lao động hơn. Khi có thêm nhiều người Trung Quốc đến tuổi về hưu, thì nhu cầu mở rộng và củng cố mạng lưới an sinh xã hội chính thức để cấp lương hưu và bảo hiểm y tế cho hàng trăm triệu người sẽ sản sinh ra những khoản chi phí chưa từng có tiền lệ.
Trong bối cảnh phần lớn tăng trưởng của Trung Quốc vẫn bắt nguồn từ các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng và đầu tư do nhà nước hướng dẫn, ảnh hưởng lên cái môi trường vốn đã bị đánh thuế quá mức có thể sẽ làm cả hệ thống bị sốc. Suy thoái đất đai, chất lượng không khí và thiếu nước là những vấn đề khẩn cấp và đang gia tăng. Khả năng chịu đựng môi trường xuống cấp của người dân Trung Quốc khá hơn hầu hết các thị trường đang phát triển khác (chưa nói tới thế giới phát triển), nhưng nguy cơ một vụ việc về môi trường gây ra sự cố bất ổn và nguy hiểm đang tăng lên từng ngày.
Tiếp nữa là lạm phát, mà hồi tháng 5 đã đạt tỷ lệ cao nhất trong 34 tháng qua, theo số liệu của Cục Thống kê Quốc gia. Giá lương thực tăng 11,7%. Chính sách tiền tệ mở rộng quá mức, chi phí giao thông vận tải đắt lên do đô thị hóa, và tăng lương quy mô lớn chỉ là một vài trong vô số những biến thể khiến chúng ta tin chắc rằng chính phủ sẽ phải vất vả hơn để kiềm chế lạm phát trong những năm trước mắt.
Cuối cùng, khi những nhu cầu phổ quát, được thể hiện trên mạng và trong môi trường blog ở Trung Quốc, đóng một vai trò lớn hơn trong quá trình các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc ra quyết định, thì những công dân bất mãn sẽ kiểm tra năng lực thực thi chính sách chiến lược của chính phủ. Điều ấy cũng có thể làm hạn chế tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong dài hạn.
Ngay cả nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc đạt được những tiến bộ to lớn trong cải cách quốc nội, người ta cũng sẽ thấy rằng môi trường quốc tế đang trở nên ít thuận lợi hơn cho việc mở rộng nền kinh tế. Giá dầu, khí đốt, kim loại và khoáng chất tăng cao – những thứ mà Trung Quốc cần để làm năng lượng cho nền kinh tế – sẽ đổ gánh nặng lên tăng trưởng. Huy động tất cả những thị trường đang nổi lên sẽ gây thêm sức ép đối với giá lương thực thực phẩm và các mặt hàng tiêu dùng khác, kìm hãm tăng trưởng và phá hoại niềm tin của người tiêu dùng, vốn là nguồn quan trọng nhất cho ổn định chính trị – xã hội ở Trung Quốc.
Vậy còn quan hệ của Trung Quốc với Mỹ thì sao? Tăng trưởng mạnh ở Trung Quốc, đi kèm với chính sách tài khóa không bền vững, thất nghiệp cao và nhu cầu tiêu dùng suy yếu ở Hoa Kỳ, sẽ tạo ra va chạm giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới – đặc biệt là bằng cách tăng đáng kể nguy cơ bảo hộ mậu dịch của cả hai bên. Hàng rào bảo hộ là cả một vấn đề đối với những công ty Mỹ muốn tìm đường đến với người tiêu dùng Trung Quốc, nhưng nó còn gây phiền phức hơn thế nhiều cho dân chúng Trung Quốc – những người đang phải phụ thuộc vào độ ổn định ngân sách, đầu tư, công nghệ và tiêu dùng của Mỹ.
Nếu không có gì khác, những thách thức khổng lồ phía trước Trung Quốc tạo ra quá nhiều lý do để người ta nghi ngờ kế hoạch dài hạn của nền kinh tế nhằm đạt tới địa vị thống trị toàn cầu. Như Yogi Berra từng nói: “Thật khó để dự đoán, nhất là về tương lai”.
— Ông Bremmer là chủ tịch Tập đoàn Eurasia, một công ty tư vấn chuyên về đánh giá rủi ro chính trị. Cuốn sách gần đây nhất của ông là “Sự cáo chung của thị trường tự do”.
Chú thích ảnh, từ trên xuống dưới: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn John Bussey của tờ Wall Street Journal, Chủ tịch tập đoàn Eurasia, Ian Bremmer, đã khẳng định rằng để trở thành siêu cường kinh tế như dự đoán trong thế kỷ này, Trung Quốc phải tái cấu trúc một cách căn bản nền kinh tế của họ.
Ảnh 2: Cậu bé này đang chở ông bà bằng xe bò kéo, ngoại ô Bắc Kinh. Cùng với việc ngày càng nhiều người Trung Quốc đến tuổi hưu trí, nhu cầu cấp lương hưu và bảo hiểm y tế sẽ đẩy đến những chi phí chưa từng có tiền lệ.
Ảnh 3: Những chiếc xe công an bị lật đổ thành hàng trên đường phố sau một cuộc bạo động ở Xintang, hồi tháng 6. Mỗi năm Trung Quốc có hàng chục nghìn cuộc biểu tình quy mô lớn.
Người dịch: Đan Thanh
Nguồn: Wall Street Journal (Ngày 9-7-2011)/BS
2245
2314
2559
220070
130677
114573013